5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức về sức khỏe, từ sự bùng phát các bệnh dịch có thể phòng ngừa bằng vắc-xin như sởi và bạch hầu, sự gia tăng vi sinh vật kháng thuốc, tăng tỷ lệ béo phì và ít vận động thể chất tới những tác động lên sức khỏe do ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và khủng hoảng nhân đạo.

Để giải quyết những thách thức này và các mối đe dọa khác, năm 2019 là năm bắt đầu Kế hoạch Chiến lược 5-năm của Tổ chức Y tế Thế giới – Chương trình làm việc chung lần thứ 13. Kế hoạch chiến lược này sẽ tập trung vào ba mục tiêu 1 tỷ ở cả 3 chỉ số: đảm bảo thêm 1 tỷ người đươc hưởng lợi từ bao phủ sức khỏe toàn dân, thêm 1 tỷ người được bảo vệ khỏi những tình huống y tế khẩn cấp và thêm 1 tỷ người dân đạt được trạng thái sức khỏe về tinh thần và thể chất tốt hơn. Để đạt được mục tiêu này, cần phải giải quyết những mối đe dọa về sức khỏe từ nhiều góc độ khác nhau.

Dưới đây là 10 vấn đề mà Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác trong lĩnh vực y tế cần quan tâm trong năm 2019.

Ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Sự thật là 9 trên 10 người phải hít thở không khí bị ô nhiễm mỗi ngày. Trong năm 2019, Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá ô nhiêm không khí là rủi ro sức khỏe nghiêm trọng nhất do môi trường gây ra. Các chất gây ô nhiễm vi mô/siêu mịn trong không khí có thể xâm nhập vào hệ hô hấp và hệ tuần hoàn, gây tổn thương phổi, tim và não, là nguyên nhân gây ra 7 triệu ca tử vong sớm hàng năm do mắc các bệnh lý như ung thư, đột quỵ, tim và phổi. Khoảng 90% số ca tử vong này xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, nơi có tỷ lệ phát thải khí cao từ các ngành công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và việc sử dụng nhiều bếp lò cũng như nhiên liệu bẩn tại gia đình.

Nguyên nhân ban đầu gây ô nhiễm không khí (từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch) cũng chính là tác nhân chủ đạo gây ra biến đổi khí hậu, đe dọa tới sức khỏe con người theo nhiều cách khác nhau. Theo ước tính, từ năm 2030 tới 2050, biến đổi khí hậu sẽ gây ra thêm 250.000 trường hợp tử vong mỗi năm do bị suy dinh dưỡng, sốt rét, tiêu chảy và căng thẳng do nhiệt.

Tháng 10 năm 2018, Tổ chức Y tế Thế giới tổ chức Hội nghị toàn cầu về Ô nhiễm không khí và Sức khỏe lần đầu tiên tại Geneva. Các quốc gia và các tổ chức đã đưa ra hơn 70 cam kết nhằm cải thiện chất lượng không khí. Năm nay, Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu sẽ được tổ chức vào tháng 9 với mục tiêu đẩy mạnh hành động và hoài bão về biến đổi khí hậu toàn cầu. Cho dù chúng ta có đạt được các mục tiêu theo cam kết trong Thỏa thuận Paris thì trái đất vẫn sẽ nóng thêm hơn 3°C trong thế kỷ này.

Các bệnh không lây nhiễm

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Các bệnh không lây nhiễm như đái tháo đường, ung thư và tim mạch là nguyên nhân gây ra  trên 70% số ca tử vong trên thế giới, tương đương 41 triệu người, trong đó có tới 15 triệu người chết sớm trong độ tuổi từ 30 tới 69.

Hơn 85% số ca tử vong sớm xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Năm yếu tố nguy cơ chính gây nên sự gia tăng các bệnh lý này gồm: hút thuốc lá, ít hoạt động thể lực, uống rượu bia ở mức có hại, chế độ ăn không lành mạnh và ô nhiễm không khí. Các yếu tố nguy cơ này cũng làm trầm trọng thêm các vấn đề sức khỏe tâm thần, vốn có thể  có mầm mống khi còn trẻ tuổi: Một nửa trong số bệnh nhân mắc bệnh lý tâm thần khởi phát trước tuổi 14, tuy vậy phần lớn các ca bệnh này đều không được phát hiện hoặc điều trị. Tự sát là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở lứa tuổi 15 – 19.

Trong rất nhiều vấn đề, năm nay Tổ chức Y tế Thế giới sẽ hỗ trợ  chính phủ các nước đạt mục tiêu toàn cầu về giảm 15 % tỷ lệ người dân ít hoạt động thể lực vào năm 2030 thông qua các hành động như triển khai bộ công cụ chính sách ACTIVE (tích cực/chủ động) để khuyến khích nhiều người dân vận động hơn mỗi ngày.

Đại dịch cúm toàn cầu

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Thế giới sẽ đối mặt với một đại dịch cúm khác – điều duy nhất chúng ta chưa biết đó là khi nào đại dịch xảy ra và mức độ nghiêm trọng của nó. Phòng ngừa toàn cầu chỉ có hiệu quả khi có sự kết nối của hệ thống chuẩn bị và ứng phó với các tình trạng y tế khẩn cấp giữa các quốc gia.
Tổ chức Y tế Thế giới đang liên tục giám sát sự lưu hành của virus cúm nhằm phát hiện các chủng gây đại dịch tiềm ẩn: 153 viện nghiên cứu tại 114 quốc gia đã tham gia vào hệ thống giám sát và ứng phó toàn cầu.

Hàng năm, Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra khuyến cáo về những chủng cần đưa vào để sản xuất vắc-xin cúm nhằm bảo vệ người dân trước cúm mùa. Trường hợp một chủng cúm mới có tiềm năng gây đại dịch, Tổ chức Y tế Thế giới sẽ thiết lập quan hệ đối tác đặc biệt với các đối tác chính nhằm đảm bảo người dân được tiếp cận kịp thời và công bằng các dịch vụ chẩn đoán, vắc-xin và thuốc điều trị kháng vi-rút, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

Khu vực sống mong manh và dễ bị tổn thương

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Hơn 1,6 tỷ người (22% dân số toàn cầu) sống ở những khu vực có khủng hoảng kéo dài (với vô vàn thách thức như hạn hán, nạn đói, xung đột và di tán) cùng các dịch vụ y tế yếu kém khiến họ không được tiếp cận những dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản.

Môi trường sống mong manh có ở hầu hết các khu vực trên thế giới – nơi hơn một nửa các chỉ tiêu chính trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc, bao gồm sức khỏe bà mẹ và trẻ em, vẫn chưa được đáp ứng.

Tổ chức Y tế Thế giới sẽ tiếp tục hoạt động tại các quốc gia này nhằm tăng cường hệ thống y tế để chuẩn bị tốt hơn cho việc phát hiện và ứng phó trước dịch bệnh, cũng như khả năng cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao, trong đó có tiêm chủng.

Kháng kháng sinh

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Sự phát triển của kháng sinh, thuốc kháng virus và thuốc chống sốt rét là một số thành tựu lớn nhất của nền y học hiện đại. Tuy nhiên, thời gian còn hiệu lực ở các loại thuốc này đang mất dần. Kháng kháng sinh - khả năng vi khuẩn, ký sinh trùng, vi rút và nấm kháng lại các loại thuốc này – đang đe dọa đẩy con người trở lại thời kì mà chúng ta không thể dễ dàng điều trị các bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, lao, lậu và salmonella. Việc không thể ngăn ngừa nhiễm khuẩn có thể phải đánh đối bằng phẫu thuật và thủ thuật như hóa trị.

Kháng thuốc chống lao là một rào cản lớn trong cuộc chiến chống lại căn bệnh gây ra cho khoảng 10 triệu người, và 1,6 triệu ca tử vong mỗi năm. Trong năm 2017, khoảng 600.000 ca lao kháng rifampicin (thuốc điều trị lao hàng một hiệu quả nhất) - và 82% trong số đó là kháng đa thuốc.

Việc lạm dụng kháng sinh trong điều trị bệnh ở người và động vật, đặc biệt là kháng sinh sử dụng trong sản xuất thực phẩm và trong môi trường là nguyên nhân gây ra tình trạng kháng thuốc. Tổ chức Y tế Thế giới đang nỗ lực phối hợp với các ngành này nhằm triển khai kế hoạch hành động toàn cầu về phòng chống kháng kháng sinh thông qua việc nâng cao nhận thức và kiến thức, giảm nhiễm khuẩn và khuyến khích sử dụng kháng sinh một cách cẩn trọng.

Ebola và các tác nhân gây bệnh nguy hiểm khác

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Năm 2018, đã có hai đợt bùng phát dịch Ebola ghi nhận ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô. Cả hai đợt dịch này đã lan rộng sang các thành phố với hơn 1 triệu dân. Một trong số các tỉnh bị ảnh hưởng cũng là nơi đang xảy ra xung đột.

Điều này cho thấy bối cảnh nơi một bệnh do tác nhân  nguy hiểm như Ebola bùng phát thành dịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng – đáp ứng với các vụ dịch diễn ra ở vùng nông thôn trước đây không phải lúc nào cũng áp dụng được như khi dịch xảy ra ở các khu vực thành thị đông dân cư hoặc những nơi đang xảy ra xung đột.

Tại hội nghị với chủ đề Chủ động Ứng phó trước các Tình huống Y tế Công cộng khẩn cấp được tổ chức vào tháng 12 vừa qua, đại biểu từ các lĩnh vực y tế công cộng, thú y, giao thông và du lịch đã tập trung thảo luận về các thách thức ngày càng gia tăng trong việc đáp ứng dịch và các sự kiện y tế khẩn cấp xảy ra tại khu vực đô thị. Hội nghị cũng kêu gọi Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác lấy năm 2019 là “Năm hành động chủ động ứng phó với các tình huống y tế khẩn cấp”.

Chiến lược Nghiên cứu và Phát triển (R&D) của Tổ chức Y tế Thế giới đã xác định các bệnh và các tác nhân có khả năng gây ra tình trạng y tế công cộng khẩn cấp nhưng hiện tại còn thiếu phương pháp điều trị hiệu quả và vắc-xin. Danh sách các bệnh dịch được ưu tiên về nghiên cứu và phát triển bao gồm Ebola, một số bệnh sốt xuất huyết khác, Zika, Nipah, Corona vi rút gây hội chứng hô hấp vùng Trung Đông (MERS-CoV) và Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) và bệnh X - một bệnh chưa biết được tác nhân gây bệnh nhưng có thể gây ra bùng phát dịch nghiêm trọng do đó cần phải chủ động ứng phó.

Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu yếu kém

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Chăm sóc sức khỏe ban đầu thường là nơi đầu tiên người dân tiếp xúc với hệ thống y tế. Lý tưởng nhất là công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện, chi phí hợp lý và hướng tới cộng đồng trong suốt cuộc đời.

Chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể đáp ứng phần lớn nhu cầu y tế trong suốt cuộc đời của một người. Cần phải có hệ thống y tế với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu tốt nhằm đạt được mục tiêu bao phủ sức khỏe toàn dân.

Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều quốc gia vẫn chưa có đủ cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Vấn đề này có thể là do các nước có thu nhập thấp và trung bình không có đủ nguồn lực nhưng cũng có thể các nước này chỉ tập trung vào từng chương trình phòng chống bệnh riêng trong suốt nhiều thập kỉ. Tháng 10 năm 2018,Tổ chức Y tế Thế giới đồng tổ chức Hội nghị toàn cầu tại Astana, Kazakhstan. Tại đây tất cả các quốc gia đã cam kết làm mới lại những cam kết đã đưa ra về công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Tuyên bố Alma-Ata năm 1978.

Năm 2019, Tổ chức Y tế Thế giới sẽ tiếp tục phối hợp với các đối tác nhằm khôi phục lại và tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở các quốc gia, đồng thời theo dõi việc thực hiện các cam kết cụ thể trong Tuyên bố Astana.

Sự e ngại trong tiêm phòng vắc-xin

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

E ngại trong tiêm phòng vắc-xin – lưỡng lự hoặc từ chối tiêm phòng mặc dù có sẵn vắc-xin - đe dọa làm đảo ngược tiến độ phòng chống các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc xin. Tiêm chủng là một trong những phương pháp có chi phí-hiệu quả cao nhất trong phòng bệnh. Tiêm phòng vắc-xin giúp ngăn ngừa 2 – 3 triệu trường hợp tử vong mỗi năm, và sẽ ngăn ngừa được thêm 1.5 triệu trường hợp tử vong nếu tỷ lệ bao phủ tiêm phòng vắc-xin toàn cầu được cải thiện.


Ví dụ, tỷ lệ mắc sởi đã tăng 30% trên toàn cầu. Nguyên nhân của sự gia tăng này rất phức tạp, và không phải tất cả các trường hợp mắc là do e ngại tiêm phòng. Tuy nhiên, một số quốc gia đã gần chạm tới mục tiêu loại bỏ hoàn toàn sởi lại tái phát dịch.

Lý do tại sao người dân không tiêm phòng vắc-xin rất phức tạp. Nhóm tư vấn về vắc-xin của Tổ chức Y tế Thế giới xác định sự tự mãn (chủ quan), bất tiện trong việc tiếp cận vắc-xin và thiếu sự tin tưởng là những lý do chính dẫn đến sự e ngại. Nhân viên y tế, đặc biệt là những người làm việc tại cộng đồng, vẫn được coi là những người cho lời khuyên đáng tin cậy nhất và có ảnh hưởng nhất tới quyết định tiêm chủng của người dân, do đó họ cần được hỗ trợ để có thể cung cấp thông tin đáng tin cậy và chính xác về vắc-xin cho người dân.

Năm 2019, WHO sẽ đẩy mạnh hoạt động loại trừ ung thư cổ tử cung trên toàn cầu bằng cách tăng tỷ lệ bao phủ tiêm phòng vắc-xin HPV, cùng với các biện pháp can thiệp khác. Năm 2019 cũng có thể là năm không còn sự lây lan của vi-rút bại liệt hoang dã tại Afghanistan và Pakistan. Năm 2018, hai quốc gia này đã ghi nhận chưa tới 30 trường hợp mắc bại liệt. Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác cam kết hỗ trợ các nước này tiêm phòng vắc-xin cho mọi trẻ em ở đây với mục tiêu thanh toán hoàn toàn căn bệnh này.

Sốt xuất huyết

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Sốt xuất huyết – bệnh do muỗi đốt gây ra các triệu chứng giống như cúm, nhưng có thể gây chết người và gây tử vong ở 20% số người mắc xuất huyết ở mức độ nghiêm trọng – là mối đe dọa ngày càng tăng trong nhiều thập kỷ.

Xuất huyết mắc với số lượng lớn xảy ra vào mùa mưa ở các quốc gia như Bangladesh và Ấn Độ. Ngày nay, mùa bệnh dịch đang có xu hướng kéo dài tại các quốc gia này (năm 2018, Bangladesh ghi nhận số ca tử vong cao nhất trong gần hai thập kỷ), và sốt xuất huyết cũng đang lan sang các nước có khi hậu ít nhiệt đới hoặc ôn đới hơn như Nepal, những quốc gia chưa từng ghi nhận căn bệnh này.

Ước tính 40% dân số trên thế giới có nguy cơ mắc sốt xuất huyết, và có khoảng 390 triệu ca mắc mỗi năm. Chiến lược kiểm soát sốt xuất huyết của Tổ chức Y tế Thế giới đặt ra mục tiêu giảm 50% số ca tử vong vào năm 2020.

HIV

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Việc triển khai các hoạt động phòng chống HIV đã đạt được những thành quả rất to lớn như xét nghiệm cho người dân,  và cung cấp thuốc kháng virus cho họ (hiện có 22 triệu người nhiễm HIV đang được điều trị), và cung cấp các biện pháp dự phòng như điều trị dự phòng trước phơi nhiễm (PrEP, tức là dùng thuốc ARV khi có nguy cơ nhiễm HIV để phòng bệnh).

Tuy nhiên, dịch HIV vẫn tiếp tục hoành hành với gần một triệu người tử vong mỗi năm. Ngay từ khi có dịch,hơn 75 triệu người bị nhiễm HIV, và khoảng 35 triệu người đã tử vong. Ngày nay, có khoảng 37 triệu người sống chung với HIV trên toàn cầu. Việc tiếp cận những người như người bán dâm, phạm nhân, nam quan hệ tình dục đồng giới hoặc  người chuyển giới là một thách thức rất lớn. Các nhóm người này thường không tiếp cận với các dịch vụ y tế. Nhóm trẻ em gái và phụ nữ (độ tuổi 15-24) ngày càng bị ảnh hưởng bởi HIV. Họ là những đối tượng có nguy cơ đặc biệt cao và chiếm ¼ số ca nhiễm HIV ở khu vực cận sa mạc Sahara Châu Phi mặc dù nhóm này chỉ chiếm 10% dân số.

Năm nay, WHO sẽ hợp tác với các quốc gia để hỗ trợ việc triển khai tự xét nghiệm HIV để nhiều người nhiễm HIV biết được tình trạng HIV của mình và được điều trị (hoặc có các biện pháp phòng ngừa trong trường hợp kết quả xét nghiệm âm tính). Tổ chức Y tế Thế giới sẽ phối hợp với Tổ chức Lao động Quốc tế  để thực hiện hoạt động theo Hướng dẫn mới được công bố vào tháng 12 năm 2018 là hỗ trợ các doanh nghiệp và các tổ chức để đưa các dịch vụ tự xét nghiệm HIV tới nơi làm việc.

  • Danh sách nhật ký
  • Plos một
  • PMC3720806

Plos một. 2013; 8 (7): E67494. 2013; 8(7): e67494.

Mingguang He, biên tập viênEditor

trừu tượng

Mục tiêu

Để ước tính tỷ lệ mắc bệnh mãn tính ở những bệnh nhân gặp bác sĩ đa khoa (GP), bệnh nhân tham gia thực hành chung ít nhất một lần trong một năm và dân số Úc.

Thiết kế, thiết lập và người tham gia

Một nghiên cứu phụ của Bãi biển (cải thiện việc đánh giá và chăm sóc sức khỏe), một nghiên cứu quốc gia liên tục về hoạt động thực hành chung được thực hiện từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 5 năm 2009. Chẩn đoán các tình trạng mãn tính, sử dụng kiến ​​thức về bệnh nhân, tự báo cáo bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe của bệnh nhân.

Kết cục chính

Ước tính tỷ lệ mắc bệnh mãn tính ở những bệnh nhân được khảo sát, tỷ lệ lưu hành điều chỉnh ở những bệnh nhân tham gia thực hành chung ít nhất một lần và tỷ lệ dân số quốc gia.

Kết quả

Hai phần ba (66,3%) bệnh nhân được khảo sát có ít nhất một tình trạng mãn tính: phổ biến nhất là tăng huyết áp (26,6%), tăng lipidaemia (18,5%), viêm xương khớp (17,8%), trầm cảm (13,7%) 11,6%), hen suyễn (9,5%) và bệnh tiểu đường loại 2 (8,3%). Đối với những bệnh nhân tham gia thực hành chung ít nhất một lần, chúng tôi ước tính 58,8% có ít nhất một tình trạng mãn tính. Sau khi điều chỉnh thêm, chúng tôi ước tính 50,8%dân số Úc có ít nhất một tình trạng mãn tính: tăng huyết áp (17,4%), tăng lipidaemia (12,7%), viêm xương khớp (11,1%), trầm cảm (10,5%) và hen suyễn (8,0%) .

Kết luận

Nghiên cứu này đã sử dụng GPS để thu thập thông tin từ kiến ​​thức của họ, bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe, để cung cấp ước tính tỷ lệ lưu hành mà chỉ vượt qua các điểm yếu của các nghiên cứu chỉ sử dụng bệnh nhân tự báo cáo hoặc kiểm toán hồ sơ sức khỏe. Kết quả của chúng tôi tạo điều kiện cho việc kiểm tra sử dụng tài nguyên chăm sóc chính trong quản lý các tình trạng mãn tính và đo lường tỷ lệ mắc đa dạng ở Úc.

Giới thiệu

Sự lão hóa của dân số [1] dự kiến ​​sẽ dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh mãn tính, đa bào [2] và nhu cầu chăm sóc chính [3]. Để cho phép các hệ thống y tế đáp ứng các mức tăng này, tỷ lệ mắc bệnh mãn tính cần được đo lường một cách chính xác và kịp thời. Có ba phương pháp chính mà tỷ lệ lưu hành thường được đo lường: tự báo cáo người trả lời; Kiểm toán hồ sơ sức khỏe; và sàng lọc.

Nhiều chính phủ sử dụng các cuộc khảo sát về sức khỏe dân số lớn dựa vào tự báo cáo của người trả lời để đo lường tỷ lệ mắc bệnh mãn tính [4]-[6]. Một nghiên cứu như vậy là Khảo sát sức khỏe quốc gia [7] (NHS), một trong những nghiên cứu lớn nhất về tình trạng mãn tính của Úc, chủ yếu dựa vào tự báo cáo của người trả lời mặc dù có những lo ngại rõ ràng về tính hợp lệ và độ tin cậy của thông tin sức khỏe tự báo cáo [8] - [12].

Sử dụng hồ sơ sức khỏe (giấy và/hoặc điện tử) để ước tính tỷ lệ lưu hành thường được coi là vượt trội so với tự báo cáo bệnh nhân [13]-[15]. Tuy nhiên, chất lượng thông tin trong hồ sơ sức khỏe có thể bị xâm phạm thông qua không chính xác [16] - [18] hoặc hồ sơ không đầy đủ [9], [15] và thường có vấn đề trong việc có được sự đồng ý của bệnh nhân. Các nghiên cứu sàng lọc dân số, chẳng hạn như bệnh tiểu đường Úc, béo phì và nghiên cứu lối sống (AUSDIAB) [19], tránh những vấn đề này, nhưng thường bị giới hạn ở một bệnh hoặc nhóm bệnh cụ thể và tương đối tốn kém - nghiên cứu AUSDIAB gần đây nhất có giá Hơn 2,5 triệu đô la [20].

Úc có một chương trình bảo hiểm y tế toàn cầu gọi là Medicare (hoàn toàn hoặc một phần) bao gồm các cá nhân chi phí thăm khám cho các bác sĩ đa khoa (GPS). GPS cung cấp phần lớn việc chăm sóc chính và đóng vai trò là người giữ cổng cho chăm sóc sức khỏe do chính phủ trợ cấp từ các chuyên gia y tế khác. Bãi biển (cải thiện việc đánh giá và chăm sóc sức khỏe) là một nghiên cứu về hoạt động thực hành chung ở Úc. Các nghiên cứu phụ của chương trình bãi biển có thể cung cấp các ước tính tỷ lệ lưu hành quốc gia cho các tình trạng mãn tính, không có giới hạn của kiểm toán hồ sơ sức khỏe và tự báo cáo bệnh nhân. Nghiên cứu trước đây của chúng tôi [21] cho thấy rằng bằng cách nhúng các nghiên cứu phụ trong chương trình Bãi biển quốc gia [22], chúng tôi có thể đạt được ước tính tỷ lệ lưu hành chính xác, chính xác về các tình trạng mãn tính phổ biến. Độ chính xác đã đạt được bằng cách sử dụng GP như một người phỏng vấn và người cung cấp thông tin chuyên gia, dựa trên kiến ​​thức của họ về bệnh nhân, kiến ​​thức của bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe của bệnh nhân.

Bài viết này xây dựng dựa trên các phương pháp trước đây của chúng tôi bằng cách mở rộng phạm vi của nghiên cứu để bao gồm tất cả các tình trạng mãn tính (thay vì lựa chọn các tình trạng mãn tính phổ biến) và bằng cách cải thiện phương pháp đối phó với những người không tham gia khi ước tính tỷ lệ lưu hành dân số. Bài viết này sẽ cho thấy rằng bằng cách sử dụng GP như một người phỏng vấn chuyên gia trong cơ sở hạ tầng bãi biển hiện tại, chúng ta có thể vượt qua những hạn chế của bệnh nhân tự báo cáo hoặc xem xét hồ sơ sức khỏe của bệnh nhân, để ước tính tỷ lệ mắc các tình trạng mãn tính ở Úc, với chi phí cận biên đến chương trình bãi biển tổng thể.

Phương pháp

Trong nghiên cứu này, các bệnh nhân tham dự một mẫu GPS tham gia chương trình bãi biển đã được khảo sát. Bãi biển là một nghiên cứu cắt ngang quốc gia liên tục về hoạt động thực hành chung ở Úc. Các phương pháp của nó được mô tả chi tiết ở nơi khác [22]. Tóm lại, một mẫu ngẫu nhiên, luôn thay đổi khoảng 1.000 GPS mỗi năm mỗi hồ sơ thông tin về các cuộc gặp gỡ với 100 bệnh nhân đồng ý liên tiếp, trên các hình thức giấy có cấu trúc [22].

Trong các nghiên cứu phụ của bãi biển, GP ghi lại thông tin bổ sung cho dữ liệu gặp gỡ, trong cuộc thảo luận với bệnh nhân. Các phương pháp đầy đủ cho các nghiên cứu phụ được báo cáo ở nơi khác [22]. Trong nghiên cứu phụ này, 375 GPS tham gia mỗi người được yêu cầu ghi nhận các tình trạng mãn tính được chẩn đoán cho mỗi 30 bệnh nhân liên tiếp trong 100 hồ sơ bãi biển của họ trong ba thời gian ghi âm năm tuần từ ngày 15 tháng 7 năm 2008 đến ngày 4 tháng 5 năm 2009.

Các câu hỏi ngắn gọn, giảm gánh nặng phản ứng đối với GPS và bệnh nhân. GPS đã được hỏi, bệnh nhân có bất kỳ bệnh/vấn đề mãn tính nào sau đây không? Các điều kiện mãn tính phổ biến đã được liệt kê (hộp đánh dấu) với các không gian trống bổ sung cho phép mô tả văn bản miễn phí của các tình trạng mãn tính chưa niêm yết khác (Hình 1). Một tùy chọn không có điều kiện mãn tính cũng được cung cấp. GPS được hướng dẫn để sử dụng kiến ​​thức, kiến ​​thức bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe của riêng bạn khi bạn thấy phù hợp, để trả lời những câu hỏi này. Các điều kiện mãn tính được liệt kê chủ yếu là những điều kiện được quản lý thường xuyên nhất trong số các thực hành chung của Úc [22]. Các tình trạng ít thường xuyên hơn (như bệnh thận mãn tính và béo phì) được đưa vào khi nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng họ phổ biến trong bệnh nhân thực hành nói chung [22]. Tất cả các điều kiện khu vực ưu tiên sức khỏe quốc gia hiện tại được bao gồm [23]. Các điều kiện văn bản miễn phí được phân loại theo phân loại quốc tế về chăm sóc chính (phiên bản 2) (ICPC-2) [24].Figure 1). A “no chronic conditions” option was also provided. GPs were instructed to “Use your own knowledge, patient knowledge and health records as you see fit, in order to answer these questions”. Chronic conditions listed were primarily those most frequently managed among Australian general practice [22]. Other less frequently managed conditions (such as chronic kidney disease and obesity) were included where previous research had indicated they were prevalent in general practice patients [22]. All current National Health Priority area conditions were included [23]. Free text conditions were classified according to the International Classification of Primary Care (Version 2) (ICPC-2) [24].

5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Bảng câu hỏi phụ trên bãi biển về tỷ lệ mắc bệnh mãn tính.

Phân tích dữ liệu

Để đảm bảo càng nhiều bệnh nhân càng tốt được giữ trong mẫu số, chúng tôi đã kiểm tra các mẫu phản ứng của GPS đối với dữ liệu bị thiếu. Trong trường hợp GPS đã đánh dấu vào một hoặc nhiều điều kiện cho một số bệnh nhân và không đánh dấu vào bất kỳ lựa chọn nào (bao gồm cả không có vấn đề về vấn đề mãn tính) đối với các bệnh nhân khác, các bệnh nhân không có phản ứng nào được so sánh với tổng số mẫu và nhóm No không có vấn đề về vấn đề mãn tính. Nếu những bệnh nhân bị thiếu dữ liệu giống như bệnh nhân trong các vấn đề mãn tính ở nhóm bệnh nhân này về độ tuổi, giới tính và các vấn đề được quản lý khi gặp phải như là. Bệnh nhân không có lựa chọn nào được đánh dấu nhưng với bất kỳ tình trạng mãn tính nào (theo định nghĩa của O'Halloran et al [25]) được quản lý khi gặp nhau cũng được đưa vào mẫu, với (các) điều kiện mãn tính được ghi nhận trong nghiên cứu phụ.

Các nghiên cứu phụ ở bãi biển có thiết kế cụm một giai đoạn, với mỗi GP có 30 bệnh nhân tập hợp xung quanh họ. Hiệu ứng cụm được tính đến khi sử dụng SAS 9.2.

Ước tính tỷ lệ lưu hành của mẫu là tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh trong tổng số mẫu và có thể được hiểu là tỷ lệ lưu hành ở những bệnh nhân được tìm thấy trong phòng chờ GP.

Khi bệnh nhân được lấy mẫu tại các tư vấn GP, ​​khả năng được lấy mẫu phụ thuộc vào tần suất thăm khám. Do đó, những người tham dự thường xuyên (chẳng hạn như bệnh nhân lớn tuổi có thể có nhiều vấn đề về sức khỏe hơn) có nhiều khả năng được lấy mẫu hơn những người tham dự không thường xuyên. Ước tính tỷ lệ lưu hành mẫu được điều chỉnh cho khả năng này bằng cách cân nhắc mẫu học tập phụ so với phân phối giới tính tuổi của những người đã đến thăm bác sĩ gia đình ít nhất một lần trong năm 2008. ). Chúng tôi đã sử dụng các nhóm tuổi 10 năm đến 90 tuổi trở lên. Các ví dụ làm việc về tất cả các trọng số của chúng tôi là trong Bảng 1. Áp dụng các trọng số này dẫn đến ước tính tỷ lệ lưu hành cho dân số bệnh nhân thực hành chung (ví dụ: những người nhìn thấy GP ít nhất một lần trong năm đó).table 1. Applying these weights resulted in prevalence estimates for the general practice patient population (ie. those who saw a GP at least once that year).

Bảng 1

Ví dụ làm việc của phương pháp trọng số.

Công thứcVí dụ làm việc: 80 bệnh nhân nữ89 tuổi có tình trạng xVí dụ làm việc: 10 bệnh nhân nam19 tuổi với tình trạng x
A = tỷ lệ dân số đã thấy GP ít nhất một lần trong năm đó được chọn2,03%5,83%
B = tỷ lệ mẫu trong nhóm giới tính được chọn4,83%3,03%
C = A/B (Trọng lượng người tham dự GP)0.42 1.92
D = tỷ lệ của tổng dân số Úc1,87%6,52%
E = D/B (Trọng lượng quốc gia)0.38 2.15
F = số đã nhìn thấy GP ít nhất một lần trong năm đó (MBS GP ITEM tuyên bố*)362,815 1,040,270
G = số lượng dân số (Cục Thống kê Úc)401,097 1,476,395
H = f/g (tỷ lệ của nhóm giới tính tuổi đã thấy GP ít nhất một lần trong năm đó)90,46%70,46%
Điều chỉnh kết quả (hoặc tử số) để ước tính tỷ lệ lưu hành quốc gia = E*HĐiều kiện x đếm = 0,34Điều kiện x đếm = 1,51
Mẫu số cho ước tính quốc gia (cho cả bệnh nhân có và không có tình trạng) = E0.38 2.15

Để ước tính tỷ lệ lưu hành quốc gia, trước tiên chúng tôi đã cân nhắc mẫu học tập phụ so với phân phối giới tính của người dân ở độ tuổi của người Úc vào tháng 6 năm 2008, 09 [26]. Chúng tôi cho rằng những người không tham dự bác sĩ đa khoa năm đó không có bệnh mãn tính. Sau khi trọng số ở trên, chúng tôi nhân lên kết quả (số lượng tình trạng) cho mỗi bệnh nhân, theo tỷ lệ nhóm giới tính độ tuổi của họ, người đã nhìn thấy GP ít nhất một lần trong năm đó. Điều này chiếm cho những người không nhìn thấy GP. Cách tiếp cận này khác với phương pháp trước đây của chúng tôi, nơi tỷ lệ lưu hành dân số của bệnh nhân thực hành chung được nhân với tỷ lệ toàn bộ dân số tham dự ít nhất một lần [18]. Phương pháp mới này sẽ chính xác hơn nếu tỷ lệ bệnh nhân lớn tuổi hơn (hơn trẻ hơn) tham dự ít nhất một lần và nếu bệnh nhân lớn tuổi có nhiều khả năng mắc bệnh mãn tính.

Chúng tôi đã so sánh tỷ lệ lưu hành dân số quốc gia của chúng tôi với các ước tính từ bài báo trước đây của chúng tôi [21] và từ NHS [7]. Sự khác biệt đáng kể với bài báo trước đó của chúng tôi được xác định bằng khoảng tin cậy 95% không chồng chéo (CIS). Vì CIS cho NHS [7] không có sẵn công khai, chúng tôi cho rằng các ước tính của NHS không nằm trong 95% CIS của ước tính dân số của chúng tôi là khác nhau đáng kể.

Chuẩn mực đạo đức

Trong thời gian thu thập dữ liệu cho nghiên cứu này, chương trình bãi biển đã được phê duyệt bởi Ủy ban đạo đức nghiên cứu con người của Đại học Sydney và Ủy ban Đạo đức của Viện Y tế và Phúc lợi Úc. Phương pháp của chúng tôi liên quan đến việc thu thập dữ liệu từ các bệnh nhân không xác định, đồng ý. Thẻ thông tin bệnh nhân được cung cấp trong bộ nghiên cứu, GPS được hướng dẫn hiển thị cho bệnh nhân để có được sự đồng ý (một ví dụ được hiển thị trong Britt et al [22]). Nếu bệnh nhân chọn không tham gia chi tiết cuộc gặp gỡ của họ không được ghi lại. GPS được hướng dẫn lưu ý sự đồng ý của bệnh nhân trong hồ sơ của bệnh nhân, nhưng được yêu cầu không cung cấp sự đồng ý bằng văn bản cho cơ quan nghiên cứu, vì điều này ngăn chặn bệnh nhân còn lại ẩn danh. Những phương pháp này tuân thủ các yêu cầu đạo đức cho chương trình bãi biển.

Kết quả

Các gói nghiên cứu hoàn thành đã được trả lại bởi 290 GPS (77,3%) đã trả lời cho 8.333 (95,7%) bệnh nhân trong tổng số 8.707. Không có vấn đề về mãn tính ở bệnh nhân này, bệnh nhân đã đánh dấu vào 2.620 (31,4%) bệnh nhân và 5.713 (68,6%) có ít nhất một tình trạng mãn tính được ghi nhận. Chỉ có 374 bệnh nhân (4,3% trong số 8.707 bệnh nhân được lấy mẫu) không có phản ứng được ghi nhận. Chúng tương tự như những bệnh nhân mắc bệnh không có vấn đề gì về vấn đề mãn tính, cả hai nhóm đều trẻ trung hơn so với tổng số mẫu và phần lớn các vấn đề được quản lý trong các cuộc gặp gỡ của họ là cấp tính, trong khi trong tổng số mẫu này chủ yếu là các vấn đề mãn tính. Sáu mươi bốn bệnh nhân không có phản ứng có một hoặc nhiều tình trạng mãn tính được quản lý trong cuộc gặp gỡ và được đưa vào là có các tình trạng này trong khi 310 bệnh nhân còn lại không có phản ứng nào được thêm vào nhóm không có vấn đề về vấn đề mãn tính. Tổng cộng có 8.707 bệnh nhân trong mẫu của chúng tôi với 5.777 (66,3%) có ít nhất một tình trạng mãn tính được chỉ định và 2.930 (33,7%) không có.

Phân phối giới tính tuổi của mẫu bệnh nhân cuối cùng không khác biệt đáng kể so với bệnh nhân tại tất cả các cuộc gặp gỡ GP được tuyên bố (là các mục dịch vụ) thông qua Medicare năm 2008, năm 2009 và già hơn dân số tham dự GP ít nhất một lần (Ban 2). Khả năng ít nhất một tình trạng mãn tính tăng đáng kể với tuổi bệnh nhân nhưng không khác nhau giữa nam và nữ.Table 2). The likelihood of at least one chronic condition increased significantly with patient age but did not differ among males and females.

ban 2

Phân phối tuổi/giới tính của bệnh nhân được lấy mẫu so với tất cả các bệnh nhân tại các mặt hàng dịch vụ GP được yêu cầu thông qua Medicare và với dân số thực hành chung của Úc.

Tuổi bệnh nhân/tình dụcSố trong mẫuPhần trăm mẫu (95% TCTD)Phần trăm yêu cầu dịch vụ thực hành chung của Úc*Phần trăm dân số thực hành chung của Úc †Tỷ lệ mẫu có ít nhất một tình trạng mãn tính (95% TCTD)
Nam giới
<15 years 595 6,9% (6,2 trận7.6)7,3%9,6%19,8% (16,4 trận23.3)
15 năm24 năm272 3,2% (2,8 trận3.6)3,3%5,8%32,7% (27,4 trận38.1)
25 năm44 năm735 8,5% (7,7 trận9.4)8,6%12,2%56,3% (51,9 Từ60.7)
45 năm64 năm1,020 11,8% (10,9 bóng12.8)11,8%12,5%82,1% (79,2 bóng85.1)
65 trận74 năm487 5,7% (5.0 Ném6.3)5,8%3,9%96,1% (94,4 trận97.8)
Hơn 75 năm486 5,6% (5.0 Ném6.3)5,5%2,8%97,9% (96,7 Từ99.2)
Giống cái
<15 years 565 6,6% (5,9 bóng7.2)6,5%9.1%16,8% (13,6 Từ20.0)
15 năm24 năm497 5,8% (5,2 bóng6.4)6.0%6,8%39,4% (34,6 bóng44.3)
25 năm44 năm1,297 15,1% (14.0 Từ16.1)14,5%15,2%52,1% (49,1 bóng55.2)
45 năm64 năm1,405 16,3% (15,31717)15,6%13,9%81,0% (78,6 Từ83.4)
65 trận74 năm550 6,4% (5,8 trận7.0)6,7%4.2%94,2% (92.1 Từ96.2)
Hơn 75 năm703 5,6% (5.0 Ném6.3)5,5%2,8%97,9% (96,7 Từ99.2)

Giống cái

Cardiovascular problems were the most common, 31.3% having at least one, most prevalent being hypertension (26.6%) and ischaemic heart disease (8.7%) (Table 3). One or more endocrine/nutritional/metabolic diseases were present in 30.8% of patients, most commonly hyperlipidaemia (18.5%) and Type 2 diabetes (8.3%). Musculoskeletal conditions were present in 26.4% of patients, 19.7% having at least one type of arthritis (largely osteoarthritis 17.8%). One or more psychological problems were present in 22.1% of patients (13.7% depression and 8.3% anxiety). Asthma was indicated for 9.5% of patients and chronic obstructive airways/pulmonary disease (COAD/COPD) in 4.1%.

6,6% (5,9 bóng7.2)

6,5%

9.1%16,8% (13,6 Từ20.0)15 năm24 năm5,8% (5,2 bóng6.4)6.0%6,8%
39,4% (34,6 bóng44.3) 25 năm44 năm15,1% (14.0 Từ16.1)14,5%15,2%52,1% (49,1 bóng55.2)
45 năm64 năm 16,3% (15,31717)15,6%13,9%81,0% (78,6 Từ83.4)16.4
6,4% (5,8 trận7.0)6,7%4.2%94,2% (92.1 Từ96.2)8.2% (7.1 Vang9.2)9.4
8,5%4.1%98,2% (97,1 trận99.2)Tỷ lệ lưu hành mẫuCác vấn đề về tim mạch là phổ biến nhất, 31,3%có ít nhất một, phổ biến nhất là tăng huyết áp (26,6%) và bệnh tim thiếu máu cục bộ (8,7%) (Bảng 3). Một hoặc nhiều bệnh nội tiết/dinh dưỡng/chuyển hóa đã có mặt ở 30,8%bệnh nhân, phổ biến nhất là tăng lipid máu (18,5%) và bệnh tiểu đường loại 2 (8,3%). Tình trạng cơ xương khớp có mặt ở 26,4% bệnh nhân, 19,7% có ít nhất một loại viêm khớp (phần lớn là viêm xương khớp 17,8%). Một hoặc nhiều vấn đề tâm lý đã có ở 22,1% bệnh nhân (13,7% trầm cảm và 8,3% lo lắng). Hen suyễn được chỉ định cho 9,5% bệnh nhân và đường thở tắc nghẽn mãn tính/bệnh phổi (CoAD/COPD) trong 4,1%.3.81
bàn số 3Tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính được lựa chọn trong mẫu, tham dự dân số và dân số Úc.Tình trạngTỷ lệ lưu hành mẫuTỷ lệ ở những người tham dự ít nhất một lần1.22
Tỷ lệ dân sốKnox et al. Ước tính dân số (2005) [21]Ước tính NHS (2007) [7]Tỷ lệ lưu hành mẫuTỷ lệ ở những người tham dự ít nhất một lần1.33
Tỷ lệ dân số Knox et al. Ước tính dân số (2005) [21]Ước tính NHS (2007) [7]Ít nhất một tình trạng mãn tính52,1% (49,1 bóng55.2)45 năm64 năm
16,3% (15,31717)15,6%13,9%81,0% (78,6 Từ83.4)6,4% (5,8 trận7.0)5.74
6,7%4.2%94,2% (92.1 Từ96.2)8.2% (7.1 Vang9.2)8,5%4.0
4.1%98,2% (97,1 trận99.2)Tỷ lệ lưu hành mẫuCác vấn đề về tim mạch là phổ biến nhất, 31,3%có ít nhất một, phổ biến nhất là tăng huyết áp (26,6%) và bệnh tim thiếu máu cục bộ (8,7%) (Bảng 3). Một hoặc nhiều bệnh nội tiết/dinh dưỡng/chuyển hóa đã có mặt ở 30,8%bệnh nhân, phổ biến nhất là tăng lipid máu (18,5%) và bệnh tiểu đường loại 2 (8,3%). Tình trạng cơ xương khớp có mặt ở 26,4% bệnh nhân, 19,7% có ít nhất một loại viêm khớp (phần lớn là viêm xương khớp 17,8%). Một hoặc nhiều vấn đề tâm lý đã có ở 22,1% bệnh nhân (13,7% trầm cảm và 8,3% lo lắng). Hen suyễn được chỉ định cho 9,5% bệnh nhân và đường thở tắc nghẽn mãn tính/bệnh phổi (CoAD/COPD) trong 4,1%.bàn số 30.4
Tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính được lựa chọn trong mẫu, tham dự dân số và dân số Úc.Tình trạngTỷ lệ lưu hành mẫuTỷ lệ ở những người tham dự ít nhất một lầnTỷ lệ dân số3.5
Knox et al. Ước tính dân số (2005) [21]Ước tính NHS (2007) [7]Ít nhất một tình trạng mãn tính66.3 (64,4 trận68.3)52,1% (49,1 bóng55.2)25.05
45 năm64 năm 16,3% (15,31717)15,6%13,9%52,1% (49,1 bóng55.2)30.7
45 năm64 năm16,3% (15,31717)15,6%13,9%81,0% (78,6 Từ83.4)15.2
6,4% (5,8 trận7.0)6,7%Các vấn đề về tim mạch là phổ biến nhất, 31,3%có ít nhất một, phổ biến nhất là tăng huyết áp (26,6%) và bệnh tim thiếu máu cục bộ (8,7%) (Bảng 3). Một hoặc nhiều bệnh nội tiết/dinh dưỡng/chuyển hóa đã có mặt ở 30,8%bệnh nhân, phổ biến nhất là tăng lipid máu (18,5%) và bệnh tiểu đường loại 2 (8,3%). Tình trạng cơ xương khớp có mặt ở 26,4% bệnh nhân, 19,7% có ít nhất một loại viêm khớp (phần lớn là viêm xương khớp 17,8%). Một hoặc nhiều vấn đề tâm lý đã có ở 22,1% bệnh nhân (13,7% trầm cảm và 8,3% lo lắng). Hen suyễn được chỉ định cho 9,5% bệnh nhân và đường thở tắc nghẽn mãn tính/bệnh phổi (CoAD/COPD) trong 4,1%.bàn số 3Tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính được lựa chọn trong mẫu, tham dự dân số và dân số Úc.2.1
Tình trạngTỷ lệ lưu hành mẫuTỷ lệ ở những người tham dự ít nhất một lầnTỷ lệ dân sốKnox et al. Ước tính dân số (2005) [21]7.8
Ước tính NHS (2007) [7]Ít nhất một tình trạng mãn tính66.3 (64,4 trận68.3)58.8 (56,7 Từ60.8)52,1% (49,1 bóng55.2)6.1
45 năm64 năm16,3% (15,31717)15,6%13,9%81,0% (78,6 Từ83.4)13.86
6,4% (5,8 trận7.0)6,7%4.2%94,2% (92.1 Từ96.2)52,1% (49,1 bóng55.2)3.4
45 năm64 năm 16,3% (15,31717)15,6%13,9%81,0% (78,6 Từ83.4)11.2
6,4% (5,8 trận7.0)6,7%4.2%94,2% (92.1 Từ96.2)8.2% (7.1 Vang9.2)7.47
8,5%4.1%98,2% (97,1 trận99.2)Tỷ lệ lưu hành mẫuCác vấn đề về tim mạch là phổ biến nhất, 31,3%có ít nhất một, phổ biến nhất là tăng huyết áp (26,6%) và bệnh tim thiếu máu cục bộ (8,7%) (Bảng 3). Một hoặc nhiều bệnh nội tiết/dinh dưỡng/chuyển hóa đã có mặt ở 30,8%bệnh nhân, phổ biến nhất là tăng lipid máu (18,5%) và bệnh tiểu đường loại 2 (8,3%). Tình trạng cơ xương khớp có mặt ở 26,4% bệnh nhân, 19,7% có ít nhất một loại viêm khớp (phần lớn là viêm xương khớp 17,8%). Một hoặc nhiều vấn đề tâm lý đã có ở 22,1% bệnh nhân (13,7% trầm cảm và 8,3% lo lắng). Hen suyễn được chỉ định cho 9,5% bệnh nhân và đường thở tắc nghẽn mãn tính/bệnh phổi (CoAD/COPD) trong 4,1%.3.3
bàn số 3Tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính được lựa chọn trong mẫu, tham dự dân số và dân số Úc.Tình trạngTỷ lệ lưu hành mẫu52,1% (49,1 bóng55.2)52,1% (49,1 bóng55.2)
45 năm64 năm16,3% (15,31717)15,6%13,9%52,1% (49,1 bóng55.2)0.8
45 năm64 năm 16,3% (15,31717)15,6%13,9%52,1% (49,1 bóng55.2)45 năm64 năm
16,3% (15,31717)15,6%13,9%81,0% (78,6 Từ83.4)6,4% (5,8 trận7.0)52,1% (49,1 bóng55.2)
45 năm64 năm 6,7%4.2%94,2% (92.1 Từ96.2)52,1% (49,1 bóng55.2)45 năm64 năm
16,3% (15,31717)15,6%13,9%81,0% (78,6 Từ83.4)6,4% (5,8 trận7.0)9.9
6,7%4.2%94,2% (92.1 Từ96.2)8.2% (7.1 Vang9.2)8,5%2.48
4.1% 98,2% (97,1 trận99.2)Tỷ lệ lưu hành mẫuCác vấn đề về tim mạch là phổ biến nhất, 31,3%có ít nhất một, phổ biến nhất là tăng huyết áp (26,6%) và bệnh tim thiếu máu cục bộ (8,7%) (Bảng 3). Một hoặc nhiều bệnh nội tiết/dinh dưỡng/chuyển hóa đã có mặt ở 30,8%bệnh nhân, phổ biến nhất là tăng lipid máu (18,5%) và bệnh tiểu đường loại 2 (8,3%). Tình trạng cơ xương khớp có mặt ở 26,4% bệnh nhân, 19,7% có ít nhất một loại viêm khớp (phần lớn là viêm xương khớp 17,8%). Một hoặc nhiều vấn đề tâm lý đã có ở 22,1% bệnh nhân (13,7% trầm cảm và 8,3% lo lắng). Hen suyễn được chỉ định cho 9,5% bệnh nhân và đường thở tắc nghẽn mãn tính/bệnh phổi (CoAD/COPD) trong 4,1%.bàn số 31.6

Tỷ lệ mắc các bệnh mãn tính được lựa chọn trong mẫu, tham dự dân số và dân số Úc.

Tình trạngTable 3) with 58.8% having at least one chronic condition. In particular, cardiovascular disease, arthritis and diabetes, (conditions common in older age), were significantly less prevalent after adjustment. Estimated prevalence of asthma and of psychological problems were largely unaffected by adjustment suggesting more similar prevalence of each across attending population age groups.

Tỷ lệ lưu hành mẫu

Tỷ lệ ở những người tham dự ít nhất một lần

Ước tính của nghiên cứu này về tỷ lệ dân số có ít nhất một tình trạng mãn tính không khác biệt đáng kể so với ước tính nghiên cứu năm 2005. Đối với các vấn đề mãn tính riêng lẻ, có rất ít sự khác biệt được tìm thấy giữa hai nghiên cứu: ước tính của chúng tôi về viêm xương khớp, đau lưng và lo lắng thấp hơn đáng kể so với nghiên cứu trước đây của chúng tôi và ước tính tân sinh ác tính cao hơn đáng kể. So với NHS, ước tính tỷ lệ lưu hành dân số của chúng tôi cao hơn đáng kể đối với hầu hết các tình trạng tim mạch, tăng lipid máu, viêm xương khớp, đái tháo đường, trầm cảm, lo âu và u ác tính và thấp hơn đáng kể đối với viêm khớp dạng thấp, đau lưng, đau xương. Có sự thỏa thuận giữa hai ước tính về suy tim sung huyết, COAD/COPD và các vấn đề về rượu và ma túy. Không có kết quả so sánh có sẵn từ NHS đối với Gord, rối loạn giấc ngủ và các nhóm vấn đề nội tiết, đường tiêu hóa và hô hấp.

Thảo luận

Mặc dù có sự khác biệt trong cả phạm vi điều kiện được khảo sát và phương pháp trọng số dữ liệu, ước tính tỷ lệ lưu hành của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu trước đó của chúng tôi [21]. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng gần hai phần ba bệnh nhân ngồi trước GP và một nửa dân số Úc có ít nhất một tình trạng mãn tính. Các ước tính tỷ lệ lưu hành mẫu này cung cấp một biện pháp về nhu cầu sức khỏe cơ bản của bệnh nhân tham gia thực hành chung, khác với nhu cầu chăm sóc sức khỏe được đo bằng tỷ lệ quản lý bệnh tật thực hành chung. Tuy nhiên, không có gì đáng ngạc nhiên, các vấn đề phổ biến nhất trong mẫu của chúng tôi tương tự như những vấn đề thường được quản lý trong thực tế nói chung [22].

Tiêu chí bao gồm có thể giải thích một số khác biệt giữa ước tính NHS và ước tính của chúng tôi. Ví dụ, định nghĩa của chúng tôi về đau lưng, bị giới hạn ở đau lưng mãn tính trong khi NHS, bao gồm tất cả các loại vấn đề lưng. Một nguyên nhân có thể khác cho sự khác biệt là sự phụ thuộc của NHS vào tự báo cáo của người trả lời, ví dụ: Sự nhầm lẫn giữa các thuật ngữ Viêm khớp và bệnh thấp khớp có thể giải thích tại sao NHS tạo ra một ước tính cao hơn nhiều về tỷ lệ mắc bệnh viêm khớp dạng thấp.

Mặc dù ước tính tỷ lệ lưu hành của chúng tôi về các vấn đề tâm lý (16,6%) cao hơn khoảng 50% so với ước tính NHS, nhưng ước tính khảo sát sức khỏe tâm thần và sức khỏe tâm thần quốc gia năm 2007 [27]. Ước tính tỷ lệ lưu hành của chúng tôi đối với tăng huyết áp (16,6%) nằm giữa các ước tính của NHS (9,4%) và 2005 [28] (31,1%). Tuy nhiên, người ta sẽ mong đợi kết quả của AUSDIAB sẽ cao hơn vì hai lý do. Đầu tiên, họ chỉ đo huyết áp một lần theo hướng dẫn của ai để xét nghiệm tại hiện trường [29] trong khi GP sẽ sử dụng các biện pháp lặp đi lặp lại trước khi chẩn đoán [30]. Thứ hai, họ bao gồm những bệnh nhân có huyết áp là bình thường, nhưng đang dùng thuốc chống tăng huyết áp. Điều này sẽ bao gồm những người không được chẩn đoán tăng huyết áp được kê đơn thuốc chống tăng huyết áp để giảm nguy cơ tim mạch của họ từ một tình trạng khác như bệnh tiểu đường [30].

Sự khác biệt lớn nhất trong ước tính là béo phì. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy chỉ có 8,0% bệnh nhân ngồi trước GP bị béo phì. Đây là ước tính thấp hơn nhiều so với 25,0% bệnh nhân trưởng thành được tìm thấy ở NHS [7] và 26,7% ở các nghiên cứu phụ ở bãi biển lớn khác nơi bệnh nhân tự báo cáo chiều cao và cân nặng [22]. Nhiều người có thể tìm thấy tỷ lệ lưu hành thấp được tìm thấy trong nghiên cứu của chúng tôi về mối quan tâm, đặc biệt là khi người ta cho rằng béo phì được quản lý không thường xuyên trong thực tiễn chung như một điều kiện theo quyền riêng của mình [22]. Tuy nhiên, mặc dù béo phì không thường xuyên được quản lý như một tình trạng được xác định, trong việc quản lý các vấn đề khác tư vấn về chế độ ăn uống và tập thể dục là một trong những phương pháp điều trị thường xuyên nhất được đưa ra bởi GPS trong thực hành nói chung của Úc [22]. Khi béo phì được quản lý trong thực hành chung, phần lớn thời gian bệnh nhân đã nêu ra nó như một vấn đề mà họ muốn quản lý [31]. Điều này cho thấy mong muốn điều trị của bệnh nhân đóng vai trò mạnh mẽ trong việc liệu GP có quản lý béo phì như một điều kiện theo đúng nghĩa của nó hay không. Tuy nhiên, ước tính tỷ lệ lưu hành của chúng tôi là 8,0% phù hợp với 8,1% bệnh nhân mắc bệnh béo phì bệnh (BMI của 35+) được tìm thấy trong nghiên cứu trước đây [32]. Điều này có thể gợi ý rằng GPS trong nghiên cứu của chúng tôi đang xác định những bệnh nhân có mức độ béo phì cực kỳ kinh niên hơn.

Ước tính tỷ lệ lưu hành cao hơn một chút của chúng tôi về ít nhất một tình trạng mãn tính so với nghiên cứu trước đây của chúng tôi có lẽ là do chúng tôi bao gồm tất cả các tình trạng mãn tính thay vì chỉ là một lựa chọn. Tuy nhiên, dân số già hoặc tăng trong chẩn đoán cũng có thể góp phần vào sự khác biệt này.

Nghiên cứu của chúng tôi có những hạn chế. Chúng tôi cho rằng những người không nhìn thấy bác sĩ gia đình của họ trong năm trước hiện không có tình trạng mãn tính được chẩn đoán. Giả định này có thể không giữ các điều kiện như hen suyễn, nơi nó nhẹ và không cần phải có GP tham dự năm đó. Điều này có thể giải thích ước tính tỷ lệ lưu hành thấp hơn của chúng tôi đối với bệnh hen suyễn so với NHS.

Một vấn đề với việc đo lường các tình trạng mãn tính được chẩn đoán là, giống như hầu hết các nghiên cứu về tỷ lệ lưu hành, chúng tôi chỉ có thể cung cấp các ước tính cho các điều kiện đã được chẩn đoán. Như nghiên cứu AUSDIAB cho thấy, một tỷ lệ đáng kể người Úc mắc bệnh tiểu đường và tăng huyết áp không được chẩn đoán [28].

Cuối cùng, mẫu của chúng tôi đã được rút ra từ những bệnh nhân tham gia thực hành chung, vì vậy chúng tôi có nhiều khả năng lấy mẫu những người tham dự thường xuyên hơn. Mặc dù chúng tôi điều chỉnh cho sự tham dự cao hơn của bệnh nhân nữ và người lớn tuổi, phương pháp của chúng tôi không thể điều chỉnh cho những người tham dự cao trong một nhóm giới tính tuổi mười năm cụ thể. Nếu bệnh nhân có điều kiện cụ thể luôn tham dự thường xuyên hơn mức trung bình cho độ tuổi và giới tính của họ, điều này có thể khiến chúng ta phải đánh giá quá cao tỷ lệ mắc các điều kiện này.

Sự kết luận

Nghiên cứu này cung cấp dữ liệu lưu hành hiện tại duy nhất sử dụng GP làm người phỏng vấn và người bán thông tin chuyên gia để thu thập thông tin từ bệnh nhân, kiến ​​thức của họ về bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe. Đối với chi phí cận biên cho chương trình bãi biển, cuộc điều tra này có thể được thực hiện trên cơ sở hàng năm và có thể được mở rộng đến 30.000 bệnh nhân mỗi năm nếu cần phải lấy mẫu lớn hơn. Ước tính của chúng tôi có thể được sử dụng để kiểm tra sử dụng tài nguyên chăm sóc chính trong quản lý các tình trạng mãn tính này. Điều quan trọng, phạm vi tăng của nghiên cứu này cho phép đo tỷ lệ lưu hành của tất cả các bệnh mãn tính và do đó có thể được sử dụng để đo lường tỷ lệ mắc bệnh đa dạng ở Úc. Để tăng thêm độ chính xác của các ước tính, phiên bản tiếp theo của nghiên cứu này sẽ bao gồm một câu hỏi về số lần thăm khám bệnh nhân đến bất kỳ GP nào trong năm qua để chúng tôi có thể điều chỉnh cho sự thay đổi nhóm giới tính trong độ tuổi trong tần số truy cập.

Sự nhìn nhận

Các tác giả cảm ơn những người tham gia GP ở Beach và tất cả các thành viên của nhóm Beach.

Tuyên bố tài trợ

Chương trình bãi biển mà dữ liệu cho nghiên cứu này được rút ra được hỗ trợ bởi một tập đoàn của các cơ quan công nghiệp và chính phủ. Các nhà tài trợ không có vai trò trong thiết kế nghiên cứu, thu thập và phân tích dữ liệu, quyết định xuất bản hoặc chuẩn bị bản thảo. Các tổ chức tài trợ trong giai đoạn Dữ liệu cho nghiên cứu này được thu thập là: Bộ Y tế và Lão hóa Chính phủ Úc, Viện Y tế và Phúc lợi Úc, AstraZeneca Pty Ltd (Úc), Janssen-Cilag Pty Ltd, Merck Sharp và DOHME ( Úc) Pty Ltd, Pfizer Australia, Abbott Australiasia Pty Ltd, Sanofi-Aventis Australia Pty Ltd, Wyeth Australia Pty Ltd, Novartis Dược phẩm Australia Pty Ltd, Gloxosmithkline Australia Pty Pty.

Người giới thiệu

1. Liên Hợp Quốc (2001) Lão hóa dân số thế giới: 1950 Từ2050. Canberra: Cơ bụng.United Nation (2001) World population ageing: 1950–2050. Canberra: ABS.

2. Britt HC, Harrison CM, Miller GC, Knox SA (2008) tỷ lệ lưu hành và mô hình đa bào ở Úc. Med J Aust189: 72 Từ77. [PubMed] [Học giả Google] Britt HC, Harrison CM, Miller GC, Knox SA (2008) Prevalence and patterns of multimorbidity in Australia. Med J Aust 189: 72–77. [PubMed] [Google Scholar]

3 [PubMed] [Học giả Google] Harrison C, Britt H (2011) General practice—workforce gaps now and in 2020. Aust Fam Physician 40: 12–15. [PubMed] [Google Scholar]

7. Cục Thống kê Úc (2009) Khảo sát sức khỏe quốc gia: Tóm tắt kết quả, 2007. Canberra: Cơ bụng.Australian Bureau of Statistics (2009) National Health Survey: summary of results, 2007–08. Canberra: ABS.

8. Britt H, Harris M, Driver B, Bridges-Webb C, O'Toole B, et al. (1992) Lý do gặp gỡ và chẩn đoán các vấn đề sức khỏe: sự hội tụ giữa bác sĩ và bệnh nhân. Fam thực tế9: 191 Từ194. [PubMed] [Học giả Google] Britt H, Harris M, Driver B, Bridges-Webb C, O'Toole B, et al. (1992) Reasons for encounter and diagnosed health problems: convergence between doctors and patients. Fam Pract 9: 191–194. [PubMed] [Google Scholar]

9. Kehoe R, Wu SY, Leske MC, Chylack LT JR (1994) So sánh lịch sử y tế tự báo cáo và bác sĩ được báo cáo. Am J Epidemiol139: 813 Từ818. [PubMed] [Học giả Google] Kehoe R, Wu SY, Leske MC, Chylack LT Jr (1994) Comparing self-reported and physician-reported medical history. Am J Epidemiol 139: 813–818. [PubMed] [Google Scholar]

. [PubMed] [Học giả Google] Mohangoo AD, van der Linden MW, Schellevis FG, Raat H (2006) Prevalence estimates of asthma or COPD from a health interview survey and from general practitioner registration: what's the difference? Eur J Public Health 16: 101–105. [PubMed] [Google Scholar]

11. Linet MS, Harlow SD, McLaughlin JK, McCaffrey LD (1989) So sánh dữ liệu phỏng vấn và hồ sơ y tế cho các điều kiện y tế và phẫu thuật trước đây. J Clin Epidemiol42: 1207 Từ1213. [PubMed] [Học giả Google] Linet MS, Harlow SD, McLaughlin JK, McCaffrey LD (1989) A comparison of interview data and medical records for previous medical conditions and surgery. J Clin Epidemiol 42: 1207–1213. [PubMed] [Google Scholar]

12. Harlow SD, Linet MS (1989) Thỏa thuận giữa dữ liệu câu hỏi và hồ sơ y tế. Bằng chứng cho độ chính xác của thu hồi. Am J Epidemiol129: 233 Từ248. [PubMed] [Học giả Google] Harlow SD, Linet MS (1989) Agreement between questionnaire data and medical records. The evidence for accuracy of recall. Am J Epidemiol 129: 233–248. [PubMed] [Google Scholar]

13. Merkin SS, Cavanaugh K, Longenecker JC, Fink NE, Levey AS, et al. (2007) Thỏa thuận về tình trạng hôn mê tự báo cáo với các báo cáo y tế và bác sĩ khác nhau theo bệnh ở bệnh nhân bệnh thận giai đoạn cuối. J Clin Epidemiol60: 634 Từ642. [Bài viết miễn phí PMC] [PubMed] [Google Scholar] Merkin SS, Cavanaugh K, Longenecker JC, Fink NE, Levey AS, et al. (2007) Agreement of self-reported comorbid conditions with medical and physician reports varied by disease among end-stage renal disease patients. J Clin Epidemiol 60: 634–642. [PMC free article] [PubMed] [Google Scholar]

14. Martin LM, Leff M, Calonge N, Garrett C, Nelson DE (2000) Xác nhận các tình trạng mãn tính tự báo cáo và các dịch vụ y tế trong dân số chăm sóc được quản lý. Am J Prev Med18: 215 Từ218. [PubMed] [Học giả Google] Martin LM, Leff M, Calonge N, Garrett C, Nelson DE (2000) Validation of self-reported chronic conditions and health services in a managed care population. Am J Prev Med 18: 215–218. [PubMed] [Google Scholar]

15. Zhu K, McKnight B, Stergachis A, Daling JR, Levine RS (1999) So sánh dữ liệu tự báo cáo và dữ liệu hồ sơ y tế: Kết quả từ một nghiên cứu kiểm soát trường hợp về ung thư tuyến tiền liệt. Int J Epidemiol28: 409 Từ417. [PubMed] [Học giả Google] Zhu K, McKnight B, Stergachis A, Daling JR, Levine RS (1999) Comparison of self-report data and medical records data: results from a case-control study on prostate cancer. Int J Epidemiol 28: 409–417. [PubMed] [Google Scholar]

16. Một nghiên cứu về tính chính xác của các báo cáo tự báo cáo của bệnh nhân và về các yếu tố quyết định không chính xác. J Clin Epidemiol49: 1407 Từ1417. [PubMed] [Học giả Google] Kriegsman DM, Penninx BW, van Eijk JT, Boeke AJ, Deeg DJ (1996) Self-reports and general practitioner information on the presence of chronic diseases in community dwelling elderly. A study on the accuracy of patients' self-reports and on determinants of inaccuracy. J Clin Epidemiol 49: 1407–1417. [PubMed] [Google Scholar]

17. JAMA283: 1715 Từ1722. [PubMed] [Học giả Google] Peabody JW, Luck J, Glassman P, Dresselhaus TR, Lee M (2000) Comparison of vignettes, standardized patients, and chart abstraction: a prospective validation study of 3 methods for measuring quality. JAMA 283: 1715–1722. [PubMed] [Google Scholar]

18. Một so sánh trong tương lai của bệnh nhân tiêu chuẩn với hồ sơ y tế. Am J Med108: 642 Từ649. [PubMed] [Học giả Google] Luck J, Peabody JW, Dresselhaus TR, Lee M, Glassman P (2000) How well does chart abstraction measure quality? A prospective comparison of standardized patients with the medical record. Am J Med 108: 642–649. [PubMed] [Google Scholar]

19. Cameron AJ, Zimmet PZ, Atkins RC, Shaw JE (2007) Nghiên cứu về bệnh tiểu đường, béo phì và lối sống của Úc, nghiên cứu bệnh tiểu đường và bệnh tim mạch trong cả nước. Bệnh nội tiết Hoa Kỳ 26 trận29. [Học giả Google] Cameron AJ, Zimmet PZ, Atkins RC, Shaw JE (2007) The Australian Diabetes, Obesity and Lifestyle Study—profiling diabetes and cardiovascular disease risk in the nation. US Endocrine Disease 26–29. [Google Scholar]

21. Knox SA, Harrison CM, Britt HC, Henderson JV (2008) Ước tính tỷ lệ mắc bệnh mãn tính phổ biến ở Úc. Med J Aust189: 66 Từ70. [PubMed] [Học giả Google] Knox SA, Harrison CM, Britt HC, Henderson JV (2008) Estimating prevalence of common chronic morbidities in Australia. Med J Aust 189: 66–70. [PubMed] [Google Scholar]

22. Britt H, Miller G, Charles J, Henderson J, Bayram C, et al .. (2011) Hoạt động thực hành chung ở Úc 2010. Sydney: Nhà xuất bản Đại học Sydney.Britt H, Miller G, Charles J, Henderson J, Bayram C, et al.. (2011) General practice activity in Australia 2010–11. Sydney: Sydney University Press.

25. O'Halloran J, Miller GC, Britt H (2004) Xác định các tình trạng mãn tính để chăm sóc chính với ICPC-2. FAM thực tế21: 381 Từ386. [PubMed] [Học giả Google] O'Halloran J, Miller GC, Britt H (2004) Defining chronic conditions for primary care with ICPC-2. Fam Pract 21: 381–386. [PubMed] [Google Scholar]

27. Cục Thống kê Úc (2008) Khảo sát quốc gia về sức khỏe tâm thần và phúc lợi: Tóm tắt kết quả, 2007 Canberra: ABS.Australian Bureau of Statistics (2008) National Survey of Mental Health and Wellbeing: Summary of results, 2007. Canberra: ABS.

28. Melbourne: Viện tiểu đường quốc tế.Magliano DJ, Barr ELM, Zimmet PZ, Cameron AJ, Dunstan DW, et al.. (2006) AusDiab 2005 The Australian Diabetes, Obesity and Lifestyle Study. Melbourne: International Diabetes Institute.

30. [Học giả Google] National Heart Foundation of Australia (National Blood Pressure and Vascular Disease Advisory Committee) (2010 December) Guide to management of hypertension 2008: Assessing and managing raised blood pressure in adults. [Google Scholar]

31. Valenti L (2008) Việc quản lý thừa cân và béo phì ở người lớn tham gia thực hành chung ở Úc [luận án]. [Học giả Google] Valenti L (2008) The management of overweight and obesity in adults attending general practice in Australia [dissertation]. [Google Scholar]

32. Britt H, Miller G, Henderson J, Harrison C, O'Halloran J, et al. (2009) Thực hành chung ở Úc, ưu tiên y tế và chính sách 19982002008. [Học giả Google] Britt H, Miller G, Henderson J, Harrison C, O'Halloran J, et al. (2009) General practice in Australia, health priorities and policy 1998–2008. [Google Scholar]


Các bài viết từ PLOS ONE được cung cấp ở đây lịch sự của PLOSPLOS ONE are provided here courtesy of PLOS


5 bệnh mãn tính chính là gì?

Các bệnh mãn tính - như bệnh tim, ung thư, tiểu đường, đột quỵ và viêm khớp - là nguyên nhân hàng đầu gây khuyết tật và tử vong ở bang New York và trên khắp Hoa Kỳ.heart disease, cancer, diabetes, stroke, and arthritis - are the leading causes of disability and death in New York State and throughout the United States.

Ba 3 bệnh mãn tính được xác định phổ biến nhất ở Úc là gì?

Các tình trạng mãn tính là nguyên nhân hàng đầu của bệnh tật, khuyết tật và tử vong ở Úc.Các tình trạng mãn tính phổ biến bao gồm ung thư, bệnh tim và bệnh tiểu đường.Tìm hiểu những gì chúng tôi đang làm để ngăn ngừa và quản lý các tình trạng mãn tính ở Úc.cancer, heart disease and diabetes. Find out what we're doing to prevent and manage chronic conditions in Australia.

7 bệnh mãn tính phổ biến nhất là gì?

Huyết áp cao (tăng huyết áp) ảnh hưởng đến 58% người cao niên.....
Cholesterol cao ảnh hưởng đến 47% người cao niên.....
Viêm khớp ảnh hưởng đến 31% người cao niên.....
Bệnh tim mạch vành ảnh hưởng đến 29% người cao niên.....
Bệnh tiểu đường ảnh hưởng đến 27% người cao niên.....
Bệnh thận mãn tính (CKD) ảnh hưởng đến 18% người cao niên.....
Suy tim ảnh hưởng đến 14% người cao niên ..

10 bệnh mãn tính phổ biến nhất là gì?

Top 10 bệnh mãn tính đắt nhất cho những người trả tiền chăm sóc sức khỏe ăn hết đô la chăm sóc sức khỏe đáng kể ...
Bệnh tim và đột quỵ.....
Bệnh tiểu đường.....
Viêm khớp.....
Các vấn đề sức khỏe liên quan đến rượu.....
Sự xấu xa.....
Béo phì.....
Bệnh Alzheimer.....
Các vấn đề sức khỏe liên quan đến hút thuốc ..