100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022

Kobe Bryant

100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022

Bryant trong màu áo Los Angeles Lakers năm 2015

Thông tin cá nhân
Sinh23 tháng 8, 1978
Philadelphia, Pennsylvania
Mất27 tháng 1, 2020 (41 tuổi)
Calabasas, California (Tai nạn trực thăng)
Quốc tịchHoa Kỳ
Thống kê chiều cao6 ft 6 in (198 cm)[a]
Thống kê cân nặng212 lb (96 kg)
Thông tin sự nghiệp
Trung họcHạ Merion
(Ardmore, Pennsylvania)
NBA Draft1996 / Vòng: 1 / Chọn: 13 tổng
Được lựa chọn bởi Charlotte Hornets
Sự nghiệp thi đấu1996–2016
Vị tríHậu vệ ghi điểm
Số8, 24
Quá trình thi đấu
1996–2016Los Angeles Lakers
Danh hiệu nổi bật và giải thưởng
  • 5× Vô địch NBA (2000, 2001, 2002, 2009, 2010)
  • 2× Cầu thủ xuất sắc nhất trận chung kết NBA (2009, 2010)
  • Cầu thủ xuất sắc nhất NBA (2008)
  • 18× NBA All-Star (1998, 2000–2016)
  • 4× Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu NBA All-Star (2002, 2007, 2009, 2011)
  • 11× All-NBA First Team (2002–2004, 2006–2013)
  • 2× All-NBA Second Team (2000, 2001)
  • 2× All-NBA Third Team (1999, 2005)
  • 9× NBA All-Defensive First Team (2000, 2003, 2004, 2006–2011)
  • 3× NBA All-Defensive Second Team (2001, 2002, 2012)
  • 2× Quán quân ghi điểm NBA (2006, 2007)
  • NBA Slam Dunk Contest champion (1997)
  • NBA All-Rookie Second Team (1997)
  • Số áo vinh danh tại Los Angeles Lakers (8 và 24)
  • Naismith Prep Player of the Year (1996)
  • Parade All-American (1996)
Career Số liệu thống kê
Điểm số33.643 (25,0 điểm/trận)
Rebound7.047 (5,2 rebound/trận)
Kiến tạo6.306 (4,7 kiến tạo/trận)

Danh hiệu

Bóng rổ nam
Đại diện cho
100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022
 
USA
Thế vận hội Mùa hè
100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022
Bắc Kinh 2008 ĐTQG
100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022
Luân-đôn 2012 ĐTQG
FIBA Americas Championship
100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022
Las Vegas 2007 ĐTQG

Kobe Bean Bryant (23 tháng 8 năm 1978 – 26 tháng 1 năm 2020) là một cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp người Mỹ. Là một hậu vệ ghi điểm, Bryant dành toàn bộ sự nghiệp trọn vẹn 20 mùa giải tại Giải bóng rổ Nhà nghề Mỹ (NBA) thi đấu cho đội bóng Los Angeles Lakers. Anh gia nhập thẳng vào NBA sau khi học xong trung học và giành được năm chức vô địch NBA. Bryant có 18 lần có mặt trong đội hình All-Star, 15 lần có mặt trong Đội hình toàn NBA, 12 lần có mặt trong Đội hình phòng ngự toàn NBA, và được mệnh danh là Cầu thủ có Giá trị nhất NBA (MVP) vào năm 2008. Được công nhận rộng rãi là một trong những cầu thủ bóng rổ vĩ đại nhất mọi thời đại,[3][4][5][6] anh dẫn dầu danh sách cầu thủ ghi điểm nhiều nhất tại NBA trong hai mùa giải liên tiếp, xếp thứ tư trong danh sách cầu thủ ghi nhiều điểm nhất mọi thời đại trong mùa giải thường của giải đấu, và xếp thứ tư trong danh sách cầu thủ ghi nhiều điểm nhất mọi thời đại trong giai đoạn hậu mùa giải. Bryant là hậu vệ đầu tiên trong lịch sử NBA chơi trong ít nhất 20 mùa giải. Theo Forbes, giá trị tài sản ròng của Bryant ước tính khoảng 350 triệu đô la trong năm 2016.[7]

Bryant là con trai của cựu cầu thủ NBA Joe Bryant. Anh học trường Trung học Hạ Merion ở Pennsylvania, nơi anh được công nhận là cầu thủ bóng rổ trung học hàng đầu toàn quốc. Sau khi tốt nghiệp, anh tuyên bố tham gia kì NBA draft năm 1996 và được lựa chọn bởi Charlotte Hornets ở lượt lựa chọn chung cuộc thứ 13; Hornets sau đó trao đổi anh với Lakers. Khi còn là một tân binh, Bryant nổi tiếng là một người thích bật nhảy cao và được người hâm mộ yêu thích khi chiến thắng cuộc thi Slam Dunk Contest năm 1997, và anh được vinh danh là một All-Star trong mùa giải thứ hai. Bất chấp sự thù địch giữa hai người, Bryant và Shaquille O'Neal đã dẫn dắt Lakers tới ba chức vô địch NBA liên tiếp từ năm 2000 tới 2002.

Năm 2003, Bryant bị một nhân viên khách sạn 19 tuổi buộc tội tấn công tình dục. Các cáo buộc đã được rút lại sau khi nguyên đơn từ chối làm chứng trước tòa và một vụ kiện dân sự đã được giải quyết ngoài tòa án. Bryant đã đưa ra một lời xin lỗi công khai, và các cáo buộc được coi là đã làm tổn hại đến hình ảnh của anh trước công chúng.[8] Sau khi Lakers thua trong trận chung kết NBA 2004, O'Neal được trao đổi qua Miami Heat và Bryant trở thành hòn đá tảng trong đội hình của Lakers. Anh dẫn đầu danh sách cầu thủ ghi nhiều điểm nhất NBA trong mùa giải 2005 –2006 và 2006 – 2007. Năm 2006, anh đã ghi được 81 điểm – số điểm cao nhất trong sự nghiệp - trước Toronto Raptors, số điểm cao thứ hai ghi được trong một trận đấu trong lịch sử giải đầu, xếp sau trận đấu 100 điểm của Wilt Chamberlain vào năm 1962. Bryant được mệnh danh là MVP mùa giải thường vào năm 2008. Sau khi Lakers thua trong trận chung kết NBA 2008, Bryant đã dẫn dắt đội đến hai chức vô địch liên tiếp vào năm 2009 và 2010, cũng như giành được Giải thưởng MVP Chung kết NBA trong cả hai trận đấu. Anh tiếp tục là một trong những cầu thủ hàng đầu của giải đấu cho đến năm 2013, khi anh bị đứt gân Achilles ở tuổi 34. Anh đã hồi phục, nhưng bị chấn thương cuối mùa ở đầu gối và vai trong hai mùa tiếp theo. Ảnh hưởng bởi sự suy giảm thể lực của mình, Bryant quyết định nghỉ hưu sau mùa giải 2015 –2016.

Ở tuổi 34, Bryant trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử giải đấu đạt cột mốc 30.000 điểm trong sự nghiệp. Anh trở thành cầu thủ ghi điểm hàng đầu mọi thời đại trong lịch sử nhượng quyền của Lakers vào ngày 1 tháng 2 năm 2010, khi anh vượt qua Jerry West. Trong năm thứ ba của mình tham dự giải đấu, Bryant đã được chọn để bắt đầu trận đấu All-Star Game, và được chọn để bắt đầu trận đấu đó trong 18 lần xuất hiện liên tiếp cho đến khi nghỉ hưu. Thành tích bốn lần đoạt Giải thưởng MVP trận đấu All-Star của anh san bằng với Bob Pettit, nhiều nhất trong lịch sử NBA. Tại Thế vận hội mùa hè 2008 và 2012, anh giành hai huy chương vàng với tư cách thành viên của đội tuyển quốc gia Hoa Kỳ. Năm 2018, anh giành được giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn hay nhất cho bộ phim Dear Basketball.[9]

Bryant qua đời vào ngày 26 tháng 1 năm 2020, trong một tai nạn trực thăng ở Calabasas, California. Tám người khác, bao gồm cô con gái 13 tuổi Gianna Bryant, cũng bị thiệt mạng.[10][11][12]

Tuổi trẻ[sửa | sửa mã nguồn]

Kobe Bryant sinh tại Pennsylvania, là con út và là con trai duy nhất của Joe Bryant và Pam Bryant (họ còn có hai con gái, Shaya and Sharia).[13]

Khi Kobe mới 6 tuổi, bố anh rời giải NBA, chuyển đến sinh sống tại Ý, và chơi bóng rổ chuyên nghiệp tại đây. Kobe sớm thích nghi với đời sống tại đây và học tiếng Ý. Lúc bé, anh học chơi bóng đá và đội bóng anh hâm mộ là AC Milan. Anh từng nói nếu anh vẫn còn sống ở Ý thì anh muốn trở thành 1 cầu thủ bóng đá, và đội bóng yêu thích của anh là FC Barcelona. Kobe là một fan cuồng nhiệt của HLV Barcelona Frank Rijkaard và siêu sao của Barca Ronaldinho.

Năm 1991, nhà Bryant quay về Mỹ. Kobe được cả nước Mỹ biết đến sau khi có những thành tích tuyệt vời ở trường trung học Lower Merion ở Lower Merion, ngoại ô bang Philadelphia. Điểm SAT của anh là 1080 giúp anh chắc chắn giành được học bổng Bóng rổ từ những trường Đại học nổi tiếng. Kobe nói rằng nếu anh muốn chơi bóng rổ ở trường Đại học sau khi học xong Trung học thì anh sẽ chọn Đại học Duke. Tuy nhiên, Kobe đã quyết định lên chơi chuyên nghiệp ở giải NBA.

Sự nghiệp NBA[sửa | sửa mã nguồn]

Cuộc tuyển chọn cầu thủ năm 1996[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi là cầu thủ được chọn thứ 13 bởi đội New Orleans Hornets vào năm 1996, cầu thủ mới 17 tuổi Kobe Bryant đã làm cho Giám đốc điều hành của Lakers là Jerry West nhiều ấn tượng. Họ đã nhìn được Bryant, người mà sau đó thấy được tài năng thiên phú và khả năng chơi bóng của Kobe trong quá trình tập luyện trước cuộc tuyển chọn. Ông ta sau đó nói rằng khả năng tập luyện của Kobe là một trong những khả năng tốt nhất mà ông từng được chứng kiến. Ngay sau cuộc tuyển chọn, Kobe nói rằng anh không muốn chơi cho Hornets và muốn chơi cho Lakers. 15 ngày sau, West đổi trung phong chính của đội là Vlade Divac cho Hornets để lấy cầu thủ trẻ Kobe Bryant.

Hai mùa bóng đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa giải đầu tiên, Bryant phải thường xuyên ra sân từ đội hình dự bị, thay cho Eddie Jones và Nick Van Exel. Ban đầu, thời gian ra sân của anh rất ít, nhưng sau đó, anh bắt đầu được chơi thường xuyên hơn và thời gian ra sân cũng vì thế mà tăng lên. Anh nổi tiếng vì là 1 [High-flyer] và là cầu thủ được nhiều fan hâm mộ sau khi vô địch cuộc thi Slam Dunk Contest năm 1997.

Vào năm thứ 2 (1997 – 1998), anh nhận được thời gian ra sân nhiều hơn và bắt đầu chứng tỏ được khả năng của 1 hậu vệ tài năng. Anh xếp thứ 2 trong cuộc bình chọn NBA's Sixth Man of the Year Award, và từ các lá phiếu của fan, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất trong đội hình chính của Đội hình siêu sao NBA (NBA's All-stars). Khi mà các chỉ số của anh đủ ấn tượng cho 1 cầu thủ trẻ thì anh vẫn là một hậu vệ trẻ còn thiếu kinh nghiệm để cùng với Shaquille O'Neal giúp đội bóng giành được chức vô địch. Năm 1998 – 1999 đánh dấu sự nổi lên của Kobe sau khi 2 hậu vệ chính là Eddie Jones và Nick Van Exel được đổi đi sau lời yêu cầu của Shaq. Kết quả vẫn không được tốt sau khi Lakers bị đè bẹp bởi San Antonio Spurs ở trận bán kết Miền Tây.

3 Năm liền vô địch NBA[sửa | sửa mã nguồn]

Vận may của Kobe bắt đầu thay đổi sau khi Phil Jackson trở thành huấn luyện viên của Los Angeles Lakers năm 1999. Sau những năm tháng với những sự tiến bộ vững chắc, Kobe đã trở thành một trong những hậu vệ ghi điểm hàng đầu của giải, bằng chứng là anh thường xuyên xuất hiện trong đội hình xuất sắc của NBA (All-NBA), đội hình siêu sao(All-Star), đội hình phòng thủ (All-Defensive). CLB Los Angeles Lakers đã trở thành đội bóng thường xuyên cạnh tranh cho chức vô địch dưới sự dẫn dắt của Kobe và Shaquille O'Neal, bộ đôi trở thành 1 sự kết hợp trung phong-hậu vệ khét tiếng. Jackson sử dụng chiến thuật tấn công hình tam giác mà ông đã sử dụng để dành 6 chức vô địch cùng với Chicago Bulls giúp Lakers trở thành CLB xuất sắc của NBA. Thành công của họ giúp cho Lakers giành 3 chức vô địch liên tiếp vào các năm 2000, 2001 và 2002.

Sự kết thúc một triều đại[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa bóng 2002-03, Kobe ghi trung bình 30 điểm mỗi trận và có một trong những chuỗi ghi điểm ấn tượng trong lịch sử NBA, anh ghi 40 điểm trong 9 trận đấu liên tiếp và ghi trung bình 40.6 điểm trong nguyên tháng hai. Thêm vào đó, anh còn bắt trung bình 6.9 lần bóng bật bảng và có trung bình 5.9 lần chuyền bóng cho đồng đội ghi điểm, 2.2 lần cướp bóng mỗi trận, tất cả các thông số đều là đỉnh cao của sự nghiệp. Lần đầu tiên trong sự nghiệp, Kobe được bình chọn để có mặt trong đội hình 1 của đội hình xuất sắc nhất NBA (All-NBA 1st Team), và đội hình 1 của đội hình phòng thủ xuất sắc nhất NBA (All-Defensive 1st Team). Sau khi kết thúc mùa giải với thành tích 50-32, CLB Lakers thi đấu không được tốt ở vòng đấu Playoff và thua ở bán kết miến Tây trước San Antonio Spurs, sau đó là nhà vô địch, trong 6 game.

Ở mùa giải 2003-04 sau đó, CLB Lakers đã chiêu mộ 2 siêu sao là Karl Malone và Gary Payton để 1 lần nữa có thể chinh phục chức vô địch. Với đội hình mà 4 người sẽ vào tòa nhà Danh vọng trong tương lai, Shaquille O'Neal, Karl Malone, Gary Payton và Kobe Bryant, Lakers đã vào chung kết NBA. Trong trận chung kết, họ bị đánh bại bởi CLB Detroit Pistons trong 5 game. Trong series đó, Kobe ghi trung bình 22.6 điểm mỗi trận, ném thành công 35.1% các pha ném rổ của mình, và 4.4 pha chuyền bóng thành công.

Mùa giải 2004-05[sửa | sửa mã nguồn]

Với hình ảnh đã bị tổn hại nhiều sau mùa giải trước, Kobe đã bị soi mói và chỉ trích rất nhiều trong suốt cả mùa giải. Mùa giải đầu tiên không còn sát cánh cùng O'Neal đã trở thành cơn ác mộng cho anh.

Đầu tiên là cuốn sách "The Last Season: A team in Search of its soul" (Tạm dịch: "Đội bóng trên con đường tìm kiếm sức sống của mình"). Cuốn sách cho biết những chuyện gây xôn xao dư luận trong đội Lakers vào mùa giải 2003-04 và có nhiều lời chỉ trích dành cho Kobe. Đặc biệt, Jackson còn cho biết Kobe là một cầu thủ không thể huấn luyện được.

Sau đó, chỉ mới nửa mùa giải trôi qua, HLV Rudy Tomjanovich rời khỏi băng ghế huấn luyện vì lý do sức khỏe và bị kiệt sức. Không có "Rudy T", cương vị dẫn dắt Lakers cho phần còn lại của mùa bóng được dao cho trợ lý Frank Hamblen. Mặc dù Kobe vẫn là cầu thủ ghi điểm nhiều thứ nhì NBA với 27.6 điểm mỗi trận, CLB Lakers đã thi đấu không thành công và không được vào vòng Playoff lần đầu tiên sau hơn 1 thập kỷ. Chính mùa giải này, đã làm cho vị trí của Kobe trong NBA giảm sút nghiêm trọng, anh không được vào đội hình phòng ngự tiêu biểu (All-Defensive), bị rớt xuống đội 3 của đội hình xuất sắc NBA (All-NBA 3rd Team).

Mùa giải 2005-06[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải 2005-06 đã trở thành một bước ngoặt trong sự nghiệp bóng rổ của Kobe. Mặc dù có rắc rối với Kobe lúc trước, Phil Jackson trở lại dẫn dắt CLB Los Angeles Lakers. Kobe tán thành việc quay lại của Jackson và cả hai cùng sát cánh trong lần thứ 2 này để giúp cho Lakers tiến vào vòng Playoff. Kobe cũng đã làm hòa với đồng đội cũ Shaquille O'Neal. Đội bóng giành được thành tích 45-37, 11 trận thắng nhiều hơn mùa giải trước, đội bóng dường như đang trên quay lại thời kì đỉnh cao.

Trong vòng 1 của Playoff, Lakers chơi rất tốt và dẫn trước Phoenix Suns 3-1 ở series, và chỉ cách có 6 giây để loại được Suns. Mặc dù Kobe đã có cú Buzzer beater tuyệt vời, đánh bại CLB Suns trong game 4, Lakers đã sụp đổ và cuối cùng để thua Phoenix Suns trong 7 game. Sau mùa giải, Kobe phải trải qua 1 cuộc phẫu thuật đầu gối, do đó anh không thể tham gia giải vô địch bóng rổ thế giới năm 2006.

Kobe đã có một mùa giải với các thành tích ghi điểm tốt nhất trong sự nghiệp của anh. Vào ngày 20 tháng 12, Kobe ghi 62 điểm trong chỉ 3 hiệp đấu trước CLB Dallas Mavericks. Kết thúc hiệp 3, Kobe đã ghi nhiều hơn toàn bộ các cầu thủ của Dallas Mavericks cộng lại(62-61), anh là cầu thủ đầu tiên làm được điều này kể từ khi đồng hồ ném rổ 24 giây xuất hiện. Khi Lakers gặp Miami Heat vào ngày 16 tháng 1 năm 2006, Kobe và Shaq được chú ý đến sau khi cả hai bắt tay và ôm nhau trước trận đấu, chấm dứt sự thù hận của 2 người kể từ khi Shaq rời Los Angeles. Một tháng sau, tại trận đấu giữa các siêu sao, cả hai lại cùng cười đùa và giỡn nhau. Vào ngày 22 tháng 1, Kobe ghi 81 điểm trong trận thắng 122-104 trước Toronto Raptors. Phá vỡ kỷ lục ghi điểm của CLB, 71 điểm bởi Elgin Baylor, số điểm của anh trong trận đấu chỉ đứng sau kỷ lục ghi 100 điểm trong 1 trận của Wilt Chamberlain năm 1962.

Cũng trong tháng 1, Kobe đã trở thành cầu thủ đầu tiên kể từ năm 1965 ghi nhiều hơn 45.1 điểm trong 4 trận liên tiếp, cùng với Wilt Chamberlain và Elgin Baylor. Trong tháng 1, Kobe ghi trung bình 43.4 điểm 1 trận, cao thứ 8 trong lịch sử số điểm ghi trung bình 1 tháng, cao hơn tất cả các cầu thủ còn lại ngoại trừ Wilt Chamberlain. Kết thúc mùa giải, Kobe lập kỷ lục CLB với số trận ghi hơn 40 điểm (27 trận), tổng số điểm nhiều nhất (2,832). Anh lần đầu tiên trở thành vua ghi điểm, với số điểm trung bình (35.4). Kobe đứng thứ 4 trong cuộc bình chọn cầu thủ xuất sắc của mùa giải (MVP), tuy nhiên anh nhận được 22 phiếu bầu anh xuất sắc nhất, chỉ sau người chiến thắng là Steve Nash.

Cuối mùa giải, có tin cho biết Kobe sẽ chuyển số áo của anh từ số 8 sang 24 khi bắt đầu mùa giải mới. Số áo đầu tiên khi học trung học của anh là 24, trước anh khi chuyển qua số 33. Sau khi mùa giải của Lakers kết thúc, Kobe trả lời trên đài TH TNT là anh muốn mặc số 24 khi anh còn là lính mới, nhưng nó đã có người mặc, cũng như số 33, số đã không còn sử dụng để thể hiện sự kính trọng với Kareem Abdul-Jabbar. Kobe mặc áo số 143 ở trại Adidas ABCD, và chọn số 8 sau khi cộng các số đó lại. Anh cũng đã từng mặc số 8 khi còn sống ở Ý, như một cách thể hiện sự kính trọng với Mike D'Antoni, thần tượng lúc nhỏ của anh và cũng mặc áo số 8.

Mùa giải 2006-07[sửa | sửa mã nguồn]

Vào mùa giải 2006-07, Kobe lần thứ 9 được chọn vào đội hình Các siêu sao NBA (NBA All-Stars), và vào ngày 18 tháng 2, Kobe ghi 31 điểm, có 6 lần bắt bóng bật bảng, 6 đường chuyền thành bàn, 6 lần cướp bóng ở trận đấu giữa các siêu sao, Kobe lần thứ 2 nhận được danh hiệu cầu thủ xuất sắc nhất của các siêu sao.

Trong suốt mùa giải, Kobe vướng vào nhiều vụ rắc rối trên sân. Vào ngày 28 tháng 1, khi Kobe định kiếm phạt trong 1 pha bóng có thể là ném rổ giành chiến thắng, anh để cùi chỏ của mình đập vào mặt hậu vệ Manu Ginobili của San Antonio Spurs. Ginobili sau đó cũng cho rằng Kobe không cố ý và chính Kobe cũng đã xin lỗi anh ngay sau pha bóng đó. Sau khi Liên đoàn xem lại băng ghi hình, Kobe bị cấm thi đấu 1 trận gặp New York Knicks ở Madison Square Garden, dựa vào việc anh có hành động không bình thường khi cử động cùi chỏ. Sau đó, vào ngày 6 tháng 3, Kobe được xem như đã lập lại hành động đó với hậu vệ Marco Jaric của Minnesota Timberwolves. Ngày 7 tháng 3, NBA lần thứ 2 treo cấm Kobe thi đấu 1 trận, dẫn tới việc nhiều bình luận viên đặt ra câu hỏi về việc này. Trong trận đấu đầu tiên quay lại, anh thúc cùi chỏ vào mặt Kyle Korver mà sau đó đã được xếp lại thành lỗi thô bạo loại 1.

Vào ngày 16 tháng 3, Kobe ghi 65 điểm, nhiều nhất của anh trong mùa, trong trận đấu trên sân nhà trước Portland Trail Blazer, giúp Lakers kết thúc chuỗi 7 trận thua. Đây là trận ghi nhiều điểm thứ 2 trong sự nghiệp 11 năm của anh. Trong trận tiếp theo, anh ghi 50 điểm trước Minnesota Timberwolves, sau đó ghi tiếp 60 điểm trước Memphis Grizzles - trở thành cầu thủ thứ hai của Lakers làm được điều này, thành tích chưa ai lập được kể từ khi Michael Jordan lần cuối cùng lập được vào năm 1987. Cầu thủ Lakers khác cũng làm được điều này là Elgin Baylor, người mà ghi hơn 50 điểm trong 3 trận liên tiếp vào tháng 12 năm 1962. Vào ngày 23 tháng 3, trong trận đấu trước New Orleans Hornets, Kobe ghi 50 điểm, giúp cho anh trở thành cầu thủ thứ 2 trong lịch sử có 4 trận liên tiếp ghi hơn 50 điểm, đứng sau Wilt Chamberlain, người mà dẫn đầu với thành tích 2 lần có 7 trận liên tiếp ghi hơn 50 điểm. Bryant kết thúc mùa giải với 10 trận đấu ghi hơn 50 điểm và trở thành cầu thủ thứ 2 sau Wilt Chamberlain làm được điều này vào mùa giải 1961-62,1962-63, và anh cũng trở thành vua ghi điểm lần thứ 2 liên tiếp.

Trong mùa giải 2006-07, áo thi đấu của Kobe trở thành chiếc áo được nhiều người mua nhất ở Mỹ và Trung Quốc. Các nhà báo cũng là người giúp cho việc tăng doanh thu của chiếc áo thi đấu mang số mới của Kobe, cũng như việc thi đấu thành công trên sân cũng giúp cho việc này. Nhưng trong vòng Playoff, Lakers lại tiếp tục bị loại bởi Phoenix Suns trong vòng đầu.

Mùa giải 2007-08[sửa | sửa mã nguồn]

Mùa giải mới bắt đầu với việc ESPN[14] đưa tin Kobe muốn chuyển đi nếu như Jerry West không trở lại quản lý Los Angeles Lakers. Kobe sau đó cho biết anh rất mong muốn Jerry West quay lại với đội, nhưng lại từ chối việc anh muốn chuyển đi nếu điều này không xảy ra. Tuy nhiên, 3 ngày sau đó, trên chương trình radio của Stephen A. Smith, anh biểu lộ sự giận dữ đối với 1 người ở trong ban quản lý của Lakers đã nói Kobe là nguyên nhân dẫn đến sự ra đi của Shaquille O'Neal, và chính thức nói rằng anh muốn chuyển đi. Ba giờ sau đó, Kobe lại nói ở trong một cuộc phỏng vấn khác rằng: sau khi có cuộc nói chuyện với Phil Jackson, anh đã rút lại lời nói trên và không muốn chuyển đi nữa[15].

Sau đó, mặc dù bị chấn thương ở bàn tay nhưng anh vẫn quyết định tiếp tục thi đấu mà không cần giải phẫu. Anh đã chơi tất cả 82 trận trong mùa giải 2007-08. Los Angeles Lakers kết thúc mùa giải với thành tích 57-25, đứng đầu ở Miền Tây. Họ gặp lần lượt Denver Nuggets, Utah Jazz và San Antonio Spurs trên con đường tới trận chung kết gặp Boston Celtics, nơi mà họ đã thua trong 6 game.

Hai chức vô địch liên tiếp (2009 – 2010)[sửa | sửa mã nguồn]

Thống kê sự nghiệp NBA[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích
  GP Số trận   GS  Số trận ra sân  MPG  Số phút mỗi trận
 FG%  Tỉ lệ ném  3P%  Tỉ lệ ném 3 điểm  FT%  Tỉ lệ ném phạt
 RPG  Số rebound mỗi trận  APG  Số kiến tạo mỗi trận  SPG  Số cướp bóng mỗi trận
 BPG  Số block mỗi trận  PPG  Số điểm mỗi trận  In đậm  Kỉ lục cá nhân
Biểu thị các mùa trong đó Bryant giành chức vô địch NBA
* Dẫn dắt giải đấu

Mùa giải thông thường[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Đội GPGSMPGFG%3P%FT%RPGAPGSPGBPGPPG
1996-97 L.A. Lakers 71 6 15.5 .417 .375 .819 1.9 1.3 .7 .3 7.6
1997-98 L.A. Lakers 79 1 26.0 .428 .341 .794 3.1 2.5 .9 .5 15.4
1998-99 L.A. Lakers 50 50 37.9 .465 .267 .839 5.3 3.8 1.4 1.0 19.9
1999-00† L.A. Lakers 66 62 38.2 .468 .319 .821 6.3 4.9 1.6 .9 22.5
2000-01† L.A. Lakers 68 68 40.9 .464 .305 .853 5.9 5.0 1.7 .6 28.5
2001-02† L.A. Lakers 80 80 38.3 .469 .250 .829 5.5 5.5 1.5 .4 25.2
2002-03 L.A. Lakers 82 82 41.5 .451 .383 .843 6.9 5.9 2.2 .8 30.0
2003-04 L.A. Lakers 65 64 37.6 .438 .327 .852 5.5 5.1 1.7 .4 24.0
2004-05 L.A. Lakers 66 66 40.7 .433 .339 .816 5.9 6.0 1.3 .8 27.6
2005-06 L.A. Lakers 80 80 41.0 .450 .347 .850 5.3 4.5 1.8 .4 35.4*
2006-07 L.A. Lakers 77 77 40.8 .463 .344 .868 5.7 5.4 1.4 .5 31.6*
2007-08 L.A. Lakers 82 82 38.9 .459 .361 .840 6.3 5.4 1.8 .5 28.3
2008-09† L.A. Lakers 82 82 36.1 .467 .351 .856 5.2 4.9 1.5 .5 26.8
2009-10† L.A. Lakers 73 73 38.8 .456 .329 .811 5.4 5.0 1.5 .3 27.0
2010-11 L.A. Lakers 82 82 33.9 .451 .323 .828 5.1 4.7 1.2 .1 25.3
2011-12 L.A. Lakers 58 58 38.5 .430 .303 .845 5.4 4.6 1.2 .3 27.9
2012-13 L.A. Lakers 78 78 38.6 .463 .324 .839 5.6 6.0 1.4 .3 27.3
2013-14 L.A. Lakers 6 6 29.5 .425 .188 .857 4.3 6.3 1.2 .2 13.8
2014-15 L.A. Lakers 35 35 34.5 .373 .293 .813 5.7 5.6 1.3 .2 22.3
2015-16 L.A. Lakers 66 66 28.2 .358 .285 .826 3.7 2.8 .9 .2 17.6
Career 1,346 1,198 36.1 .447 .329 .837 5.2 4.7 1.4 .5 25.0
All-Star 15 15 27.6 .500 .324 .789 5.0 4.7 2.5 .4 19.3

Playoffs[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Đội GPGSMPGFG%3P%FT%RPGAPGSPGBPGPPG
1997 L.A. Lakers 9 0 14.8 .382 .261 .867 1.2 1.2 .3 .2 8.2
1998 L.A. Lakers 11 0 20.0 .408 .214 .689 1.9 1.5 .3 .7 8.7
1999 L.A. Lakers 8 8 39.4 .430 .348 .800 6.9 4.6 1.9 1.3 19.8
2000† L.A. Lakers 22 22 39.0 .442 .344 .754 4.5 4.4 1.5 1.5 21.1
2001† L.A. Lakers 16 16 43.4 .469 .324 .821 7.3 6.1 1.6 .8 29.4
2002† L.A. Lakers 19 19 43.8 .434 .379 .759 5.8 4.6 1.4 .9 26.6
2003 L.A. Lakers 12 12 44.3 .432 .403 .827 5.1 5.2 1.2 .1 32.1
2004 L.A. Lakers 22 22 44.2 .413 .247 .813 4.7 5.5 1.9 .3 24.5
2006 L.A. Lakers 7 7 44.9 .497 .400 .771 6.3 5.1 1.1 .4 27.9
2007 L.A. Lakers 5 5 43.0 .462 .357 .919 5.2 4.4 1.0 .4 32.8
2008 L.A. Lakers 21 21 41.1 .479 .302 .809 5.7 5.6 1.7 .4 30.1
2009† L.A. Lakers 23 23 40.8 .457 .349 .883 5.3 5.5 1.7 .9 30.2
2010† L.A. Lakers 23 23 40.1 .458 .374 .842 6.0 5.5 1.3 .7 29.2
2011 L.A. Lakers 10 10 35.4 .446 .293 .820 3.4 3.3 1.6 .3 22.8
2012 L.A. Lakers 12 12 39.7 .439 .283 .832 4.8 4.3 1.3 .2 30.0
Sự nghiệp 220 200 39.3 .448 .331 .816 5.1 4.7 1.4 .6 25.6

Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]

Vào 9:06 sáng giờ chuẩn Thái Bình Dương ngày 26 tháng 1 năm 2020, một chiếc trực thăng Sikorsky S-76 thuộc sở hữu của Bryant khởi hành từ Sân bay John Wayne ở Orange County, California, với chín người trên trực thăng: Bryant, cô con gái 13 tuổi Gianna (Gigi), bạn tập của Gigi và cha mẹ của họ (bao gồm huấn luyện viên bóng chày của trường Cao đẳng Orange Coast John Altobelli, vợ Keri và con gái Alyssa, Sarah Chester, và con gái Payton[16]), huấn luyện viên bóng rổ Christina Mauser và phi công Ara Zobayan.[17][18][19][20] Máy bay trực thăng đã được đăng ký cho Island Express Holding Corp có trụ sở tại Fillmore, theo cơ sở dữ liệu kinh doanh của Văn phòng Đổng lý của California.[21] Cả nhóm đang đi đến Học viện Mamba của Bryant cho một buổi luyện tập khi chiếc trực thăng bị rơi ở Calabasas.[16]

Do mưa nhẹ và thời tiết sương mù sáng hôm đó, các máy bay trực thăng của LAPD[20] và hầu hết các phương tiện giao thông hàng không khác đều bị buộc phải hạ cánh.[22] Dữ liệu theo dõi chuyến bay cho thấy chiếc trực thăng gặp sự cố khi ở trên không phận tương ứng với Sở thú Los Angeles. Chiếc trực thăng bay vòng quanh khu vực sáu lần ở độ cao khoảng 850 feet. Vào lúc 9:30 sáng, phi công đã liên lạc với tháp điều khiển của Sân bay Burbank,[22] thông báo cho tòa tháp về tình huống này. Vào thời điểm đó, máy bay trực thăng đang bay trong tình trạng sương mù cực độ và quay đầu về hướng nam phía dãy núi. Vào lúc 9:40 sáng, chiếc trực thăng đã lên đến độ cao 370 đến 610 mét (1.200 đến 2.000 ft) với tốc độ 161 hải lý trên giờ (298 km/h; 185 mph).[22]

Vào 9:45 sáng, trực thăng đâm vào mặt bên của một ngọn núi ở Calabasas, cách trung tâm Los Angeles khoảng 30 dặm (48 km) về phía Tây Bắc, và bắt lửa dữ dội.[22][23] Vào 9:47 sáng, cơ quan chức trách đã nhận được cuộc gọi thông báo. Chiếc trực thăng đã bay qua khu Boyle Heights, gần Sân vận động Dodger và bay vòng quanh Glendale trong suốt chuyến bay. Nhân viên của Sở cứu hỏa quận Los Angeles đã tham dự hiện trường. Đám cháy đã được dập tắt vào khoảng 10:30 sáng.[24][25] Không ai trong số chín người sống sót. Các báo cáo ban đầu chỉ ra rằng chiếc trực thăng đã bị rơi trên những ngọn đồi phía trên Calabasas trong thời tiết sương mù dày đặc.[26][27] Các nhân chứng báo cáo đã nghe thấy tiếng một chiếc trực thăng quay vòng trước khi rơi.[17]

Cục Hàng không Liên bang, Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia, và FBI[20] đã mở các cuộc điều tra về vụ tai nạn này.[28][29][30]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Shaq–Kobe feud
  • Kobe Doin' Work

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Năm 2006, Bryant nói rằng anh chỉ cao 6 foot 4 inch (1,93 m).[1] Năm 2008, anh nói rằng "có lẽ" mình cao 6 foot 5 inch (1,96 m) khi đeo giày.[2]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Mallozzi, Vincent (ngày 24 tháng 12 năm 2006). “'Where's Kobe? I Want Kobe.'”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2013.
  2. ^ Ding, Kevin (ngày 8 tháng 1 năm 2008). “Kobe Bryant's work with kids brings joy, though sometimes it's fleeting”. Orange County Register. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2013.
  3. ^ Lynch, Andrew (ngày 20 tháng 10 năm 2017). “Ranking the 25 greatest players in NBA history”. FOX Sports. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  4. ^ Moonves, Leslie (ngày 17 tháng 2 năm 2017). “50 greatest NBA players of all time”. CBS Sports. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  5. ^ Rasmussen, Bill (ngày 3 tháng 3 năm 2016). “All-Time #NBArank: Counting down the greatest players ever”. ESPN. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  6. ^ McCallum, Jack (ngày 8 tháng 2 năm 2016). “SI's 50 greatest players in NBA history”. Sports Illustrated. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2017.
  7. ^ “Kobe Bryant”. Forbes. 2016. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2020.
  8. ^ “Kobe Bryant dies in a crash”.
  9. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Oscar
  10. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 9 on board2
  11. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Death-CNBC2
  12. ^ “NBA, sports worlds mourn the death of Kobe Bryant”. ESPN. ngày 26 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  13. ^ NBA.com. Kobe Bryant Info Page - Bio. Truy cập May 8, 2007.
  14. ^ [1]
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2008.
  16. ^ a b Ibbetson, Ross (ngày 27 tháng 1 năm 2020). “Pictured: All 9 victims of helicopter crash that killed Kobe Bryant”. Mail Online. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2020.
  17. ^ a b “Kobe Bryant, daughter Gianna among nine dead in helicopter crash in Calabasas”. Los Angeles Times. ngày 26 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  18. ^ Winton, Richard (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant, daughter Gianna among nine dead in helicopter crash in Calabasas”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  19. ^ Newburger, Emma; Young, Jabari (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “NBA superstar Kobe Bryant and his daughter Gianna killed in LA-area helicopter crash”. CNBC. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  20. ^ a b c Alfonso, Fernando; Vera, Amir (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant was one of five people killed in a helicopter crash in Calabasas, California”. CNN. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  21. ^ Alfonso, Fernando; Vera, Amir (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant was one of five people killed in a helicopter crash in Calabasas, California”. CNN. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  22. ^ a b c d “Kobe Bryant & Daughter Die in Helicopter Crash, Photos from Her Last Game”. TMZ (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2020.
  23. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên cnn_01272020
  24. ^ Kalich, Sidney. “Lakers Great Kobe Bryant Among Five Killed in Calabasas Helicopter Crash”. NBC Los Angeles. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  25. ^ Dwork, David (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant dies in California helicopter crash”. Local10.com. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  26. ^ Winton, Richard; Woike, Dan (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant is killed in helicopter crash in Calabasas”. Los Angeles Times. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  27. ^ “Source: Kobe among dead in helicopter crash”. ESPN.com. ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  28. ^ Gaydos, Ryan (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Kobe Bryant among those killed in California helicopter crash”. Fox News. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  29. ^ Bacon, John (ngày 26 tháng 1 năm 2020). “Investigation underway to determine cause of helicopter Calabasas, California, crash that killed Kobe Bryant”. USA Today. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.
  30. ^ “Kobe Bryant: Basketball legend dies in helicopter crash”. BBC News Online. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2020.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trang Web chính thức
  • Thống kê sự nghiệp và thông tin cầu thủ từ NBA.com, hoặc Basketball-Reference.com
  • Kobe Bryant trên IMDb
  • NBA.com – The Ultimate Kobe Page
100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Kobe Bryant.

Nbarank trở lại mùa giải thứ 12 đếm ngược những cầu thủ giỏi nhất trong giải đấu.

Các ứng cử viên MVP như Giannis Antetokounmpo, Luka Doncic, Joel Embiid và Nikola Jokic và Nikola Jokic? Thế còn các tân binh và các ngôi sao trẻ đã sẵn sàng để có được bước nhảy vọt vào tầng trên của các cầu thủ NBA?

LeBron James, người đang bước vào mùa thứ 20 của mình ở đâu?

Để có được dự đoán cuối cùng của Nbarank, chúng tôi đã yêu cầu hội đồng chuyên gia của chúng tôi bỏ phiếu cho các cặp người chơi: LeBron vs Kevin Durant, Stephen Curry vs Ja Morant, Luka vs Jayson Tatum ... và danh sách này tiếp tục.

Chúng tôi đã hỏi, "Người chơi nào sẽ tốt hơn vào năm 2022-23?" Cử tri đã phải dự đoán những gì họ mong đợi từ mỗi người chơi trong mùa giải.

Chúng tôi đã tiết lộ người chơi số 100-26. Hôm nay, bảng xếp hạng của chúng tôi tiếp tục với người chơi số 25-11.

Lưu ý: Bảng điều khiển Nbarank của ESPN, bao gồm hơn 200 phóng viên, biên tập viên, nhà sản xuất và nhà phân tích, được yêu cầu xếp hạng người chơi dựa trên những đóng góp dự đoán của họ-chất lượng và số lượng-chỉ cho mùa giải 2022-23.

Nbarank 2022: Zion, Russ và người chơi số 100-26

100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022

Số 25: Anthony Edwards

Minnesota Timberwolves | SF

2021 Nbarank: Số 52 No. 52

Skill Skill: Chụp 3 điểm. Phần lớn sự phát triển của Edwards sẽ được gắn với cú sút 3 điểm của anh ấy. Là một tân binh, Edwards đã cố gắng 7,2 mỗi trận-hầu hết là một cầu thủ năm đầu tiên có trình độ-nhưng chỉ tạo ra 33% trong số họ. Điều đó đã được cải thiện thành 36% trong năm 2 khi Edwards xếp thứ 14 trong 3 giây. Edwards đã mạnh mẽ trong các nỗ lực bắt và bắn (độ chính xác 41%, theo số liệu thống kê nâng cao NBA) nhưng vẫn phải cải thiện 3S 3S, mà anh ta đạt được với clip 32,5%. Pull-up 3-point shooting. Much of Edwards' development will be tied to his 3-point shot. As a rookie, Edwards attempted 7.2 per game -- most ever by a qualified first-year player -- but made just 33% of them. That improved to 36% in Year 2 as Edwards ranked 14th in made 3s. Edwards was strong on catch-and-shoot attempts (41% accuracy, per NBA Advanced Stats) but must still improve off-the-dribble 3s, which he hit at a 32.5% clip.

Một câu hỏi lớn cho 2022-23: Edwards sẽ phát triển nhanh như thế nào? Rõ ràng, kỳ vọng đang chạy cao. Edwards xếp hạng trước những người chơi là All-Stars và thậm chí cả NBA chọn một năm trước. Edwards không tốt như một sinh viên năm thứ hai, nhưng sự phát triển nhanh chóng của anh ấy từ người ghi bàn hiệu quả thấp đến một người có tỷ lệ bắn thực sự (0,560) là trung bình gần như có hứa hẹn. Nếu Edwards thực hiện bước nhảy vọt mà chúng tôi dự đoán, một cái gật đầu All-Star và danh hiệu người chơi được cải thiện nhất nằm trong tầm tay 21 tuổi. How quickly will Edwards develop? Clearly, expectations are running high. Edwards ranks ahead of players who were All-Stars and even All-NBA picks a year ago. Edwards wasn't that good as a sophomore, but his rapid development from low-efficiency scorer to one whose true shooting percentage (.560) was nearly league average was promising. If Edwards takes the leap we're anticipating, an All-Star nod and Most Improved Player honors are within reach at age 21.

- Kevin Pelton


Số 24: Donovan Mitchell

Cleveland Cavaliers | Sg

2021 Nbarank: Số 18 No. 18

Khuôn mặt mới ở một địa điểm mới: Cavs đã trả giá cao để có được Mitchell, một ngôi sao ba lần, để thêm anh ta như một phần của cốt lõi bốn người của họ về người chơi 26 trở xuống. Bây giờ Mitchell sẽ ra ngoài để chứng minh rằng anh ta có thể là một người tạo ra sự khác biệt và giúp Cavs thực hiện bước tiếp theo. The Cavs paid a steep price to acquire Mitchell, a three-time All-Star, to add him as part of their four-man core of players 26 and under. Now Mitchell will be out to prove that he can be a difference-maker and help the Cavs take the next step.

Một trò chơi để xem: ngày 4 tháng 12 tại New York. Người hâm mộ Knicks tin rằng họ là đội để hạ cánh Mitchell trước khi Cavs sà vào mùa hè này. Người bản địa New York lần đầu tiên ghé thăm MSG kể từ khi thỏa thuận. Dec. 4 at New York. Knicks fans believed they were the team to land Mitchell before the Cavs swooped in this summer. The New York native visits MSG for the first time since the deal.

- Jamal Collier


Số 23: Bam Adebayo

Miami Heat | C

2021 Nbarank: Số 21 No. 21

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: một trong những cú đánh lớn nhất trong trò chơi của Adebayo là một hành vi phạm tội đôi khi không nhất quán, đặc biệt là trong một đội thiếu một ngôi sao thứ hai thực sự cùng với Jimmy Butler. Adebayo trung bình một sự nghiệp cao 19,1 điểm mỗi trận trong mùa giải thông thường nhưng 14,8 điểm mỗi trận trong 18 cuộc thi hậu kỳ. Miami có thể vượt qua cái bướu ở phía đông nếu Adebayo thêm vào một trò chơi được xác định nhiều hơn bởi phòng thủ và hồi phục trong năm mùa đầu tiên của sự nghiệp. One of the biggest knocks on Adebayo's game is a sometimes inconsistent offense, especially on a team that lacks a true second star alongside Jimmy Butler. Adebayo averaged a career-high 19.1 points per game in the regular season but 14.8 points per game over 18 postseason contests. Miami could get over the hump in the East if Adebayo adds to a game that has been defined more by defense and rebounding through the first five seasons of his career.

Một câu hỏi lớn cho năm 2022-23: Adebayo là một cầu thủ tối đa, một huy chương vàng Olympic và đã giúp mang lại sức nóng cho trận chung kết Đại hội Đông Nhiều áp lực hơn của Butler, nhưng phần còn lại của một hành vi phạm tội nóng đã bị đình trệ vào những thời điểm trong phần hậu kỳ? Nếu anh ta làm vậy, sức nóng sẽ ở gần đỉnh của phương Đông một lần nữa. Adebayo is a max player, an Olympic gold medalist and has helped carry the Heat to the Eastern Conference finals in two of the past three seasons -- but can he develop his offensive presence more to not only take more pressure off of Butler, but the rest of a Heat offense that stalled out at times in the postseason? If he does, the Heat should be near the top of the East again.

- Nick Friedell


Số 22: Jaylen Brown

Boston Celtics | Sg

2021 Nbarank: Số 27 No. 27

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: Brown vẫn chưa tạo ra một đội ngũ All-NBA trong sự nghiệp của mình. Nhưng nếu Celtics có thể theo dõi các kỳ vọng trước cuộc bầu cử và kết thúc mùa giải với thành tích tốt nhất ở phương Đông, Brown sẽ tất cả nhưng chắc chắn sẽ nhận được tín dụng của cả hai trong cuộc trò chuyện All-NBA và tiến lên các bảng xếp hạng này. Brown has yet to make an All-NBA team in his career. But if the Celtics can follow through on preseason expectations and finish the season with the best record in the East, Brown will all but certainly get the credit of both being in the All-NBA conversation and moving up these rankings.

Một câu hỏi lớn cho năm 2022-23: Brown có thể cải thiện như một người chơi chơi và người xử lý bóng không? Đó là điều mà huấn luyện viên Ime Udoka đã nhấn mạnh cả anh ấy và Jayson Tatum cần phải làm kể từ khi Udoka đến vào mùa hè năm ngoái. Nhưng trong ba vòng cuối cùng của vòng playoffs, Brown đã ghi trung bình hơn ba doanh thu mỗi trận đấu với Milwaukee Bucks, Heat và Golden State Warriors. Để Boston thực hiện bước cuối cùng đó hướng tới một chức vô địch, Brown cần phải cải thiện trong những khoảnh khắc đó. Can Brown improve as a playmaker and ball handler? That's been something coach Ime Udoka has stressed both he and Jayson Tatum need to do since Udoka arrived last summer. But over the final three rounds of the playoffs, Brown averaged more than three turnovers per game against the Milwaukee Bucks, Heat and Golden State Warriors. For Boston to take that final step toward a championship, Brown needs to have to improve in those moments.

- Tim Bontemps


Số 21: Chris Paul

Phoenix Suns | PG

2021 Nbarank: Số 13 No. 13

Một câu hỏi lớn cho năm 2022-23: Loạt Mavericks có báo hiệu sự kết thúc của những ngày thống trị của Paul không? "Thần Point" bị giảm bớt so với Dallas, trung bình chỉ 8,8 điểm, 6,3 hỗ trợ, 2,8 doanh thu và 4.0 phạm lỗi trong các trò chơi 4 đến 7, khi trận play -off của Suns kết thúc ở vòng thứ hai. Ở tuổi 37 và bước vào mùa thứ 18 của anh ấy, đồng hồ đang chạy chống lại anh ấy. Did the Mavericks series signal the end of Paul's dominant days? The "Point God" was diminished against Dallas, averaging just 8.8 points, 6.3 assists, 2.8 turnovers and 4.0 fouls in Games 4 through 7, as the Suns' playoff run ended in the second round. At 37 and entering his 18th season, the clock is running against him.

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: đếm CP3 tự chịu rủi ro. Bạn có nhớ khi ESPN BPI cho Oklahoma City Thunder chỉ có 0,2% cơ hội thực hiện vòng playoff trong mùa giải đơn độc của Paul với nhượng quyền thương mại và anh ấy đã dẫn họ đến một kỷ lục 44-38 và Game 7 trong vòng đầu tiên chống lại Houston Rockets không? Count out CP3 at your own risk. Remember when ESPN BPI gave the Oklahoma City Thunder just a 0.2% chance of making the playoffs in Paul's lone season with the franchise and he led them to a 44-38 record and Game 7 in the first round against the Houston Rockets?

- Dave McMenamin


Số 20: Anthony Davis

Los Angeles Lakers | PF

2021 Nbarank: Số 9 No. 9

Một trò chơi để xem: 18 tháng 10 tại Golden State. Lakers đi về phía bắc để chơi các nhà vô địch bảo vệ trong đêm Ring, và đó sẽ là cơ hội đầu tiên để Laker Nation xem khóa học của Davis như thế nào sau một đoạn đường đáng thất vọng sau danh hiệu năm 2020. Một trò chơi không phải là một mùa giải, nhưng trò chơi Dubs cũng tốt hơn bao giờ hết để Davis tự giới thiệu lại là một trong những tài năng hai chiều thống trị nhất của trò chơi. Oct. 18 at Golden State. The Lakers go north to play the defending champs on ring night, and it will be the first chance for Laker Nation to see how Davis' course corrects after a disappointing stretch following the 2020 title. One game does not a season make, but the Dubs game is as good of a time as ever for Davis to reintroduce himself as one of the game's most dominant two-way talents.

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: Davis đã bỏ lỡ 78 trong số 154 trận đấu của Lakers trong hai mùa giải qua vì những chấn thương khác nhau. Chỉ nhờ vào một số sức khỏe tốt và một số may mắn, Davis có thể và sẽ tác động đến việc chiến thắng theo cách anh ấy đã làm trong mùa giải đầu tiên ở L.A. khi Lakers giành được tất cả. Davis missed 78 of the Lakers' 154 games the past two seasons because of various injuries. Just by virtue of some good health and some good luck, Davis can and should impact winning the way he did in his first season in L.A. when the Lakers won it all.

- McMenamin


Số 19: Bradley Beal

Phù thủy Washington | Sg

2021 Nbarank: Số 11 No. 11

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: Beal đã có một mùa giải để quên, trung bình 23,2 điểm mỗi trận trong 40 trận trước khi trải qua phẫu thuật kết thúc mùa giải trên cổ tay trái. Nhưng điều đó không có nghĩa là mọi người nên quên những gì Beal có thể làm. Anh ấy đã ghi trung bình 30,5 điểm và 31,3 điểm mỗi trận trong hai mùa trước và sẽ có nhiều tài năng và chiều sâu hơn xung quanh anh ấy, bao gồm cả người bảo vệ quan điểm mới Monte Morris. Beal had a season to forget, averaging 23.2 points per game in 40 games before undergoing season-ending surgery on his left wrist. But that doesn't mean people should forget what Beal can do. He averaged 30.5 points and 31.3 points per game in the previous two seasons and will have more talent and depth around him, including new point guard Monte Morris.

Một câu hỏi lớn cho 2022-23: Beal và Kristaps porzingis sẽ khớp với nhau như thế nào? Bây giờ, Beal đang ở lại D.C. theo giai điệu 251 triệu đô la, Wizards đang hy vọng rằng anh ta và Porzingis sẽ đưa họ trở lại thế giới. Beal không có vấn đề gì với việc chơi trò chơi, điều khiển 6,6 hỗ trợ trong sự nghiệp mùa trước trước khi bị chấn thương cổ tay. Nếu Beal và Porzingis có thể giữ sức khỏe - đó là một điều lớn lao nếu - Washington có thể ở trong cuộc săn playoff một lần nữa. How will Beal and Kristaps Porzingis fit together? Now that Beal is staying in D.C. to the tune of $251 million, the Wizards are hoping that he and Porzingis will get them back to the postseason. Beal has no problem with playmaking, dishing a career-high 6.6 assists last season before his wrist injury. If Beal and Porzingis can stay healthy -- it's a big if -- Washington could be in the playoff hunt again.

- Ohm Youngmisuk


Số 18: Rudy Gobert

Minnesota Timberwolves | C

2021 Nbarank: Số 25 No. 25

Khuôn mặt mới ở một địa điểm mới: Sau khi trải qua chín năm đầu tiên trong sự nghiệp ở Utah, Gobert chuyển đến Minnesota trong một thương mại bom tấn kết hợp anh ta với Karl-Anthony Towns, một ông lớn All-Star với một bộ kỹ năng hoàn toàn khác. Thật thú vị khi thấy huấn luyện viên Chris Finch sử dụng Gobert, một người hoàn thiện và sàng lọc hàng đầu, và tăng cường khả năng ghi bàn của các thị trấn và Anthony Edwards thay vì làm tắc nghẽn khoảng cách của Timberwolves. After spending the first nine years of his career in Utah, Gobert moved to Minnesota in a blockbuster trade that pairs him with Karl-Anthony Towns, a fellow All-Star big man with a completely different skill set. It will be fascinating to see how coach Chris Finch utilizes Gobert, a premier screener and finisher, and enhances the scoring ability of Towns and Anthony Edwards instead of clogging the Timberwolves' spacing.

Sking Skill: "Tháp Stifle" là một hệ thống phòng thủ cho chính mình. Sự xuất hiện của Gobert trực tiếp giải quyết hai trong số những điểm yếu lớn nhất của Timberwolves: bảo vệ vành đai và hồi phục phòng thủ. Những người phản đối đã thực hiện 64,2% các mục tiêu thực địa được bảo vệ trong vòng sáu feet trước Timberwolves mùa trước, trận đấu với thứ bảy tồi tệ nhất trong giải đấu. Gobert (50,7% mùa trước) là hàng năm trong số những người bảo vệ vành đai nhất. Chỉ có Nets có tỷ lệ hồi phục phòng thủ thấp hơn so với Timberwolves (70,6), trong khi Gobert có tỷ lệ hồi phục phòng thủ cá nhân cao nhất của giải đấu (36.3). "The Stifle Tower" is a defensive system unto himself. Gobert's arrival directly addresses two of the Timberwolves' biggest weaknesses: rim protection and defensive rebounding. Opponents made 64.2% of defended field goals within six feet against the Timberwolves last season, which tied for seventh worst in the league. Gobert (50.7% last season) is annually among the stingiest rim protectors. Only the Nets had a lower defensive rebounding rate than the Timberwolves (70.6), while Gobert had the league's highest individual defensive rebounding rate (36.3).

- Tim Macmahon


Số 17: Jimmy Butler

Miami Heat | SF

2021 Nbarank: Số 16 No. 16

Kỹ năng xoay: Độ cứng. Sự nghiệp của Butler đã được định nghĩa một phần bởi khả năng thực hiện ở cấp độ cao cho dù anh ấy phải đối phó với chấn thương kéo dài nhưng ở tuổi 33 vẫn còn được nhìn thấy nếu tất cả các phút anh ấy đã đăng nhập kể từ khi tham gia giải đấu vào năm 2011- 12 mùa đã gây thiệt hại. Butler đã chơi chỉ trong 109 trong số 154 trận có thể trong hai mùa giải qua. Toughness. Butler's career has been defined in part by his ability to perform at a high level no matter what lingering injury he is dealing with but at age 33 it remains to be seen if all the minutes he has logged since coming into the league in the 2011-12 season have taken a toll. Butler has played in just 109 out of a possible 154 games over the past two seasons.

Một câu hỏi lớn cho 2022-23: Butler có thể đến gần với cuộc chạy đua mà anh ấy sản xuất mùa trước không? Nếu thêm một con trỏ 3 đã đi xuống muộn trong Trò chơi 7 của Chung kết Hội nghị Đông 2021, thì Butler có thể sẽ mang lại sức nóng cho trận chung kết lần thứ hai trong ba mùa. Butler đã đánh bóng một trong những lần chạy mạnh nhất trong lịch sử nhiệt, trung bình 27,4 điểm, 7,4 rebound và 4,6 hỗ trợ trong 17 trò chơi hậu kỳ, bao gồm cả một cuộc chạy không thể tin được trong ECF có sự tham gia đáng nhớ 47 điểm, chín, tám hỗ trợ, hỗ trợ, tám lần Hiệu suất bốn lần ăn trong Game 6. Can Butler come close to the postseason run he produced last season? If one more 3-pointer had gone down late in Game 7 of the 2021 Eastern Conference finals, Butler likely would have carried the Heat to the Finals for the second time in three seasons. Butler polished off one of the strongest postseason runs in Heat history, averaging 27.4 points, 7.4 rebounds and 4.6 assists in 17 postseason games, including an unbelievable run in the ECF which featured a memorable 47-point, nine-rebound, eight-assist, four-steal performance in Game 6.

- Friedell


Số 16: Trae Young

Atlanta Hawks | PG

2021 Nbarank: Số 17 No. 17

Một trò chơi để xem: ngày 7 tháng 12 tại New York. Trae yêu khu vườn. Khu vườn? Chà, người hâm mộ ở đó cảm thấy một cách nhất định về Trae. Bất cứ khi nào Young chơi tại MSG, nó sẽ là TV phải xem. Young chỉ chơi ở đó một lần mùa trước, bỏ lỡ một trò chơi ngày Giáng sinh vì các giao thức về sức khỏe và an toàn, nhưng anh đã giảm 45 trong chiến thắng 117-111 Atlanta. Dec. 7 at New York. Trae loves the Garden. The Garden? Well, the fans there feel a certain way about Trae. Any time Young plays at MSG, it's going to be must-see TV. Young only played there once last season, missing a Christmas Day game because of health and safety protocols, but he dropped 45 in a 117-111 Atlanta victory.

Một câu hỏi lớn cho năm 2022-23: Sự hiện diện của Dejounte Murray sẽ giúp đỡ trẻ bao nhiêu? Murray mang đến cho Hawks một trong những người xử lý bóng thứ cấp tốt nhất trong giải đấu và sẽ giảm bớt một số gánh nặng cho Young cho một đội đang tìm cách trở lại sau một mùa giải 2021-22 đáng thất vọng. Hiệu quả của Young đã tăng vọt trong mùa giải trước và có thể đưa một người khác trong mùa giải này cùng với Murray. How much will Dejounte Murray's presence help Young? Murray gives the Hawks one of the best secondary ball handlers in the league and will ease some of the burden on Young for a team that is looking to bounce back after a disappointing 2021-22 season. Young's efficiency took a jump last season and could take another one this season alongside Murray.

- Andrew Lopez


Số 15: Paul George

La Clippers | SF

2021 Nbarank: Số 12 No. 12

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: Đó là một mùa giải khó khăn đối với George, người đã xé dây chằng tài sản thế chấp ở khuỷu tay phải vào tháng 12 năm ngoái, đã trở lại vào cuối tháng 3 trong sáu trận đấu nhưng đã bỏ lỡ trò chơi chơi thứ hai do trò chơi chơi do COVID-19. Trước chấn thương khuỷu tay, George đã ghi trung bình 25,4 điểm, 7,1 rebound và 5,6 hỗ trợ trong tháng 11, mang theo Clippers mà không có Kawhi Leonard. Khi Leonard trở lại, George sẽ không phải đối mặt với sự chú ý phòng thủ nhiều về đội hình sâu nhất mà Clippers đã có kể từ khi hai người hợp tác vào mùa hè năm 2019. It was a rough season for George, who tore the ulnar collateral ligament in his right elbow last December, came back in late March for six games but missed the second play-in game due to COVID-19. Prior to the elbow injury, George averaged 25.4 points, 7.1 rebounds and 5.6 assists in the month of November, carrying the Clippers without Kawhi Leonard. When Leonard returns, George won't have to face as much defensive attention on what will be the deepest roster the Clippers have had since the two teamed up in the summer of 2019.

Một câu hỏi lớn cho năm 2022-23: Đây có phải là năm mà Clippers cuối cùng đã giành chiến thắng ở phương Tây không? Đây là năm thứ 4 cho Quan hệ đối tác George-Leonard, và nó vẫn chưa chơi một mùa giải hoàn toàn không bị gián đoạn và cùng nhau làm việc với nhau. Huấn luyện viên Tyronn Lue hy vọng anh ấy sẽ có cả hai ngôi sao của mình khỏe mạnh và nhấp chuột đến thời gian playoff. Is this the year the Clippers finally win the West? This is Year 4 for the George-Leonard partnership, and it has yet to play one full uninterrupted season and postseason together. Coach Tyronn Lue hopes he will have both of his stars healthy and clicking come playoff time.

- Youngmisuk


Số 14: Damian Lillard

Portland Trail Blazers | PG

2021 Nbarank: Số 8 No. 8

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: Lillard cao hơn sáu điểm một năm trước khi bị giới hạn ở 29 trận đấu gây ra bởi chấn thương cơ bắp cốt lõi mà cuối cùng cần phải phẫu thuật kết thúc mùa giải. Số lượng của Lillard đã giảm trên bảng vào năm 2021-22, đáng chú ý nhất là độ chính xác 32% của anh ta từ phạm vi 3 điểm sau khi đạt tốt hơn 39% trong hai mùa trước. Lillard đã chơi qua nỗi đau trong nhiều năm cho đến khi chấn thương trở nên tồi tệ hơn sau Thế vận hội Tokyo. Nhưng bây giờ anh ấy nên khỏe mạnh. Lillard was six spots higher a year ago before being limited to 29 underwhelming games by a core muscle injury that ultimately required season-ending surgery. Lillard's numbers dropped across the board in 2021-22, most notably his 32% accuracy from 3-point range after hitting better than 39% the previous two seasons. Lillard had been playing through pain for years until the injury worsened after the Tokyo Olympics. But he should be healthy now.

Một câu hỏi lớn cho 2022-23: Anfernee Simons sẽ phù hợp với Lillard như thế nào? Trong thời gian vắng mặt, Lillard đã thấy một người bảo vệ thay đổi bên cạnh anh ta. Portland đã trao đổi người bạn đời lâu năm CJ McCollum và ký lại Simons thành một hợp đồng trị giá 100 triệu đô la trong bốn năm, xác nhận anh ta là người thay thế của McCollum. Lillard và Simons đã chơi với nhau chỉ 377 phút mùa trước, theo số liệu thống kê nâng cao của NBA và Simons đã bảo vệ hơn trong các cặp đó. The Blazers cần Simons là người bổ sung ghi bàn và chơi cho Lillard mà McCollum Long là. How will Anfernee Simons fit with Lillard? During his absence, Lillard saw a changing of the guard next to him. Portland traded longtime backcourt mate CJ McCollum and re-signed Simons to a four-year, $100 million deal that confirms him as McCollum's replacement. Lillard and Simons played together just 377 minutes last season, per NBA Advanced Stats, and Simons was more deferential in those pairings. The Blazers need Simons to be the scoring and playmaking complement to Lillard that McCollum long was.

- Pelton


Số 13: Thị trấn Karl-Anthony

Minnesota Timberwolves | C

2021 Nbarank: Số 24 No. 24

Skill Skill: Cho dù các thị trấn có thực sự là người đàn ông lớn nhất mọi thời đại hay không, khi anh ta tuyên bố trước chiến thắng cuộc thi 3 điểm năm ngoái trước sự mất tinh thần của người hâm mộ Dirk Nowitzki, phụ thuộc vào định nghĩa. Mặc dù Nowitzki linh hoạt hơn, về mặt bắn 3 điểm, câu trả lời là có. Mùa trước là thứ tư của Towns với ít nhất 100 3 lần bắn 40% hoặc tốt hơn, gấp đôi so với Nowitzki hoặc bất kỳ ai khác cao hơn 6 feet-10. Whether Towns is really the greatest shooting big man of all time, as he declared ahead of last year's 3-point contest win to the dismay of Dirk Nowitzki fans, depends on the definition. Although Nowitzki was more versatile, in terms of 3-point shooting, the answer is yes. Last season was Towns' fourth with at least 100 3s on 40% shooting or better, twice as many as Nowitzki or anyone else taller than 6-foot-10.

Một câu hỏi lớn cho 2022-23: Các thị trấn có thể bảo vệ sức mạnh về phía trước không? Về mặt tấn công, khả năng bắn súng của các thị trấn sẽ làm cho việc bổ sung Gobert trở nên tương đối liền mạch. Các câu hỏi nằm ở cuối phòng thủ, nơi các thị trấn đã định cư ở trung tâm sau khi chuyển đổi giữa hai điểm Frontcourt. Dữ liệu theo dõi phổ thứ hai, 71% trận đấu nửa tòa án của thị trấn mùa trước là chống lại một cầu thủ chủ yếu chơi trung tâm. Bây giờ anh ấy sẽ có rất ít sự lựa chọn ngoài việc theo đuổi những bước tiến nhỏ hơn, nhanh hơn xung quanh chu vi. Can Towns defend power forwards? Offensively, Towns' shooting ability should make the addition of Gobert a relatively seamless one. The questions are more at the defensive end, where Towns had settled in at center after toggling between the two frontcourt spots. Per Second Spectrum tracking data, 71% of Towns' half-court matchups last season were against a player who primarily played center. Now he'll have little choice but to chase smaller, quicker forwards around the perimeter.

- Pelton


Số 13: Thị trấn Karl-Anthony

La Clippers | SF

2021 Nbarank: Số 12 NR

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: Đó là một mùa giải khó khăn đối với George, người đã xé dây chằng tài sản thế chấp ở khuỷu tay phải vào tháng 12 năm ngoái, đã trở lại vào cuối tháng 3 trong sáu trận đấu nhưng đã bỏ lỡ trò chơi chơi thứ hai do trò chơi chơi do COVID-19. Trước chấn thương khuỷu tay, George đã ghi trung bình 25,4 điểm, 7,1 rebound và 5,6 hỗ trợ trong tháng 11, mang theo Clippers mà không có Kawhi Leonard. Khi Leonard trở lại, George sẽ không phải đối mặt với sự chú ý phòng thủ nhiều về đội hình sâu nhất mà Clippers đã có kể từ khi hai người hợp tác vào mùa hè năm 2019. Leonard hasn't played since suffering a partial ACL tear in the second round of the 2020-21 playoffs. But when healthy, the two-time Finals MVP is a top-five player. If he can regain his form and stay healthy, Leonard can return to being one of the best in the game.

Một câu hỏi lớn cho năm 2022-23: Đây có phải là năm mà Clippers cuối cùng đã giành chiến thắng ở phương Tây không? Đây là năm thứ 4 cho Quan hệ đối tác George-Leonard, và nó vẫn chưa chơi một mùa giải hoàn toàn không bị gián đoạn và cùng nhau làm việc với nhau. Huấn luyện viên Tyronn Lue hy vọng anh ấy sẽ có cả hai ngôi sao của mình khỏe mạnh và nhấp chuột đến thời gian playoff. How will Leonard look once he returns? The Clippers have given no timetable for his return and little intel on Leonard. With 11 of their 15 back-to-backs taking place before February, the Clippers will have to keep an eye on Leonard's workload. Leonard plays with power and strength, and the Clippers have to make sure their star is healthy and at his strongest for the postseason.

- Youngmisuk


Số 14: Damian Lillard

Portland Trail Blazers | PG

2021 Nbarank: Số 8 No. 10

Tại sao anh ta có thể vượt quá thứ hạng của mình vào năm 2022-23: Lillard cao hơn sáu điểm một năm trước khi bị giới hạn ở 29 trận đấu gây ra bởi chấn thương cơ bắp cốt lõi mà cuối cùng cần phải phẫu thuật kết thúc mùa giải. Số lượng của Lillard đã giảm trên bảng vào năm 2021-22, đáng chú ý nhất là độ chính xác 32% của anh ta từ phạm vi 3 điểm sau khi đạt tốt hơn 39% trong hai mùa trước. Lillard đã chơi qua nỗi đau trong nhiều năm cho đến khi chấn thương trở nên tồi tệ hơn sau Thế vận hội Tokyo. Nhưng bây giờ anh ấy nên khỏe mạnh. Nov. 22 at Philadelphia. After Kevin Durant and Kyrie Irving came to Philadelphia and demolished Harden and the 76ers while Ben Simmons watched in street clothes, the first game between the two teams in Philadelphia will get just as much attention to see how Harden plays this time around.

Một câu hỏi lớn cho 2022-23: Liệu thực sự cứng rắn sẽ đứng lên? Sau một mùa hè đầy những video về sự cống hiến của Harden khi làm việc và chuẩn bị cho chiến dịch sắp tới, mọi con mắt sẽ đổ về bộ râu để xem hình thức MVP của anh ấy có thể quay lại hay không Cân nhắc là ở đây để ở lại.Will the real Harden please stand up? After a summer full of videos of Harden's dedication of working out and preparing for the upcoming campaign, all eyes will be on The Beard in order to see if his MVP form can return, or if the version who wasn't given serious All-NBA consideration is here to stay.

- Bontemps

100 người chơi nba hàng đầu 2022 18 năm 2022

Nbarank 2022: Người chơi số 100-26 | Số 25-11 | Số 10-6 (thứ năm tới) | Số 5-1 (thứ sáu sắp tới). Players Nos. 100-26 | Nos. 25-11 | Nos. 10-6 (coming Thursday) | Nos. 5-1 (coming Friday).

Người chơi NBA là số 18?

18 Mùa trước: Anthony Parker, Roger Mason, Ben Uzoh, Sasha Vujacic.Anthony Parker, Roger Mason, Ben Uzoh, Sasha Vujacic.

Ai có 18 tất cả

Hall of Famer Kareem Abdul-Jabbar giữ kỷ lục cho hầu hết các lựa chọn trò chơi toàn sao và hầu hết các trò chơi All-Star đã chơi.Anh ấy đã được chọn 19 lần và chơi trong 18 trò chơi All-Star.Kareem Abdul-Jabbar holds the record for most All-Star Game selections and most All-Star Games played. He was selected 19 times and played in 18 All-Star games.

Người chơi NBA đã chơi gì trong 18 tất cả

Kareem Abdul-Jabbar đã xuất hiện trò chơi All-Star thứ 18 vào năm 1988. made his 18th All-Star game appearance in 1988.

JA có phải là người chơi top 10 không?

Nằm trong top 10 là Ja Morant, người đã tự mình trở thành một trong những ngôi sao trẻ sáng nhất của trò chơi vào năm 2021-22.Anh đã giành được giải thưởng cầu thủ được cải thiện nhất, đã hoàn thành thứ bảy trong cuộc bỏ phiếu MVP và dẫn dắt Grizzlies đến kỷ lục tốt thứ hai trong NBA trong mùa giải thông thường. is Ja Morant, who established himself as one of the game's brightest young stars in 2021-22. He won the Most Improved Player award, finished seventh in MVP voting and lead the Grizzlies to the second-best record in the NBA during the regular season.