10 bài hát hàng đầu năm 1984 năm 2022

Vui xuân - tác phẩm ảnh dự thi ảnh Hạnh phúc mùa xuân - Tác giả: Nguyen Vu Vuong

Bởi Văn Cao đã viết Mùa xuân đầu tiên từ năm hòa bình đầu tiên, nhưng bài hát chưa được phổ biến. Mãi chín năm sau, khoảng năm 1984 tôi mới lần đầu được nghe Mùa xuân đầu tiên hát tại nhà Văn Cao.

Như có một luồng điện chạy suốt châu thân tôi khi nghe bài hát ấy, dù ca sĩ là ai thì tôi không biết và cũng chưa kịp tìm hiểu.

Ngay lúc đó, tôi đã nói: đó là bản “thánh ca” của ngày thống nhất. Đây là bài hát viết cho cả dân tộc Việt Nam, và là một trong những tác phẩm hồn nhiên nhất của Văn Cao.

Tôi đã sống ở Sài Gòn suốt tháng 5-1975, và tôi cảm nhận rằng bài hát của Văn Cao đã ánh xạ được tất cả hình ảnh “găm” nhất vào tâm hồn tôi trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy.

Văn Cao là một nhạc sĩ thiên tài, nhưng thiên tài cũng không bằng khi ta gọi ông là “nhạc sĩ của nhân dân”. Đó là người nghệ sĩ nghe được những tiếng lòng thầm lặng, những biểu hiện vi tế nhất trong tâm hồn nhân dân. Trong những ngày hòa bình đầu tiên.

Trong ngày thống nhất. “Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về...”, chỉ một câu mở đầu ấy thôi, cả một mùa xuân thanh bình của đất nước đã trào lên, trong trẻo và ấm áp đến kỳ lạ.

Khi người nghệ sĩ tình nguyện đi với nhân dân, hòa chung số phận mình với số phận nhân dân, và nhất là khi người ấy là một tài năng lớn thì Mùa xuân đầu tiên ra đời như một điều không thể khác.

Chỉ tiếc là rất lâu sau đó ca khúc này mới được chính thức phổ biến.

Và nhanh hơn rất nhiều, chỉ 10 năm trở lại đây Mùa xuân đầu tiên đã trở thành bài hát yêu thương của hàng triệu người Việt.

“Yêu thương” chứ không chỉ “yêu thích”. Nghe bài hát của Văn Cao, nhất là ở đoạn lời ca: “Từ đây người biết thương người/Từ đây người biết yêu người/” thì hàng vạn người Việt bình thường như tôi đã rơi nước mắt.

Âm nhạc và lời ca từ bài hát đã chắt lọc và khởi phát những vầng sáng trên gương mặt biết bao người Việt yêu hòa bình, yêu đất nước và khát khao được sống trên một dải non sông Việt Nam đoàn tụ.

Những khát khao lớn nhất, dai dẳng nhất, đau đớn nhất của dân tộc chúng ta đã được thể hiện quá rõ ràng trong bài hát ấy.

Và niềm tin, tin vào sự trường tồn của Việt Nam cũng hằn in trên từng dòng nhạc, từng đoạn lời của bài hát ấy.

Hãy nghe Mùa xuân đầu tiên và sẽ hiểu dân tộc Việt Nam muốn gì, quyết liệt và đau đớn với những gì: “Người mẹ nhìn đàn con nay đã về - mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên - nước mắt trên vai anh, giọt rơi ấm đôi vai anh - niềm vui phút giây như đang long lanh...”.

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

"Take On Me"Đĩa đơn của A-ha
từ album Hunting High and Low Mặt BPhát hànhĐịnh dạngThu âmThể loạiThời lượngHãng đĩaSáng tácSản xuấtThứ tự đĩa đơn của A-haVideo âm nhạc

  • "And You Tell Me"
  • "Stop! And Make Your Mind Up"
  • "Love Is Reason"

  • 19 tháng 10 năm 1984 [bản 1984]
  • 16 tháng 9 năm 1985 [bản 1985]

  • CD
  • 7"
  • 12"

1984-85

  • Synthpop
  • new wave

  • 3:10 [bản 1984]
  • 3:49 [bản 1985]

Warner Bros.

  • Magne Furuholmen
  • Morten Harket
  • Pål Waaktaar

  • John Ratcliff
  • Alan Tarney

"Take On Me"
[1984]
"Love Is Reason"
[1985]
"Take On Me" trên YouTube

"Take On Me" là một bài hát của ban nhạc người Na Uy A-ha được viết lời bởi ba thành viên Magne Furuholmen, Morten Harket và Paul Waaktaar-Savoy, và phát hành lần đầu tiên như là một đĩa đơn vào ngày 19 tháng 10 năm 1984. Phiên bản gốc được sản xuất bởi Tony Mansfield, trước khi được sản xuất bởi Alan Tarney và John Ratcliff một năm sau đó cho album phòng thu đầu tay của nhóm, Hunting High and Low [1985]. Nó được phát hành vào ngày 16 tháng 9 năm 1985 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bởi Warner Bros. Records. "Take On Me" là một bản synthpop kết hợp với những yếu tố từ new wave và sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau như đàn guitar acoustic, đàn phím và trống, mang nội dung đề cập đến một người đàn ông nảy sinh tình cảm với một cô gái, nhưng lại gặp khó khăn trong việc thổ lộ tình cảm thật của bản thân với cô. Ban đầu, bài hát được sáng tác và thu âm với tên gọi "Lesson One" vào năm 1982 và phải trải qua nhiều sự thay đổi về nội dung lời bài hát và cấu trúc âm nhạc.

Sau khi phát hành, "Take On Me" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu bắt tai cũng như quá trình sản xuất nó, đồng thời gọi đây là một điểm nhấn nổi bật từ Hunting High and Low. Bài hát đã gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, đồng thời tiếp nhận những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại với việc đứng đầu các bảng xếp hạng ở 36 quốc gia, bao gồm những thị trường lớn như Úc, Áo, Bỉ, Đức, Ireland, Ý, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển và Thụy Sĩ, đồng thời lọt vào top 10 ở hầu hết những quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở Canada, Đan Mạch, Pháp, Ireland và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, nó đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong một tuần, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên và duy nhất của A-ha, cũng như giúp họ trở thành nghệ sĩ người Na Uy đầu tiên đạt được thành tích này.

Hai video ca nhạc khác nhau đã được thực hiện cho "Take On Me", trong đó phiên bản cho bản gốc năm 1984 bao gồm những cảnh A-ha trình diễn bài hát dưới phông nền xanh. Phiên bản thứ hai được đạo diễn bởi Steve Barron, trong đó sử dụng hiệu ứng hoạt hình phác họa bằng bút chì được chuyển động qua từng khung hình để tạo cho các nhân vật chuyển động chân thực, và tập trung khai thác câu chuyện của một cô gái [do Bunty Bailey thủ vai] đã lạc vào thế giới truyện tranh của nam nhân vật trong câu chuyện [do thành viên Morten Harket thủ vai]. Nó đã nhận được tám đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 1986, và chiến thắng sáu hạng mục cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất trong một video, Video khái niệm xuất sắc nhất, Video âm nhạc thể nghiệm nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất trong một video, Kĩ xảo xuất sắc nhất trong một video và Bình chọn của người xem, bên cạnh hai đề cử ở hạng mục Video của năm và Video xuất sắc nhất của nhóm nhạc.

Để quảng bá cho "Take On Me", A-ha đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm American Bandstand, Solid Gold, Top of the Pops và giải Grammy lần thứ 28. Được ghi nhận là bài hát trứ danh trong sự nghiệp của A-ha, "Take On Me" đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như Madonna, Christina Aguilera, Pitbull, Jonas Brothers, Sara Bareilles, Tori Amos, A1 và dàn diễn viên của Glee, cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm Bumblebee, Deadpool và Deadpool 2, Despicable Me 3, Doctors, EastEnders, Family Guy và Raising Hope. Ngoài ra, video ca nhạc cho bài hát cũng được giới phê bình không ngừng tán dương bởi sự sáng tạo mang tính đột phá trước thời đại của nó, cũng như trở thành một trong những video đầu tiên được nhại lại trong lịch sử YouTube. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 7 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa 7" tại châu Âu và Anh quốc [1984][1]

  1. "Take On Me" – 3:10
  2. "And You Tell Me" – 1:48

Đĩa 12" tại châu Âu và Anh quốc [1984][2]

  1. "Take On Me" – 3:46
  2. "And You Tell Me" – 1:48
  3. "Stop! And Make Your Mind Up" – 2:57

Đĩa 7" tại châu Âu và Anh quốc [1985][3]

  1. "Take On Me" – 3:46
  2. "Love Is Reason" – 3:04

Đĩa 12" tại Anh quốc [1985][4]

  1. "Take On Me" [bản mở rộng] – 4:44
  2. "Love Is Reason" – 3:04
  3. "Take On Me" – 3:46

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Danh sách đĩa đơn bán chạy nhất thế giới
  • Danh sách đĩa đơn quán quân Hot 100 năm 1986 [Mỹ]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “a-ha – Take On Me”. Discogs. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  2. ^ “a-ha – Take On Me”. Discogs. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  3. ^ “a-ha – Take On Me”. Discogs. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  4. ^ “a-ha – Take On Me”. Discogs. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  5. ^ Kent, David [1993]. Australian Chart Book 1970–1992. St Ives, N.S.W.: Australian Chart Book. ISBN 0-646-11917-6.
  6. ^ "Austriancharts.at – a-ha – Take On Me" [bằng tiếng Đức]. Ö3 Austria Top 40. Truy cập 6 tháng 2 năm 2010.
  7. ^ "Ultratop.be – a-ha – Take On Me" [bằng tiếng Hà Lan]. Ultratop 50. Truy cập 9 tháng 8 năm 2015.
  8. ^ “RPM100 Singles”. Collectionscanada.gc.ca. ngày 12 tháng 10 năm 1985. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  9. ^ “Top 3 in Europe” [PDF]. Music & Media. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  10. ^ “European Hot 100 Singles” [PDF]. Music & Media. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  11. ^ "Lescharts.com – a-ha – Take On Me" [bằng tiếng Pháp]. Les classement single. Truy cập 6 tháng 2 năm 2009.
  12. ^ “a-ha - Take On Me” [bằng tiếng Đức]. GfK Entertainment. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  13. ^ “European Hot 100 Singles” [PDF]. Music & Media. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  14. ^ "The Irish Charts – Search Results – Take On Me". Irish Singles Chart. Truy cập 6 tháng 2 năm 2009.
  15. ^ “Indice per Interprete: A” [bằng tiếng Ý]. HitParadeItalia. 11 tháng 1 năm 1986. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2009.
  16. ^ "Nederlandse Top 40 – a-ha" [bằng tiếng Hà Lan]. Dutch Top 40. Truy cập 6 tháng 2 năm 2009.
  17. ^ "Dutchcharts.nl – a-ha – Take On Me" [bằng tiếng Hà Lan]. Single Top 100. Truy cập 8 tháng 8 năm 2015.
  18. ^ "Charts.nz – a-ha – Take On Me". Top 40 Singles. Truy cập 26 tháng 9 năm 2009.
  19. ^ "Norwegiancharts.com – a-ha – Take On Me". VG-lista. Truy cập 26 tháng 9 năm 2009.
  20. ^ “Lista Przebojów Programu 3”. LP3. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2018.
  21. ^ “South African Rock Lists Website SA Charts 1969–1989 Acts [M]”. Rock.co.za. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2015.
  22. ^ a b Salaverri, Fernando [tháng 9 năm 2005]. Sólo éxitos: año a año, 1959–2002 [ấn bản 1]. Spain: Fundación Autor-SGAE. ISBN 84-8048-639-2.
  23. ^ "Swedishcharts.com – a-ha – Take On Me". Singles Top 100. Truy cập 6 tháng 2 năm 2009.
  24. ^ "Swisscharts.com – a-ha – Take On Me". Swiss Singles Chart. Truy cập 6 tháng 2 năm 2009.
  25. ^ "a-ha: Artist Chart History". Official Charts Company. Truy cập 9 tháng 11 năm 2015.
  26. ^ "a-ha Chart History [Hot 100]". Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  27. ^ "a-ha Chart History [Adult Contemporary]". Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  28. ^ “Forum - ARIA Charts: Special Occasion Charts – Top 100 End of Year AMR Charts – 1980s”. Australian-charts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  29. ^ “Jaaroverzichten 1985” [bằng tiếng Hà Lan]. Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  30. ^ “RPM's Top 100 Singles of 1985”. RPM. ngày 28 tháng 12 năm 1985. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  31. ^ “Die TOP Charts der deutschen Hitlisten”. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  32. ^ “TOP – 1985” [bằng tiếng Pháp]. Top-france.fr. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  33. ^ “Top 100 Single-Jahrescharts” [bằng tiếng Đức]. GfK Entertainment. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  34. ^ “Single Top 100 1985” [PDF] [bằng tiếng Hà Lan]. Dutch Top 40. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  35. ^ “Jaaroverzichten – Single 1985” [bằng tiếng Hà Lan]. Single Top 100. Hung Medien. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  36. ^ “Top 100 Singles”. Music Week. London, England: Morgan-Grampian plc: 37. 26 tháng 1 năm 1985.
  37. ^ “1985: The Year in Music & Video” [PDF]. Billboard. ngày 28 tháng 12 năm 1986. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  38. ^ “European Hot 100 of the Year 1986” [PDF]. Music & Media. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  39. ^ “Top 100 Single-Jahrescharts” [bằng tiếng Đức]. GfK Entertainment. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  40. ^ “I singoli più venduti del 1986” [bằng tiếng Ý]. Hit Parade Italia. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  41. ^ Jones, Alan [6 tháng 1 năm 1990]. “Charts”. Record Mirror. London, England: United Newspapers: 46.
  42. ^ “Billboard Hot 100 60th Anniversary Interactive Chart”. Billboard. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  43. ^ “European Gold & Platinum Awards 1986” [PDF]. Music & Media. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  44. ^ “Denmark single certifications – a-ha – Take On Me”. IFPI Đan Mạch.
  45. ^ “France single certifications – a-ha – Take On Me” [bằng tiếng Pháp]. Syndicat national de l'édition phonographique.
  46. ^ “Les Singles en Or:” [bằng tiếng Pháp]. Infodisc.fr. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  47. ^ “Gold-/Platin-Datenbank [a-ha; 'Take On Me']” [bằng tiếng Đức]. Bundesverband Musikindustrie.
  48. ^ “Italy single certifications – a-ha – Take On Me” [bằng tiếng Ý]. Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2018. Chọn lệnh "Tutti gli anni" trong bảng chọn "Anno". Nhập "Take On Me" vào ô "Filtra". Chọn "Singoli online" dưới phần "Sezione".
  49. ^ “Single Certification List – July 2015” [bằng tiếng Nhật]. Recording Industry Association of Japan. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2015.
  50. ^ “Eurotipsheet Volume 3 - No 1 - Week Of January 6th 1986” [PDF]. Music & Media. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  51. ^ “Britain single certifications – a-ha – Take On Me” [bằng tiếng Anh]. British Phonographic Industry. Chọn singles trong bảng chọn Format. Chọn Gold trong nhóm lệnh Certification. Nhập Take On Me vào khung "Search BPI Awards" rồi nhấn Enter

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lời bài hát tại MetroLyrics

Đĩa đơn bán chạy nhất của Vương quốc Anh năm 1984 là họ có biết đó là Giáng sinh không? Bằng cách hỗ trợ ban nhạc, với doanh số bán biểu đồ vượt quá 2,4 triệu, theo dữ liệu của công ty biểu đồ chính thức.

Như được tiết lộ trên New & NBSP; Channel 5 Series & NBSP; Những bài hát yêu thích của thập niên 80 của Anh, hiện đang phát sóng vào thứ Sáu lúc 10 giờ tối, tổ chức từ thiện mang tính biểu tượng được tổ chức bởi Bob Geldof đều là đĩa đơn thứ hai mọi thời đại ở Anh, cũng như bán chạy nhất Đĩa đơn Giáng sinh từ trước đến nay, với chi tiêu ban đầu năm tuần ở vị trí số 1.Channel 5 series Britain's favourite 80s songs, currently airing on Fridays at 10pm, the iconic charity single organised by Bob Geldof is both the second-bestselling single of all time in the UK, as well as the best-selling Christmas single ever, with the original spending five weeks at Number 1.

XEM THÊM: Đĩa đơn bán chạy nhất của Vương quốc Anh mọi thời đại

Ban nhạc viện trợ cũng có một di sản tuyệt vời - bản gốc năm 1984 kể từ đó đã sinh ra ba phiên bản bìa liên tiếp cho tổ chức từ thiện, tất cả đều đạt vị trí thứ 1 trên bảng xếp hạng đơn chính thức. & NBSP;

Xuất hiện ở vị trí thứ hai là Stevie Wonder, người có bản ballad dịu dàng mà tôi chỉ gọi để nói rằng tôi yêu bạn đã bán được 1,82 triệu năm trong năm đó, nhanh chóng theo sau Frankie đi đến đĩa đơn gây tranh cãi của Hollywood trên 1,8 triệu. & NBSP;

Frankie đến Hollywood cũng xuất hiện khác ở vị trí thứ 4 với hai bộ lạc, phần tiếp theo để thư giãn, cũng đạt vị trí thứ 1 và bán được 1,7 triệu. Trong hai tuần vào mùa hè đó, hai bộ lạc là số 1 trong khi thư giãn là số 2.

George Michael là nghệ sĩ nổi bật nhất trong top 40, với tổng số năm lần xuất hiện, bao gồm cả một nghệ sĩ solo, với tư cách là thành viên của Wham! và là một phần của viện trợ ban nhạc.

Điểm hit lớn nhất của anh ấy trong năm là thì thầm độc thân đầu tiên của anh ấy [bao gồm trong bộ đôi LP Make It LỚN nhưng được ghi nhận là một bản phát hành đơn lẻ của George], đạt vị trí thứ 5 bán 1,2 triệu, với Wham! Họ chỉ là một vị trí phía sau lúc 6 giờ với Giáng sinh vừa qua/mọi thứ cô ấy muốn, thay đổi 937k trong quá trình này.

Bản phát hành nữ bán chạy nhất năm 1984 đến từ Chaka Khan với I Feel for You ở vị trí thứ 12, bán được 639k. Đó là bản hit đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng cho Nữ hoàng Funk, người đã tổ chức sinh nhật lần thứ 68 của mình vào tháng trước. & NBSP;

Xa hơn xuống top 40, Madonna đã phát hành một trong những hit mang tính biểu tượng nhất trong toàn bộ sự nghiệp của mình trong Like A Virgin [18], Tina Turner tìm thấy sự giải phóng và tự sinh trở thành một siêu sao nhạc rock với những gì tình yêu phải làm với nó [20 ] và Câu lạc bộ Văn hóa [hành động bán chạy nhất năm 1983 với Karma Chameleon] cũng đã tìm thấy thành công với The War Song [31].

40 bài hát bán chạy nhất hàng đầu năm 1984

& nbsp;TIÊU ĐỀHỌA SĨĐỈNH CAONĂM
1 Họ có biết đó là Giáng sinh không?BĂNG CÁ NHÂN1 1984
2 Tôi chỉ gọi để nói rằng tôi yêu bạnSTEVIE THẮC MẮC1 1984
3 THƯ GIÃNFrankie đến Hollywood1 1984
4 Hai bộ lạcFrankie đến Hollywood1 1984
5 Hai bộ lạcThì thầm bất cẩn1 1984
6 George MichaelGiáng sinh năm ngoái/mọi thứ cô ấy muốn2 1984
7 Wham!XIN CHÀO1 1984
8 Lionel RichieAgadoo2 1984
9 REN ĐENGhostbuster2 1984
10 Ray Parker jrGiáng sinh năm ngoái/mọi thứ cô ấy muốn1 1984
11 Wham!Giáng sinh năm ngoái/mọi thứ cô ấy muốn1 1984
12 Wham!XIN CHÀO1 1984
13 Lionel RichieAgadoo7 1984
14 REN ĐENGhostbuster3 1984
15 Ray Parker jrSỰ TỰ DO1 1984
16 ĐÁNH THỨC TÔI TRƯỚC KHI BẠN ĐIFrankie đến Hollywood1 1984
17 Hai bộ lạcThì thầm bất cẩn1 1984
18 George MichaelGiáng sinh năm ngoái/mọi thứ cô ấy muốn3 1984
19 Wham!XIN CHÀO2 1984
20 Lionel RichieAgadoo3 1984
21 REN ĐENGhostbuster1 1984
22 Ray Parker jrSỰ TỰ DO2 1984
23 ĐÁNH THỨC TÔI TRƯỚC KHI BẠN ĐITôi cảm thấy cho bạn3 1984
24 Chaka KhanDòng trắng [không làm điều đó]2 1984
25 Grandmaster Flash & Melle MelTất cả chúng ta đều đứng cùng nhau3 1984
26 Paul McCartney và Frog ChorusTôi cảm thấy cho bạn2 1984
27 Chaka KhanDòng trắng [không làm điều đó]3 1984
28 Grandmaster Flash & Melle MelTất cả chúng ta đều đứng cùng nhau4 1984
29 Paul McCartney và Frog Chorus99 Bong bóng đỏ3 1984
30 NenaSỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU5 1984
31 Phản xạDURAN DURAN2 1984
32 GIỐNG NHƯ MỘT TRINH NỮTất cả chúng ta đều đứng cùng nhau2 1984
33 Paul McCartney và Frog ChorusThì thầm bất cẩn2 1984
34 George MichaelGiáng sinh năm ngoái/mọi thứ cô ấy muốn2 1984
35 Wham!XIN CHÀO4 1984
36 Lionel RichieAgadoo4 1984
37 REN ĐENGhostbuster3 1984
38 Ray Parker jrSỰ TỰ DO2 1984
39 ĐÁNH THỨC TÔI TRƯỚC KHI BẠN ĐITôi cảm thấy cho bạn2 1984
40 Chaka KhanDòng trắng [không làm điều đó]3 1984

Grandmaster Flash & Melle MelOfficial Charts Company. All rights reserved.

Tất cả chúng ta đều đứng cùng nhau

Bài hát số 1 năm 1984 là gì?

Tất nhiên, Hoàng tử đồng hồ ở vị trí số 1 với Hồi khi Doves Cry, đó vẫn là một trong những bài hát hoành tráng nhất từ sự nghiệp hoành tráng của anh ấy.Đáng ngạc nhiên hơn, ba trong số mười bài hát hàng đầu đến từ các bộ phim - Footloose của Kenny Loggins, Hồi Phil Collins 'Chống lại tất cả các tỷ lệ cược, Hồi và Ray Parker Jr.When Doves Cry,” which remains one of the most epic songs from his epic career. More surprisingly, three of the top ten songs came from movies — Kenny Loggins' “Footloose,” Phil Collins' “Against All Odds,” and Ray Parker Jr.'s “Ghostbusters.”

Bài hát được bán nhiều nhất trong năm 1984 là gì?

40 bài hát bán chạy nhất hàng đầu năm 1984.

Ai là người đứng đầu bảng xếp hạng năm 1984?

Billboard năm kết thúc năm đơn năm 1984.

Ai là ca sĩ nổi tiếng nhất năm 1984?

1
Cyndi Lauper [nữ nghệ sĩ số 1]
2
Lionel Richie [nghệ sĩ nam# 1]
3
Hoàng tử
4
Câu lạc bộ Văn hóa [Nhóm 1/Duo]
5
Huey Lewis & The News
Lưu trữ ARC: Top 100 nghệ sĩ đơn nhạc pop năm 1984 - Rock on the netwww.rockonthenet.com

Chủ Đề