5 bệnh mãn tính hàng đầu ở Úc năm 2022

Thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức về sức khỏe, từ sự bùng phát các bệnh dịch có thể phòng ngừa bằng vắc-xin như sởi và bạch hầu, sự gia tăng vi sinh vật kháng thuốc, tăng tỷ lệ béo phì và ít vận động thể chất tới những tác động lên sức khỏe do ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu và khủng hoảng nhân đạo.

Để giải quyết những thách thức này và các mối đe dọa khác, năm 2019 là năm bắt đầu Kế hoạch Chiến lược 5-năm của Tổ chức Y tế Thế giới – Chương trình làm việc chung lần thứ 13. Kế hoạch chiến lược này sẽ tập trung vào ba mục tiêu 1 tỷ ở cả 3 chỉ số: đảm bảo thêm 1 tỷ người đươc hưởng lợi từ bao phủ sức khỏe toàn dân, thêm 1 tỷ người được bảo vệ khỏi những tình huống y tế khẩn cấp và thêm 1 tỷ người dân đạt được trạng thái sức khỏe về tinh thần và thể chất tốt hơn. Để đạt được mục tiêu này, cần phải giải quyết những mối đe dọa về sức khỏe từ nhiều góc độ khác nhau.

Dưới đây là 10 vấn đề mà Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác trong lĩnh vực y tế cần quan tâm trong năm 2019.

Ô nhiễm không khí và biến đổi khí hậu

Sự thật là 9 trên 10 người phải hít thở không khí bị ô nhiễm mỗi ngày. Trong năm 2019, Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá ô nhiêm không khí là rủi ro sức khỏe nghiêm trọng nhất do môi trường gây ra. Các chất gây ô nhiễm vi mô/siêu mịn trong không khí có thể xâm nhập vào hệ hô hấp và hệ tuần hoàn, gây tổn thương phổi, tim và não, là nguyên nhân gây ra 7 triệu ca tử vong sớm hàng năm do mắc các bệnh lý như ung thư, đột quỵ, tim và phổi. Khoảng 90% số ca tử vong này xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình, nơi có tỷ lệ phát thải khí cao từ các ngành công nghiệp, giao thông, nông nghiệp và việc sử dụng nhiều bếp lò cũng như nhiên liệu bẩn tại gia đình.

Nguyên nhân ban đầu gây ô nhiễm không khí [từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch] cũng chính là tác nhân chủ đạo gây ra biến đổi khí hậu, đe dọa tới sức khỏe con người theo nhiều cách khác nhau. Theo ước tính, từ năm 2030 tới 2050, biến đổi khí hậu sẽ gây ra thêm 250.000 trường hợp tử vong mỗi năm do bị suy dinh dưỡng, sốt rét, tiêu chảy và căng thẳng do nhiệt.

Tháng 10 năm 2018, Tổ chức Y tế Thế giới tổ chức Hội nghị toàn cầu về Ô nhiễm không khí và Sức khỏe lần đầu tiên tại Geneva. Các quốc gia và các tổ chức đã đưa ra hơn 70 cam kết nhằm cải thiện chất lượng không khí. Năm nay, Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc về Biến đổi khí hậu sẽ được tổ chức vào tháng 9 với mục tiêu đẩy mạnh hành động và hoài bão về biến đổi khí hậu toàn cầu. Cho dù chúng ta có đạt được các mục tiêu theo cam kết trong Thỏa thuận Paris thì trái đất vẫn sẽ nóng thêm hơn 3°C trong thế kỷ này.

Các bệnh không lây nhiễm

Các bệnh không lây nhiễm như đái tháo đường, ung thư và tim mạch là nguyên nhân gây ra  trên 70% số ca tử vong trên thế giới, tương đương 41 triệu người, trong đó có tới 15 triệu người chết sớm trong độ tuổi từ 30 tới 69.

Hơn 85% số ca tử vong sớm xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Năm yếu tố nguy cơ chính gây nên sự gia tăng các bệnh lý này gồm: hút thuốc lá, ít hoạt động thể lực, uống rượu bia ở mức có hại, chế độ ăn không lành mạnh và ô nhiễm không khí. Các yếu tố nguy cơ này cũng làm trầm trọng thêm các vấn đề sức khỏe tâm thần, vốn có thể  có mầm mống khi còn trẻ tuổi: Một nửa trong số bệnh nhân mắc bệnh lý tâm thần khởi phát trước tuổi 14, tuy vậy phần lớn các ca bệnh này đều không được phát hiện hoặc điều trị. Tự sát là nguyên nhân thứ hai gây tử vong ở lứa tuổi 15 – 19.

Trong rất nhiều vấn đề, năm nay Tổ chức Y tế Thế giới sẽ hỗ trợ  chính phủ các nước đạt mục tiêu toàn cầu về giảm 15 % tỷ lệ người dân ít hoạt động thể lực vào năm 2030 thông qua các hành động như triển khai bộ công cụ chính sách ACTIVE [tích cực/chủ động] để khuyến khích nhiều người dân vận động hơn mỗi ngày.


Đại dịch cúm toàn cầu

Thế giới sẽ đối mặt với một đại dịch cúm khác – điều duy nhất chúng ta chưa biết đó là khi nào đại dịch xảy ra và mức độ nghiêm trọng của nó. Phòng ngừa toàn cầu chỉ có hiệu quả khi có sự kết nối của hệ thống chuẩn bị và ứng phó với các tình trạng y tế khẩn cấp giữa các quốc gia.
Tổ chức Y tế Thế giới đang liên tục giám sát sự lưu hành của virus cúm nhằm phát hiện các chủng gây đại dịch tiềm ẩn: 153 viện nghiên cứu tại 114 quốc gia đã tham gia vào hệ thống giám sát và ứng phó toàn cầu.

Hàng năm, Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra khuyến cáo về những chủng cần đưa vào để sản xuất vắc-xin cúm nhằm bảo vệ người dân trước cúm mùa. Trường hợp một chủng cúm mới có tiềm năng gây đại dịch, Tổ chức Y tế Thế giới sẽ thiết lập quan hệ đối tác đặc biệt với các đối tác chính nhằm đảm bảo người dân được tiếp cận kịp thời và công bằng các dịch vụ chẩn đoán, vắc-xin và thuốc điều trị kháng vi-rút, đặc biệt ở các nước đang phát triển.

Khu vực sống mong manh và dễ bị tổn thương

Hơn 1,6 tỷ người [22% dân số toàn cầu] sống ở những khu vực có khủng hoảng kéo dài [với vô vàn thách thức như hạn hán, nạn đói, xung đột và di tán] cùng các dịch vụ y tế yếu kém khiến họ không được tiếp cận những dịch vụ chăm sóc y tế cơ bản.

Môi trường sống mong manh có ở hầu hết các khu vực trên thế giới – nơi hơn một nửa các chỉ tiêu chính trong các mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hiệp Quốc, bao gồm sức khỏe bà mẹ và trẻ em, vẫn chưa được đáp ứng.

Tổ chức Y tế Thế giới sẽ tiếp tục hoạt động tại các quốc gia này nhằm tăng cường hệ thống y tế để chuẩn bị tốt hơn cho việc phát hiện và ứng phó trước dịch bệnh, cũng như khả năng cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao, trong đó có tiêm chủng.

Kháng kháng sinh

Sự phát triển của kháng sinh, thuốc kháng virus và thuốc chống sốt rét là một số thành tựu lớn nhất của nền y học hiện đại. Tuy nhiên, thời gian còn hiệu lực ở các loại thuốc này đang mất dần. Kháng kháng sinh - khả năng vi khuẩn, ký sinh trùng, vi rút và nấm kháng lại các loại thuốc này – đang đe dọa đẩy con người trở lại thời kì mà chúng ta không thể dễ dàng điều trị các bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, lao, lậu và salmonella. Việc không thể ngăn ngừa nhiễm khuẩn có thể phải đánh đối bằng phẫu thuật và thủ thuật như hóa trị.

Kháng thuốc chống lao là một rào cản lớn trong cuộc chiến chống lại căn bệnh gây ra cho khoảng 10 triệu người, và 1,6 triệu ca tử vong mỗi năm. Trong năm 2017, khoảng 600.000 ca lao kháng rifampicin [thuốc điều trị lao hàng một hiệu quả nhất] - và 82% trong số đó là kháng đa thuốc.

Việc lạm dụng kháng sinh trong điều trị bệnh ở người và động vật, đặc biệt là kháng sinh sử dụng trong sản xuất thực phẩm và trong môi trường là nguyên nhân gây ra tình trạng kháng thuốc. Tổ chức Y tế Thế giới đang nỗ lực phối hợp với các ngành này nhằm triển khai kế hoạch hành động toàn cầu về phòng chống kháng kháng sinh thông qua việc nâng cao nhận thức và kiến thức, giảm nhiễm khuẩn và khuyến khích sử dụng kháng sinh một cách cẩn trọng.

Ebola và các tác nhân gây bệnh nguy hiểm khác

Năm 2018, đã có hai đợt bùng phát dịch Ebola ghi nhận ở Cộng hòa Dân chủ Công-gô. Cả hai đợt dịch này đã lan rộng sang các thành phố với hơn 1 triệu dân. Một trong số các tỉnh bị ảnh hưởng cũng là nơi đang xảy ra xung đột.

Điều này cho thấy bối cảnh nơi một bệnh do tác nhân  nguy hiểm như Ebola bùng phát thành dịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng – đáp ứng với các vụ dịch diễn ra ở vùng nông thôn trước đây không phải lúc nào cũng áp dụng được như khi dịch xảy ra ở các khu vực thành thị đông dân cư hoặc những nơi đang xảy ra xung đột.

Tại hội nghị với chủ đề Chủ động Ứng phó trước các Tình huống Y tế Công cộng khẩn cấp được tổ chức vào tháng 12 vừa qua, đại biểu từ các lĩnh vực y tế công cộng, thú y, giao thông và du lịch đã tập trung thảo luận về các thách thức ngày càng gia tăng trong việc đáp ứng dịch và các sự kiện y tế khẩn cấp xảy ra tại khu vực đô thị. Hội nghị cũng kêu gọi Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác lấy năm 2019 là “Năm hành động chủ động ứng phó với các tình huống y tế khẩn cấp”.

Chiến lược Nghiên cứu và Phát triển [R&D] của Tổ chức Y tế Thế giới đã xác định các bệnh và các tác nhân có khả năng gây ra tình trạng y tế công cộng khẩn cấp nhưng hiện tại còn thiếu phương pháp điều trị hiệu quả và vắc-xin. Danh sách các bệnh dịch được ưu tiên về nghiên cứu và phát triển bao gồm Ebola, một số bệnh sốt xuất huyết khác, Zika, Nipah, Corona vi rút gây hội chứng hô hấp vùng Trung Đông [MERS-CoV] và Hội chứng hô hấp cấp tính nặng [SARS] và bệnh X - một bệnh chưa biết được tác nhân gây bệnh nhưng có thể gây ra bùng phát dịch nghiêm trọng do đó cần phải chủ động ứng phó.

Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu yếu kém

Chăm sóc sức khỏe ban đầu thường là nơi đầu tiên người dân tiếp xúc với hệ thống y tế. Lý tưởng nhất là công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cung cấp dịch vụ chăm sóc toàn diện, chi phí hợp lý và hướng tới cộng đồng trong suốt cuộc đời.

Chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể đáp ứng phần lớn nhu cầu y tế trong suốt cuộc đời của một người. Cần phải có hệ thống y tế với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu tốt nhằm đạt được mục tiêu bao phủ sức khỏe toàn dân.

Tuy nhiên, trên thực tế, nhiều quốc gia vẫn chưa có đủ cơ sở chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Vấn đề này có thể là do các nước có thu nhập thấp và trung bình không có đủ nguồn lực nhưng cũng có thể các nước này chỉ tập trung vào từng chương trình phòng chống bệnh riêng trong suốt nhiều thập kỉ. Tháng 10 năm 2018,Tổ chức Y tế Thế giới đồng tổ chức Hội nghị toàn cầu tại Astana, Kazakhstan. Tại đây tất cả các quốc gia đã cam kết làm mới lại những cam kết đã đưa ra về công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Tuyên bố Alma-Ata năm 1978.

Năm 2019, Tổ chức Y tế Thế giới sẽ tiếp tục phối hợp với các đối tác nhằm khôi phục lại và tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở các quốc gia, đồng thời theo dõi việc thực hiện các cam kết cụ thể trong Tuyên bố Astana.

Sự e ngại trong tiêm phòng vắc-xin

E ngại trong tiêm phòng vắc-xin – lưỡng lự hoặc từ chối tiêm phòng mặc dù có sẵn vắc-xin - đe dọa làm đảo ngược tiến độ phòng chống các bệnh có thể phòng ngừa được bằng vắc xin. Tiêm chủng là một trong những phương pháp có chi phí-hiệu quả cao nhất trong phòng bệnh. Tiêm phòng vắc-xin giúp ngăn ngừa 2 – 3 triệu trường hợp tử vong mỗi năm, và sẽ ngăn ngừa được thêm 1.5 triệu trường hợp tử vong nếu tỷ lệ bao phủ tiêm phòng vắc-xin toàn cầu được cải thiện.


Ví dụ, tỷ lệ mắc sởi đã tăng 30% trên toàn cầu. Nguyên nhân của sự gia tăng này rất phức tạp, và không phải tất cả các trường hợp mắc là do e ngại tiêm phòng. Tuy nhiên, một số quốc gia đã gần chạm tới mục tiêu loại bỏ hoàn toàn sởi lại tái phát dịch.

Lý do tại sao người dân không tiêm phòng vắc-xin rất phức tạp. Nhóm tư vấn về vắc-xin của Tổ chức Y tế Thế giới xác định sự tự mãn [chủ quan], bất tiện trong việc tiếp cận vắc-xin và thiếu sự tin tưởng là những lý do chính dẫn đến sự e ngại. Nhân viên y tế, đặc biệt là những người làm việc tại cộng đồng, vẫn được coi là những người cho lời khuyên đáng tin cậy nhất và có ảnh hưởng nhất tới quyết định tiêm chủng của người dân, do đó họ cần được hỗ trợ để có thể cung cấp thông tin đáng tin cậy và chính xác về vắc-xin cho người dân.

Năm 2019, WHO sẽ đẩy mạnh hoạt động loại trừ ung thư cổ tử cung trên toàn cầu bằng cách tăng tỷ lệ bao phủ tiêm phòng vắc-xin HPV, cùng với các biện pháp can thiệp khác. Năm 2019 cũng có thể là năm không còn sự lây lan của vi-rút bại liệt hoang dã tại Afghanistan và Pakistan. Năm 2018, hai quốc gia này đã ghi nhận chưa tới 30 trường hợp mắc bại liệt. Tổ chức Y tế Thế giới và các đối tác cam kết hỗ trợ các nước này tiêm phòng vắc-xin cho mọi trẻ em ở đây với mục tiêu thanh toán hoàn toàn căn bệnh này.

Sốt xuất huyết

Sốt xuất huyết – bệnh do muỗi đốt gây ra các triệu chứng giống như cúm, nhưng có thể gây chết người và gây tử vong ở 20% số người mắc xuất huyết ở mức độ nghiêm trọng – là mối đe dọa ngày càng tăng trong nhiều thập kỷ.

Xuất huyết mắc với số lượng lớn xảy ra vào mùa mưa ở các quốc gia như Bangladesh và Ấn Độ. Ngày nay, mùa bệnh dịch đang có xu hướng kéo dài tại các quốc gia này [năm 2018, Bangladesh ghi nhận số ca tử vong cao nhất trong gần hai thập kỷ], và sốt xuất huyết cũng đang lan sang các nước có khi hậu ít nhiệt đới hoặc ôn đới hơn như Nepal, những quốc gia chưa từng ghi nhận căn bệnh này.

Ước tính 40% dân số trên thế giới có nguy cơ mắc sốt xuất huyết, và có khoảng 390 triệu ca mắc mỗi năm. Chiến lược kiểm soát sốt xuất huyết của Tổ chức Y tế Thế giới đặt ra mục tiêu giảm 50% số ca tử vong vào năm 2020.

HIV

Việc triển khai các hoạt động phòng chống HIV đã đạt được những thành quả rất to lớn như xét nghiệm cho người dân,  và cung cấp thuốc kháng virus cho họ [hiện có 22 triệu người nhiễm HIV đang được điều trị], và cung cấp các biện pháp dự phòng như điều trị dự phòng trước phơi nhiễm [PrEP, tức là dùng thuốc ARV khi có nguy cơ nhiễm HIV để phòng bệnh].

Tuy nhiên, dịch HIV vẫn tiếp tục hoành hành với gần một triệu người tử vong mỗi năm. Ngay từ khi có dịch,hơn 75 triệu người bị nhiễm HIV, và khoảng 35 triệu người đã tử vong. Ngày nay, có khoảng 37 triệu người sống chung với HIV trên toàn cầu. Việc tiếp cận những người như người bán dâm, phạm nhân, nam quan hệ tình dục đồng giới hoặc  người chuyển giới là một thách thức rất lớn. Các nhóm người này thường không tiếp cận với các dịch vụ y tế. Nhóm trẻ em gái và phụ nữ [độ tuổi 15-24] ngày càng bị ảnh hưởng bởi HIV. Họ là những đối tượng có nguy cơ đặc biệt cao và chiếm ¼ số ca nhiễm HIV ở khu vực cận sa mạc Sahara Châu Phi mặc dù nhóm này chỉ chiếm 10% dân số.

Năm nay, WHO sẽ hợp tác với các quốc gia để hỗ trợ việc triển khai tự xét nghiệm HIV để nhiều người nhiễm HIV biết được tình trạng HIV của mình và được điều trị [hoặc có các biện pháp phòng ngừa trong trường hợp kết quả xét nghiệm âm tính]. Tổ chức Y tế Thế giới sẽ phối hợp với Tổ chức Lao động Quốc tế  để thực hiện hoạt động theo Hướng dẫn mới được công bố vào tháng 12 năm 2018 là hỗ trợ các doanh nghiệp và các tổ chức để đưa các dịch vụ tự xét nghiệm HIV tới nơi làm việc.

  • Danh sách nhật ký
  • Plos một
  • PMC3720806

Plos một. 2013; 8 [7]: E67494. 2013; 8[7]: e67494.

Mingguang He, biên tập viênEditor

trừu tượng

Mục tiêu

Để ước tính tỷ lệ mắc bệnh mãn tính ở những bệnh nhân gặp bác sĩ đa khoa [GP], bệnh nhân tham gia thực hành chung ít nhất một lần trong một năm và dân số Úc.

Thiết kế, thiết lập và người tham gia

Một nghiên cứu phụ của Bãi biển [cải thiện việc đánh giá và chăm sóc sức khỏe], một nghiên cứu quốc gia liên tục về hoạt động thực hành chung được thực hiện từ tháng 7 năm 2008 đến tháng 5 năm 2009. Chẩn đoán các tình trạng mãn tính, sử dụng kiến ​​thức về bệnh nhân, tự báo cáo bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe của bệnh nhân.

Kết cục chính

Ước tính tỷ lệ mắc bệnh mãn tính ở những bệnh nhân được khảo sát, tỷ lệ lưu hành điều chỉnh ở những bệnh nhân tham gia thực hành chung ít nhất một lần và tỷ lệ dân số quốc gia.

Kết quả

Hai phần ba [66,3%] bệnh nhân được khảo sát có ít nhất một tình trạng mãn tính: phổ biến nhất là tăng huyết áp [26,6%], tăng lipidaemia [18,5%], viêm xương khớp [17,8%], trầm cảm [13,7%] 11,6%], hen suyễn [9,5%] và bệnh tiểu đường loại 2 [8,3%]. Đối với những bệnh nhân tham gia thực hành chung ít nhất một lần, chúng tôi ước tính 58,8% có ít nhất một tình trạng mãn tính. Sau khi điều chỉnh thêm, chúng tôi ước tính 50,8%dân số Úc có ít nhất một tình trạng mãn tính: tăng huyết áp [17,4%], tăng lipidaemia [12,7%], viêm xương khớp [11,1%], trầm cảm [10,5%] và hen suyễn [8,0%] .

Kết luận

Nghiên cứu này đã sử dụng GPS để thu thập thông tin từ kiến ​​thức của họ, bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe, để cung cấp ước tính tỷ lệ lưu hành mà chỉ vượt qua các điểm yếu của các nghiên cứu chỉ sử dụng bệnh nhân tự báo cáo hoặc kiểm toán hồ sơ sức khỏe. Kết quả của chúng tôi tạo điều kiện cho việc kiểm tra sử dụng tài nguyên chăm sóc chính trong quản lý các tình trạng mãn tính và đo lường tỷ lệ mắc đa dạng ở Úc.

Giới thiệu

Sự lão hóa của dân số [1] dự kiến ​​sẽ dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh mãn tính, đa bào [2] và nhu cầu chăm sóc chính [3]. Để cho phép các hệ thống y tế đáp ứng các mức tăng này, tỷ lệ mắc bệnh mãn tính cần được đo lường một cách chính xác và kịp thời. Có ba phương pháp chính mà tỷ lệ lưu hành thường được đo lường: tự báo cáo người trả lời; Kiểm toán hồ sơ sức khỏe; và sàng lọc.

Nhiều chính phủ sử dụng các cuộc khảo sát về sức khỏe dân số lớn dựa vào tự báo cáo của người trả lời để đo lường tỷ lệ mắc bệnh mãn tính [4]-[6]. Một nghiên cứu như vậy là Khảo sát sức khỏe quốc gia [7] [NHS], một trong những nghiên cứu lớn nhất về tình trạng mãn tính của Úc, chủ yếu dựa vào tự báo cáo của người trả lời mặc dù có những lo ngại rõ ràng về tính hợp lệ và độ tin cậy của thông tin sức khỏe tự báo cáo [8] - [12].

Sử dụng hồ sơ sức khỏe [giấy và/hoặc điện tử] để ước tính tỷ lệ lưu hành thường được coi là vượt trội so với tự báo cáo bệnh nhân [13]-[15]. Tuy nhiên, chất lượng thông tin trong hồ sơ sức khỏe có thể bị xâm phạm thông qua không chính xác [16] - [18] hoặc hồ sơ không đầy đủ [9], [15] và thường có vấn đề trong việc có được sự đồng ý của bệnh nhân. Các nghiên cứu sàng lọc dân số, chẳng hạn như bệnh tiểu đường Úc, béo phì và nghiên cứu lối sống [AUSDIAB] [19], tránh những vấn đề này, nhưng thường bị giới hạn ở một bệnh hoặc nhóm bệnh cụ thể và tương đối tốn kém - nghiên cứu AUSDIAB gần đây nhất có giá Hơn 2,5 triệu đô la [20].

Úc có một chương trình bảo hiểm y tế toàn cầu gọi là Medicare [hoàn toàn hoặc một phần] bao gồm các cá nhân chi phí thăm khám cho các bác sĩ đa khoa [GPS]. GPS cung cấp phần lớn việc chăm sóc chính và đóng vai trò là người giữ cổng cho chăm sóc sức khỏe do chính phủ trợ cấp từ các chuyên gia y tế khác. Bãi biển [cải thiện việc đánh giá và chăm sóc sức khỏe] là một nghiên cứu về hoạt động thực hành chung ở Úc. Các nghiên cứu phụ của chương trình bãi biển có thể cung cấp các ước tính tỷ lệ lưu hành quốc gia cho các tình trạng mãn tính, không có giới hạn của kiểm toán hồ sơ sức khỏe và tự báo cáo bệnh nhân. Nghiên cứu trước đây của chúng tôi [21] cho thấy rằng bằng cách nhúng các nghiên cứu phụ trong chương trình Bãi biển quốc gia [22], chúng tôi có thể đạt được ước tính tỷ lệ lưu hành chính xác, chính xác về các tình trạng mãn tính phổ biến. Độ chính xác đã đạt được bằng cách sử dụng GP như một người phỏng vấn và người cung cấp thông tin chuyên gia, dựa trên kiến ​​thức của họ về bệnh nhân, kiến ​​thức của bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe của bệnh nhân.

Bài viết này xây dựng dựa trên các phương pháp trước đây của chúng tôi bằng cách mở rộng phạm vi của nghiên cứu để bao gồm tất cả các tình trạng mãn tính [thay vì lựa chọn các tình trạng mãn tính phổ biến] và bằng cách cải thiện phương pháp đối phó với những người không tham gia khi ước tính tỷ lệ lưu hành dân số. Bài viết này sẽ cho thấy rằng bằng cách sử dụng GP như một người phỏng vấn chuyên gia trong cơ sở hạ tầng bãi biển hiện tại, chúng ta có thể vượt qua những hạn chế của bệnh nhân tự báo cáo hoặc xem xét hồ sơ sức khỏe của bệnh nhân, để ước tính tỷ lệ mắc các tình trạng mãn tính ở Úc, với chi phí cận biên đến chương trình bãi biển tổng thể.

Phương pháp

Trong nghiên cứu này, các bệnh nhân tham dự một mẫu GPS tham gia chương trình bãi biển đã được khảo sát. Bãi biển là một nghiên cứu cắt ngang quốc gia liên tục về hoạt động thực hành chung ở Úc. Các phương pháp của nó được mô tả chi tiết ở nơi khác [22]. Tóm lại, một mẫu ngẫu nhiên, luôn thay đổi khoảng 1.000 GPS mỗi năm mỗi hồ sơ thông tin về các cuộc gặp gỡ với 100 bệnh nhân đồng ý liên tiếp, trên các hình thức giấy có cấu trúc [22].

Trong các nghiên cứu phụ của bãi biển, GP ghi lại thông tin bổ sung cho dữ liệu gặp gỡ, trong cuộc thảo luận với bệnh nhân. Các phương pháp đầy đủ cho các nghiên cứu phụ được báo cáo ở nơi khác [22]. Trong nghiên cứu phụ này, 375 GPS tham gia mỗi người được yêu cầu ghi nhận các tình trạng mãn tính được chẩn đoán cho mỗi 30 bệnh nhân liên tiếp trong 100 hồ sơ bãi biển của họ trong ba thời gian ghi âm năm tuần từ ngày 15 tháng 7 năm 2008 đến ngày 4 tháng 5 năm 2009.

Các câu hỏi ngắn gọn, giảm gánh nặng phản ứng đối với GPS và bệnh nhân. GPS đã được hỏi, bệnh nhân có bất kỳ bệnh/vấn đề mãn tính nào sau đây không? Các điều kiện mãn tính phổ biến đã được liệt kê [hộp đánh dấu] với các không gian trống bổ sung cho phép mô tả văn bản miễn phí của các tình trạng mãn tính chưa niêm yết khác [Hình 1]. Một tùy chọn không có điều kiện mãn tính cũng được cung cấp. GPS được hướng dẫn để sử dụng kiến ​​thức, kiến ​​thức bệnh nhân và hồ sơ sức khỏe của riêng bạn khi bạn thấy phù hợp, để trả lời những câu hỏi này. Các điều kiện mãn tính được liệt kê chủ yếu là những điều kiện được quản lý thường xuyên nhất trong số các thực hành chung của Úc [22]. Các tình trạng ít thường xuyên hơn [như bệnh thận mãn tính và béo phì] được đưa vào khi nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng họ phổ biến trong bệnh nhân thực hành nói chung [22]. Tất cả các điều kiện khu vực ưu tiên sức khỏe quốc gia hiện tại được bao gồm [23]. Các điều kiện văn bản miễn phí được phân loại theo phân loại quốc tế về chăm sóc chính [phiên bản 2] [ICPC-2] [24].Figure 1]. A “no chronic conditions” option was also provided. GPs were instructed to “Use your own knowledge, patient knowledge and health records as you see fit, in order to answer these questions”. Chronic conditions listed were primarily those most frequently managed among Australian general practice [22]. Other less frequently managed conditions [such as chronic kidney disease and obesity] were included where previous research had indicated they were prevalent in general practice patients [22]. All current National Health Priority area conditions were included [23]. Free text conditions were classified according to the International Classification of Primary Care [Version 2] [ICPC-2] [24].

Bảng câu hỏi phụ trên bãi biển về tỷ lệ mắc bệnh mãn tính.

Phân tích dữ liệu

Để đảm bảo càng nhiều bệnh nhân càng tốt được giữ trong mẫu số, chúng tôi đã kiểm tra các mẫu phản ứng của GPS đối với dữ liệu bị thiếu. Trong trường hợp GPS đã đánh dấu vào một hoặc nhiều điều kiện cho một số bệnh nhân và không đánh dấu vào bất kỳ lựa chọn nào [bao gồm cả không có vấn đề về vấn đề mãn tính] đối với các bệnh nhân khác, các bệnh nhân không có phản ứng nào được so sánh với tổng số mẫu và nhóm No không có vấn đề về vấn đề mãn tính. Nếu những bệnh nhân bị thiếu dữ liệu giống như bệnh nhân trong các vấn đề mãn tính ở nhóm bệnh nhân này về độ tuổi, giới tính và các vấn đề được quản lý khi gặp phải như là. Bệnh nhân không có lựa chọn nào được đánh dấu nhưng với bất kỳ tình trạng mãn tính nào [theo định nghĩa của O'Halloran et al [25]] được quản lý khi gặp nhau cũng được đưa vào mẫu, với [các] điều kiện mãn tính được ghi nhận trong nghiên cứu phụ.

Các nghiên cứu phụ ở bãi biển có thiết kế cụm một giai đoạn, với mỗi GP có 30 bệnh nhân tập hợp xung quanh họ. Hiệu ứng cụm được tính đến khi sử dụng SAS 9.2.

Ước tính tỷ lệ lưu hành của mẫu là tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh trong tổng số mẫu và có thể được hiểu là tỷ lệ lưu hành ở những bệnh nhân được tìm thấy trong phòng chờ GP.

Khi bệnh nhân được lấy mẫu tại các tư vấn GP, ​​khả năng được lấy mẫu phụ thuộc vào tần suất thăm khám. Do đó, những người tham dự thường xuyên [chẳng hạn như bệnh nhân lớn tuổi có thể có nhiều vấn đề về sức khỏe hơn] có nhiều khả năng được lấy mẫu hơn những người tham dự không thường xuyên. Ước tính tỷ lệ lưu hành mẫu được điều chỉnh cho khả năng này bằng cách cân nhắc mẫu học tập phụ so với phân phối giới tính tuổi của những người đã đến thăm bác sĩ gia đình ít nhất một lần trong năm 2008. ]. Chúng tôi đã sử dụng các nhóm tuổi 10 năm đến 90 tuổi trở lên. Các ví dụ làm việc về tất cả các trọng số của chúng tôi là trong Bảng 1. Áp dụng các trọng số này dẫn đến ước tính tỷ lệ lưu hành cho dân số bệnh nhân thực hành chung [ví dụ: những người nhìn thấy GP ít nhất một lần trong năm đó].table 1. Applying these weights resulted in prevalence estimates for the general practice patient population [ie. those who saw a GP at least once that year].

Bảng 1

Ví dụ làm việc của phương pháp trọng số.

Công thứcVí dụ làm việc: 80 bệnh nhân nữ89 tuổi có tình trạng xVí dụ làm việc: 10 bệnh nhân nam19 tuổi với tình trạng x
A = tỷ lệ dân số đã thấy GP ít nhất một lần trong năm đó được chọn2,03%5,83%
B = tỷ lệ mẫu trong nhóm giới tính được chọn4,83%3,03%
C = A/B [Trọng lượng người tham dự GP]0.42 1.92
D = tỷ lệ của tổng dân số Úc1,87%6,52%
E = D/B [Trọng lượng quốc gia]0.38 2.15
F = số đã nhìn thấy GP ít nhất một lần trong năm đó [MBS GP ITEM tuyên bố*]362,815 1,040,270
G = số lượng dân số [Cục Thống kê Úc]401,097 1,476,395
H = f/g [tỷ lệ của nhóm giới tính tuổi đã thấy GP ít nhất một lần trong năm đó]90,46%70,46%
Điều chỉnh kết quả [hoặc tử số] để ước tính tỷ lệ lưu hành quốc gia = E*HĐiều kiện x đếm = 0,34Điều kiện x đếm = 1,51
Mẫu số cho ước tính quốc gia [cho cả bệnh nhân có và không có tình trạng] = E0.38 2.15

Để ước tính tỷ lệ lưu hành quốc gia, trước tiên chúng tôi đã cân nhắc mẫu học tập phụ so với phân phối giới tính của người dân ở độ tuổi của người Úc vào tháng 6 năm 2008, 09 [26]. Chúng tôi cho rằng những người không tham dự bác sĩ đa khoa năm đó không có bệnh mãn tính. Sau khi trọng số ở trên, chúng tôi nhân lên kết quả [số lượng tình trạng] cho mỗi bệnh nhân, theo tỷ lệ nhóm giới tính độ tuổi của họ, người đã nhìn thấy GP ít nhất một lần trong năm đó. Điều này chiếm cho những người không nhìn thấy GP. Cách tiếp cận này khác với phương pháp trước đây của chúng tôi, nơi tỷ lệ lưu hành dân số của bệnh nhân thực hành chung được nhân với tỷ lệ toàn bộ dân số tham dự ít nhất một lần [18]. Phương pháp mới này sẽ chính xác hơn nếu tỷ lệ bệnh nhân lớn tuổi hơn [hơn trẻ hơn] tham dự ít nhất một lần và nếu bệnh nhân lớn tuổi có nhiều khả năng mắc bệnh mãn tính.

Chúng tôi đã so sánh tỷ lệ lưu hành dân số quốc gia của chúng tôi với các ước tính từ bài báo trước đây của chúng tôi [21] và từ NHS [7]. Sự khác biệt đáng kể với bài báo trước đó của chúng tôi được xác định bằng khoảng tin cậy 95% không chồng chéo [CIS]. Vì CIS cho NHS [7] không có sẵn công khai, chúng tôi cho rằng các ước tính của NHS không nằm trong 95% CIS của ước tính dân số của chúng tôi là khác nhau đáng kể.

Chuẩn mực đạo đức

Trong thời gian thu thập dữ liệu cho nghiên cứu này, chương trình bãi biển đã được phê duyệt bởi Ủy ban đạo đức nghiên cứu con người của Đại học Sydney và Ủy ban Đạo đức của Viện Y tế và Phúc lợi Úc. Phương pháp của chúng tôi liên quan đến việc thu thập dữ liệu từ các bệnh nhân không xác định, đồng ý. Thẻ thông tin bệnh nhân được cung cấp trong bộ nghiên cứu, GPS được hướng dẫn hiển thị cho bệnh nhân để có được sự đồng ý [một ví dụ được hiển thị trong Britt et al [22]]. Nếu bệnh nhân chọn không tham gia chi tiết cuộc gặp gỡ của họ không được ghi lại. GPS được hướng dẫn lưu ý sự đồng ý của bệnh nhân trong hồ sơ của bệnh nhân, nhưng được yêu cầu không cung cấp sự đồng ý bằng văn bản cho cơ quan nghiên cứu, vì điều này ngăn chặn bệnh nhân còn lại ẩn danh. Những phương pháp này tuân thủ các yêu cầu đạo đức cho chương trình bãi biển.

Kết quả

Các gói nghiên cứu hoàn thành đã được trả lại bởi 290 GPS [77,3%] đã trả lời cho 8.333 [95,7%] bệnh nhân trong tổng số 8.707. Không có vấn đề về mãn tính ở bệnh nhân này, bệnh nhân đã đánh dấu vào 2.620 [31,4%] bệnh nhân và 5.713 [68,6%] có ít nhất một tình trạng mãn tính được ghi nhận. Chỉ có 374 bệnh nhân [4,3% trong số 8.707 bệnh nhân được lấy mẫu] không có phản ứng được ghi nhận. Chúng tương tự như những bệnh nhân mắc bệnh không có vấn đề gì về vấn đề mãn tính, cả hai nhóm đều trẻ trung hơn so với tổng số mẫu và phần lớn các vấn đề được quản lý trong các cuộc gặp gỡ của họ là cấp tính, trong khi trong tổng số mẫu này chủ yếu là các vấn đề mãn tính. Sáu mươi bốn bệnh nhân không có phản ứng có một hoặc nhiều tình trạng mãn tính được quản lý trong cuộc gặp gỡ và được đưa vào là có các tình trạng này trong khi 310 bệnh nhân còn lại không có phản ứng nào được thêm vào nhóm không có vấn đề về vấn đề mãn tính. Tổng cộng có 8.707 bệnh nhân trong mẫu của chúng tôi với 5.777 [66,3%] có ít nhất một tình trạng mãn tính được chỉ định và 2.930 [33,7%] không có.

Phân phối giới tính tuổi của mẫu bệnh nhân cuối cùng không khác biệt đáng kể so với bệnh nhân tại tất cả các cuộc gặp gỡ GP được tuyên bố [là các mục dịch vụ] thông qua Medicare năm 2008, năm 2009 và già hơn dân số tham dự GP ít nhất một lần [Ban 2]. Khả năng ít nhất một tình trạng mãn tính tăng đáng kể với tuổi bệnh nhân nhưng không khác nhau giữa nam và nữ.Table 2]. The likelihood of at least one chronic condition increased significantly with patient age but did not differ among males and females.

ban 2

Phân phối tuổi/giới tính của bệnh nhân được lấy mẫu so với tất cả các bệnh nhân tại các mặt hàng dịch vụ GP được yêu cầu thông qua Medicare và với dân số thực hành chung của Úc.

Tuổi bệnh nhân/tình dụcSố trong mẫuPhần trăm mẫu [95% TCTD]Phần trăm yêu cầu dịch vụ thực hành chung của Úc*Phần trăm dân số thực hành chung của Úc †Tỷ lệ mẫu có ít nhất một tình trạng mãn tính [95% TCTD]
Nam giới

Chủ Đề