Bài tập chính tả cho học sinh lớp 3

[1]

XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CHÍNH TẢ


PHƯƠNG NGỮ CHO HỌC SINH LỚP 3 Ở NGHỆ AN



PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ


Giáo dục Tiểu học đã, đang và mãi trở thành mối quan tâm lớn của toànxã hội. Nó được coi là bậc học "nền móng" của hệ thống giáo dục phổ thông.Chất lượng giáo dục phổ thông tuỳ thuộc rất nhiều vào kết quả đào tạo ở Tiểuhọc. Nó phải chuẩn bị tốt cho học sinh tiếp tục học lên. Đồng thời Tiểu họccịn có trách nhiệm xây dựng một nền dân trí tối thiểu cho quốc gia theo tinhthần của phổ cập giáo dục Tiểu học.


Là một trong các môn học của Tiểu học, môn Tiếng Việt góp phần thựchiện tốt mục tiêu chung của bậc học, trong đó việc hình thành ở trẻ em nănglực thực tiễn hoạt động ngơn ngữ [nghe - nói - đọc - viết đúng tiếng mẹ đẻ] làmột yêu cầu cực kỳ quan trọng.


Đánh giá được tầm quan trọng của bậc học, môn học như vậy cho nêntrong những năm qua, các nhà quản lý, chỉ đạo, các nhà nghiên cứu, khoa học,các nhà giáo dục đã không ngừng quan tâm đến việc xây dựng một chươngtrình, nội dung sách giáo khoa cũng như việc đổi mới phương pháp dạy - họcnhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy môn Tiếng Việt trong nhà trườngTiểu học.

[2]

Tiếng Việt hiện hành, ngoài hệ thống bài tập bắt buộc [bài tập chung cho tất cảcác vùng phương ngữ], các nhà biên soạn SGK đã chú ý đến việc rèn luyệncách viết đúng chính tả những từ có liên quan đến hiện tượng đó bằng cáchxây dựng hệ thống bài tập lựa chọn dành cho các vùng phương ngữ nhưngchưa thể bao quát hết được các hiện tượng chính tả cho vùng phương ngữNghệ An. Nội dung chương trình Tiếng Việt lớp 3 hiện hành cũng vậy.Trongtổng số 131 bài tập nhỏ của hệ thống bài tập lựa chọn chỉ có 20 bài liên quanđến phương ngữ Nghệ An mà lại chủ yếu mới chỉ tập trung vào phân biệt ’/~đủ nói lên điều đó.Do vậy có tình trạng cả học sinh và giáo viên phải chạytheo luyện tập những lỗi mà bản thân mình ít phạm phải [thậm chí khơngphạm phải] trong khi đó lỗi mình thường gặp lại không được thực hành, luyệntập thường xuyên.


Thực trạng nêu trên đặt ra cho các nhà giáo dục mà đặc biệt trước hết làgiáo viên, những người trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 3 ở Nghệ Annói riêng một vấn đề quan trọng là: Làm thế nào để khắc phục được tình trạngđó? Làm thế nào để giúp học sinh từng bước loại bỏ lỗi chính tả trong bài viếtcủa mình? Làm thế nào để cải thiện chất lượng dạy - học môn Tiếng Việt Tiểuhọc ở Nghệ An?

[3]

PHẦN II: NỘI DUNG


I. ĐẶC ĐIỂM PHƯƠNG NGỮ NGHỆ AN [XÉT TRÊN BÌNH DIỆNNGỮ ÂM HỌC] - NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN:


Theo cách quan niệm thông thường, Tiếng Việt gồm 3 phương ngữ:Phương ngữ Bắc, phương ngữ Trung và phương ngữ Nam - Nghệ An nằmtrong vùng phương ngữ Trung, và trên bình diện ngữ âm nó được nhận ra bởinhững đặc điểm sau đây:


1. Hệ thống phụ âm đầu:


Phương ngữ Nghệ An có 22 phụ âm đầu tương ứng với hệ thống phụâm đầu trong tiếng toàn dân.


2. Hệ thống vần:



Hầu hết các loại vần có mặt trong ngơn ngữ tồn dân đều có mặt trongngơn ngữ Nghệ An. Âm đệm và âm cuối trong phương ngữ Nghệ An tươngứng hoàn toàn với hệ thống chữ viết.


- Trong phương ngữ Nghệ An có 2 vần khá đặc biệt mà chữ viết ghi là"ưu", "ươu"


3. Hệ thống thanh điệu:


Hệ thống thanh điệu của phương ngữ Nghệ An thể hiện không đầy đủnhư trong ngơn ngữ văn hố. Do sự phát âm lẫn lộn giữa thanh ngã và thanhnặng, hoặc giữa thanh ngã và thanh hỏi mà hệ thống thanh điệu tiếng địaphương Nghệ An chỉ cịn có 5 thanh: ngang; huyền; sắc; hỏi; ngã nặng.


Có một số thổ ngữ như Nghi Lộc, hoặc "thổ ngữ" Hưng Dũng[Tp.Vinh] hệ thống thanh điệu chỉ cịn có 4 thanh, thậm chí có vùng phát âmchỉ có 3 thanh.

[4]

II. LỖI CHÍNH TẢ CỦA HỌC SINH


1. Thực trạng học tập môn Tiếng Việt của học sinh Tiểu họchiện nay:


Mặc dù được đánh giá là môn học quan trọng nhưng chất lượng giảngdạy môn Tiếng Việt vẫn chưa đáp ứng được sự mong mỏi của xã hội. Chấtlượng dạy – học mơn Tiếng Việt nói chung ở Tiểu học hiện nay chưa thậtđáng mừng. Năng lực sử dụng Tiếng Việt của học sinh chưa cao, chưa đápứng được yêu cầu đặt ra trong một xã hội hiện đại. Sự non kém ấy biểu hiệntrên các mặt: Vốn từ nghèo nàn, kỹ năng thực hành Tiếng Việt non kém, hiệntượng học sinh viết sai chính tả khá nhiều, cá biệt có những em cịn viết khơngthành chữ, thành bài. Kết quả học tập môn Tiếng Việt của học sinh Tiểu học ởNghệ An cũng nằm trong tình trạng chung ấy.


Để tìm hiểu năng lực ngơn ngữ của học sinh Tiểu học Nghệ An [trongmối quan hệ ràng buộc, chi phối của tiếng địa phương], chúng tôi đã tiến hànhđiều tra, khảo sát kết quả học Tiếng Việt của một số học sinh trên địa bàn này. 2. Khảo sát năng lực thực hành ngôn ngữ của học sinh [về mặt


ngữ âm]


a. Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3


b. Phương thức khảo sát: Do chưa có điều kiện, chúng tôi chỉ khảo sátnăng lực Tiếng Việt của học sinh ở bình diện chính tả, cụ thể dựa trên 2 bàiviết: Chính tả [nghe –viết] và Tập làm văn.


Cơ sở đánh giá kết quả này là chuẩn mực ngôn ngữ và khối lượng trithức tiếng mẹ đẻ mà chương trình Tiếng Việt đã quy định


c. Các bước tiến hành: Để có được những kết luận có căn cứ, chúngtơi đã tiến hành các bước cụ thể như sau:


- Bước 1: Thăm lớp, dự giờ [chủ yếu các giờ Tập đọc, Chính tả, Tậplàm văn]


- Bước 2: Điều tra, khảo sát, phân loại và thống kê trên văn bản cụ thểdo học sinh viết gồm 740 bài Tập làm văn và Chính tả [mỗi HS 4 bài] của 185học sinh Trường Tiểu Học Hưng Dũng I – TP. Vinh.

[5]

d. Kết quả khảo sát:


Kết quả khảo sát được chúng tôi tập hợp, phân loại và thống kê cụ thểvào các bảng sau:


Bảng thống kê các loại lỗi về thanh điệu



TT Bài LỗiSố HSHỏiNgãNgãNặngSắcHỏiSắcNgãNgang huyềnNgangsắcNganghỏiHuyềnSắcHuyền NgãTổng


1 C.tả 185 63 38 34 33 41 59 36 21 35 360



2 T.L.V 185 162 155 157 156 116 120 138 81 89 1174


3 Tổng 185 225 193 191 189 157 179 174 102 124 1534


Bảng thống kê các loại lỗi về phụ âm đầu



TT Bài LỗiSố HStr chd gix sl nc k qng nghd đm nTổng


1 Chinh tả 185 0 5 0 0 1 2 0 0 8


2 T.L.V 185 0 10 1 0 4 5 2 2 24


3 Tổng: 185 0 15 1 0 5 7 2 2 32


Bảng thống kê các loại lỗi về phần vần



TT Bài LỗiSố HSiêiiêeuaưươuyayauttoeeoươnơnTổng


1 Chính tả 185 4 4 3 3 3 5 4 5 1 32


2 T.L.V 185 9 7 6 5 6 11 9 11 6 70


3 Tổng: 185 13 11 9 8 9 16 13 16 7 102

[6]

Lỗi chính tả chủ yếu tập trung ở hệ thống các thanh điệu. Đây là nét đặc trưng,riêng biệt nhất để nhận biết học sinh ở Nghệ An.


Lỗi về thanh điệu thể hiện khá phong phú, nhiều nhất có trên 9 kiểunhầm lẫn, sai sót. Tuy vậy, nhìn chung các loại lỗi này chủ yếu tập trung ở cácdạng sau:


* Ngã/nặng; ngã/hỏi: Đây là lỗi chung, lỗi phổ biến. Theo cứ liệu điềutra có tới 418 lỗi thuộc kiểu này.


Do ở Nghệ An các từ có thanh ngã khi phát âm thường chuyển sangthanh nặng hoặc thanh hỏi nên trong bài viết của học sinh phản ánh khá rõ.Chẳng hạn như: nhõng nhẽo -> nhỏng nhẻo hoặc nhọng nhẹo; từ ngữ ->từngử hoặc từ ngự; những -> nhửng, nhựng...vv...


* Sắc/hỏi; sắc /ngã: Số lượng lỗi này cũng khá lớn: 380 lỗi. . Ví dụ vềloại lỗi này khá phong phú. Có thể kể ra đây một số trường hợp thường gặptrong bài viết của học sinh như: buổi học -> buối học; kẻo muộn -> kéo muộn;vận chuyển -> vận chuyến; lững thững -> lứng thứng ... vv..


* Ngang/ huyền; ngang/ sắc; ngang/hỏi:


Đây là loại lỗi mà các tiếng có thanh ngang viết thành tiếng có thanh
huyền, thanh sắc và ngược lại.


Ví dụ: rõ ràng-> ró rang; lá cờ-> la cờ; cơ chú-> cơ chu...vv...


Sở dĩ trong các bài viết của học sinh xuất hiện loại lỗi trên là do ở đâythường phát âm lẫn lộn giữa một số thanh trong hệ thống thanh điệu TiếngViệt. Hơn nữa, phẩm chất và giá trị khu biệt của vài ba thanh điệu đó khơng rõràng nên học sinh ở đây thường mắc phải mà học sinh các vùng, miền khác ítgặp.

[7]

Nghi Lộc hay gần giống như thổ ngữ Nghi Lộc là Hưng Dũng. Ngồi nhữnglỗi cơ bản kể trên, học sinh cịn mắc một số lỗi khác về thanh điệu, song chiếmtỉ lệ khơng đáng kể. Và có thể nói đó là một trong những sai sót thường gặp ởhọc sinh lứa tuổi này.


Bên cạnh các loại lỗi về thanh điệu, hiện tượng viết sai các âm [phụ âmđầu và vần] , ít hơn rất nhiều so với lỗi về thanh điệu. Tất cả có 134 lỗi.


Một điều đặc biệt là các lỗi như không phân biệt được: tr/ch; s/x; r/d;d/gi hay l/n mà học sinh các vùng miền khác thường hay vấp phải thì ở đâyhầu như khơng có hoặc nếu có thì tần số xuất hiện cũng rất thấp.Phải chăng dosự có mặt của phụ âm quặt lưỡi mà chữ viết ghi là “tr”, “r”, “s” trongphương ngữ Nghệ An đã giúp học sinh ở đây phân biệt rất rõ các phụ âm này.


- Về phần vần: Ngoài các lỗi chung, lỗi phổ biến là các vần khó, họcsinh Tiểu học ở các vùng phương ngữ khác thường hay nhầm lẫn khi nói cũngnhư khi viết các tiếng có vần “ưu”, “ươu”, chẳng hạn như: cấp cứu -> cấpkíu; âm mưu -> âm miu; về hưu -> về hiu; hoa lựu -> hoa lịu; con hươu ->con hiêu... còn trong tổng số 740 bài viết của học sinh được điều tra khơng cótrường hợp nào mắc lỗi này. Điều đó chứng tỏ rằng sự có mặt của cặp vần “ưu–ươu” trong phương ngữ Nghệ An đã giúp các em tránh được loại lỗi này.


Ngoài những lỗi kể trên, học sinh còn mắc phải một số lỗi do nhầm lẫnhoặc quên không ghi dấu phụ như ư -> u; ă -> a hoặc lỗi viết hoa một cáchtùy tiện... và đó cũng là những sai sót thơng thường của học sinh Tiểu học.

[8]

Như vậy, có thể nói những đặc điểm về ngữ âm của phương ngữ NghệAn, một mặt là điều kiện thuận lợi, mặt khác lại gây khơng ít khó khăn chohọc sinh vùng này trong q trình học Tiếng Việt.


Nói tóm lại, qua điều tra, khảo sát và thống kê chúng ta có thể thấyđược thực trạng mắc lỗi chính tả cũng như sự ảnh hưởng phương ngữ NghệAn tới quá trình học Tiếng Việt của học sinh lớp 3 nói riêng và học sinh tiểuhọc ở Nghệ An nói chung là rất lớn. Và để việc làm ấy có ý nghĩa thiết thựchơn chúng ta phải chỉ ra được những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạngấy. Trên cơ sở đó tìm được những giải pháp thích hợp nhằm giúp học sinh hạnchế đến mức tối đa các lỗi chính tả thường mắc phải, từng bước thanh toándần các loại lỗi, tạo điều kiện cho học sinh ở đây học Tiếng Việt ngày cànghiệu quả hơn.


* Các nguyên nhân chính:


Hiện tượng phạm lỗi chính tả đã nêu trên chủ yếu do các nguyên nhânsau:


1. Do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương cho nên học sinh thườngphát âm khơng chính xác, không chuẩn, đặc biệt là ở hệ thống thanh điệu.


2. Do các em chưa thực sự có kiến thức vững chắc về ngữ âm [Chínhâm – chính tả] chỉ đơn thuần dựa vào cách phát âm của thầy cô, chưa biết dựavào yếu tố ngữ nghĩa để viết nên dễ viết sai.


3. Học sinh ít được thực hành đọc và viết Tiếng Việt nên không thểquen tay, quen mắt.

[9]

phải. Do chưa xử lý tốt vấn đề “dạy chính tả theo khu vực” cho nên nội dungchính tả trong SGK Tiếng Việt Tiểu học vừa thừa lại vừa thiếu. Thừa ở chỗcác em phải học, phải luyện tập cả những nội dung mà các em đã biết vàkhơng mấy khi mắc phải sai sót; thiếu ở chỗ không đủ thời gian để đi sâu hơn,luyện tập nhiều hơn để tránh những lỗi mà các em thường mắc.


5. Về phía giáo viên: Nhiều thầy cơ cịn q lệ thuộc, câu nệ ở SGK,chưa nhận ra hết phần nào là trọng tâm của từng loại chính tả, chưa dám bớt,dám thêm mà mới chỉ làm theo trình tự có sẵn.


Ngồi những ngun nhân cơ bản nói trên cịn có một vài nguyên nhânkhác nữa, chẳng hạn như lỗi do sự cẩu thả của người viết, sự không chú ý củathầy cơ... Sự thờ ơ ở cả phía học sinh lẫn giáo viên đối với vấn đề chính tả nhưhiện nay thì kết quả như đã nêu trên là tất yếu.


Để nâng cao năng lực viết đúng chính tả cho học sinh tiểu học ở NghệAn thì một trong những vấn đề cơ bản cần giải quyết là khắc phục những lỗido phương ngữ tạo ra.


Xung quanh vấn đề này đã có nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập đến.Ví dụ như các nhà biên soạn SGK đã cố gắng tìm đủ cách cho học sinh phátâm đúng chuẩn. Theo họ, để đọc đúng là tự khắc viết đúng. Thực tế, phát âmđúng – viết đúng là lẽ đương nhiên. Song cũng có nhiều trường hợp phát âmđúng chưa chắc đã viết đúng. Và ngược lại, có nhiều người tuy phát âm sainhưng vẫn viết đúng chính tả. Vì vậy, nếu cả thầy và trị có thành cơng trongviệc giúp nhau đọc đúng chuẩn thì các em vẫn chưa thể viết đúng chính tảđược.


Nhiều người chủ trương cần rèn luyện chính âm làm cơ sở cho chính tả.Đã có nhiều cơng trình sửa lỗi chính tả bằng cách “tập phát âm” cho đúng,nhưng xem ra cách này đòi hỏi nhiều thời gian.

[10]

mới” tiềm tàng khả năng ghi nhớ máy móc cao. Tuy nhiên cách này địi hỏingười học phải thường xuyên cố gắng, tập luyện lâu dài, lại khơng bao giờđược xem là kết thúc.


Lại có một số nhà nghiên cứu đã nghiên cứu, khái quát ra một số “mẹochính tả” như “mẹo hỏi ngã” chẳng hạn . Những cơng trình này thực tế là rấttiện. Tuy nhiên chỉ thu hẹp vào một số lỗi “hỏi/ ngã” lại thường thiếu tínhchặt chẽ, khoa học, khó có khả năng bao qt được các trường hợp chính tả cụ thể.


Điểm qua một số quan điểm và cách chữa lỗi chính tả cho học sinh nóichung, chúng tơi muốn trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu củanhững cơng trình đi trước, đồng thời trên cơ sở nắm vững những đặc điểm vềmặt ngữ âm của phương ngữ Nghệ An; kết hợp kết quả điều tra, khảo sát bàiviết học sinh, cộng với kinh nghiệm của những năm tháng trực tiếp giảng dạycủa mình, của đồng nghiệp, chúng tôi xây dựng một hệ thống bài tập chính tảphương ngữ cho học sinh lớp 3 với mong muốn tạo được thuận lợi cho giáoviên và học sinh trong q trình dạy- học mơn Tiếng Việt, giúp học sinh từngbước thanh toán dần các loại lỗi thường gặp.


III. XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP CHÍNH TẢ PHƯƠNG NGỮ CHOHỌC SINH LỚP BA Ở NGHỆ AN

[11]

chữa những lỗi về phụ âm đầu hay phần vần như đối với học sinh vùng
phương ngữ Bắc, phương ngữ Nam.


Hệ thống các bài tập được chúng tôi xây dựng dưới dạng một số kiểunhư sau:


1. Kiểu chính tả đoạn bài:


Để giúp học sinh phân biệt được các chữ hay nhầm lẫn giữa thanh ngã vàthanh hỏi; ngã/sắc; ngã/nặng chúng tôi thường cho học sinh luyện viết nhữngđoạn văn ngắn mà trong đó có chứa những chữ “ có vấn đề’’ Mỗi bài như thếphải đáp ứng nhiệm vụ chữa một lỗi chính tả cụ thể, theo một mức độ cụ thể.


Ví dụ 1: Ba bao Lê ơ nhà đê ba đi họp tối, Lê phai trông em. Em béđang ngu say. Lê đợi mai chăng thấy ba trơ về. Lê cam thấy cung muốn ngunhưng Lê cố thức.Có tiếng go cưa. Ba về cho Lê qua bóng đo có nhưng sọctrắng. Ba bao Lê: “Con cua ba ngoan lắm. Con biết giư nhà rồi đấy”


Ví dụ 2 : Đám Mây trơ nên nặng triu bơi vô vàn nhưng hạt nước nholi ti bám vào. Nhằm hướng thượng nguồn, Đám Mây cong bạn đi tới. Khi đatrông ro cánh rừng đại ngàn, Đám Mây khe lắc cánh:


- Chúng mình chia tay ơ đây nhé.Bạn hay về thăm và xin lơi mẹ SuốiNguồn. Trên đời này, khơng có gì sánh nơi với lịng mẹ đâu bạn ạ!


Những chữ nghiêng in đậm là những chữ “có vấn đề”.Bằng việc đượcluyện viết những đoạn văn có chứa những chữ “có vấn đề” như trên thay thếcho những nội dung còn thiếu hoặc thừa trong SGK vào các tiết học chínhkhóa hoặc các tiết luyện, học sinh sẽ từng bước ghi nhớ, phân biệt đượcngã/hỏi; ngã/sắc; ngã/nặng trên cơ sở nắm nghĩa của từ trong văn cảnh cụ thể.Điều này giúp các em ghi nhớ được lâu hơn và bền vững hơn.


2. Kiểu điền yếu tố:


Đây là một dạng bài khá quen thuộc và nội dung khá phong phú. Thaythế cho những bài tập phân biệt phụ âm đầu tr/ch; x/s; l/n... [Tuần1,2,4,5,7,8... mà học sinh mình không mấy khi mắc phải ,chúng tôi đã chủđộng thay thế bằng những bài tập sau:

[12]

Ví dụ 1: Điền vào chỗ trống tiếng “mở” hay”mỡ” để tạo thành từ ngữthích hợp.


...mang ... đầu...màng ...màncởi... thịt...dầu... củ khoai...


Ví dụ 2: Điền “ thanh hỏi ” hoặc “ thanh ngã ”vào những chữ gạchchân dưới đây:


Ngo hẻm; nga ba; trô bông; ngo lời; cho xôi; cây gô; cánh cưa; ướt đâm;


Ví dụ 3: Điền“ thanh hỏi ” hoặc “ thanh ngã” vào những chữ innghiêng có trong các câu sau:


a. Ca lớp im lặng đê nghe cô giáo giang bài .b. Các em phai giư trật tự.


c. Mẹ em đa dậy trước ca em,có le mẹ cung hồi hộp như em vì hơm naylà ngày khai trường.



Ví dụ 4: Tìm tiếng có thanh hỏi hoặc thanh ngã điền vào chỗ trống đểđược từ có nghĩa như sau:


a. Nói cho biết điều hay lẽ phải để làm theo: ...b. Người điều khiển cuộc họp hoặc phiên tồ:...c. Kí hiệu bằng đường nét để ghi tiếng nói:...d. Nơi đất thấp so với bể mặt xung quanh:...


Ngữ liệu các bài tập có thể vận dụng từ các câu đố vui trong các bài tậpchính tả của SGK.Từ các nội dung có sẵn chúng ta chỉ cần thay đổi yêu cầucho phù hợp với mục đích luyện tập. Như vậy sẽ đỡ mất thời gian, công sứctìm tịi nguồn tài liệu khác, đồng thời nội dung là các câu đố đó có tác dụngkích thích được tính tị mị của trẻ.Chẳng hạn như BT2 [trang 56 -Tuần 7] yêucầu: Điền vào chỗ trống và giải câu đố:


a, tr hay ch:

[13]

....ẳng phải bò, ….âu Uống nước ao sâu Lên cày ruộng cạn.


sẽ được thay bằng: Sửa lỗi chính tả cho các từ in nghiêng trong câu đố dướiđây rồi chép lại cho đúng:


Mình trịn, mụi nhọn Chẵng phãi bò, trâu Uống nước ao sâu Lên cày ruộng cạn.


Tương tự, BT2b-Tuần 12 được đổi thành: Tìm chữ viết sai chính tả
trong câu đố sau,viết lại cho đúng rồi giải đố:


Quen gọi là hạt Chẵng nỡ thành cây Nhà cao, nhà đẹp


Dùng tôi đễ xây. [Là cái gì?]


Có thể áp dụng cách làm này cho các BT2a [trang 41 - Tuần 5], BT2a[trang 92 - Tuần 11], BT3a [trang 105 -Tuần 13], BT3a [trang 120 - Tuần 14],BT2a [Trang 47 - Tuần 23], BT2a [Trang 129 - Tuần 33]…


Sau khi học sinh điền xong yếu tố cần thiết hoặc tìm và sửa lỗi sai, GVcó thể u cầu học sinh giải thích vì sao [u cầu này chỉ áp dụng đối với họcsinh khá, giỏi]. Như vậy học sinh sẽ nắm được dấu hiệu chính tả trên cơ sởnắm nghĩa của từ. Kiến thức nhờ vậy mà được lưu giữ một cách bền vữnghơn.


* Để phân biệt thanh sắc/thanh ngã: Có một số bài tập như:


Ví dụ 1 :Điền “bó” hoặc “bõ” vào chỗ trống... - gắn... - ...cong - ... đuốc - ... sức - ... bèn - ...tay

[14]

- ba... - ...hồng - hàng... - ... bề ngoài - đẹp... - rau...


Cũng như trên, sau khi học sinh điền xong, giáo viên hỏi thêm: Tại sao
không ghép với gắn? ghép ba với ?... hoặc có thể yêu cầu học sinh đặtcâu với từ vừa ghép được.[ HS K-G ]


Ví dụ: - Ba má em là người tốt bụng.


- Chúng em ln đồn kết, gắn bó với nhau.- Nó chỉ được cái mã bề ngồi. v.v...


Đặt từ trong một ngữ cảnh nhất định cũng là một cách giúp học sinh ghinhớ nghĩa của từ và cách viết từ.


*Giúp phân biệt thanh hỏi/thanh nặng : có các bài tập sau:


Ví dụ 1: Điền mở hay mợ vào chỗ trống?


- ... cửa - cậu ... - cởi... - ...hàng - ... mắt - ... Lê


Ví dụ 2: Điền nở hay nợ vào chỗ trống?


- hoa... - bột... - ...nần - ...nang -vay... - xóa...


Như vậy, bằng cách cho thực hiện những bài tập kiểu điền yếu tố nhưtrên sẽ giúp các em luyện tập ,củng cố ghi nhớ các từ có dấu thanh mình haynhầm lẫn.


3. Kiểu đưa ra những từ ngữ trong đó có hai hay nhiều chữ viết khác
nhau mà các em hay lẫn lộn và yêu cầu các em điền những chữ viết đúngvào chỗ trống.


Ví dụ 1: Điền vào chỗ trống : a. nghỉ hay nghĩ:


... ngơi; ... ngợi; suy...; ngày...; ...việc b. ngả hay ngã?

[15]

a. mải, mãi hay mại?


...mê; ...chuyện.; nói...; ...miết; cơng tythương...;mềm...


b. lẻ , lẽ hay lẹ?


...phải; ...loi; mau...;... bóng; ...ra; lí... c. cổ, cỗ hay cộ?


...xưa; mâm...; xe...; ...kính; ...máyb. vở, vỡ hay vợ?


sách...; ...bát;...chồng; ... bờ; hỏi...; quyển...4. Kiểu đưa ra những chữ viết sai chính tả theo cách viết thường gặpcủa các em và yêu cầu các em chữa.


Kiểu bài tập này được thể hiện khá phong phú dưới nhiều hình thức.


Ví dụ 1: Tìm từ viết sai và viết lại cho đúng : a. Tôi hát nữa bài rồi không hát nửa


b. Tơi khơng có tiền lẽ, lẹ ra tôi phải mang theo. c. Cứ mãi chơi thì cịn dốt mải


Ví dụ 2: Gạch chân dưới chữ viết sai chính tả rồi viết lại chữ đó chođúng:


Khi em bé khócAnh phải dổ dànhNếu em bé ngảAnh nâng dịu dàng


Ví dụ 3: Đánh dấu X vào ô trống trước từ viết đúng chính tả :


a. cũ kị vẹ vời


kĩ cương nha nhặn


kỉ lục ngẫm nghĩ


b. vựng chại ngất ngưỡng


bơi trải trầm bổng

[16]

Ví dụ 4: Ghi Đ [đúng chính tả]; ghi S [sai chính tả] vào ơ trống đặt cạnhcác từ ngữ


a. lực sị bán sỉ


sĩ quan sỉ diện


bác sị y sĩ


b. kính lão xe cộ


bà lảo lạo nơng


mâm cộ cỗ vật


Ví dụ 5: Một bạn học sinh đã viết như sau:


Tiếng trống dồn lên, gấp rút, giục giả. [1] Ông Cản Ngũ vẩn chưa ngả.[2] Ông vẩn đứng như cây trồng giữa sới. [3] Còn Quắm Đen thì đang loayhoay, gị lưng lại, khơng sao bê nổi chân ông lên. [4]


a. Hãy ghi số câu vào chỗ trống trong mỗi lời nhận xét dưới đây: A. Câu khơng mắc lỗi chính tả là câu số...


B. Câu... là câu mắc lỗi viết sai thanh ~/ ‚ C. Câu...là câu mắc lỗi viết sai thanh ~/ .b. Sửa lỗi chính tả và chép lại đoạn văn cho đúng.


Ví dụ 6: * Chọn cách viết đúng cho từ trong ngoặc đơn để điền vàochỗ trống:


a. Vào... [nhứng/những/nhựng]ngày... [lệ/lể/lễ] Tết nhândân ta thường tổ chức nhiều trò chơi dân gian.


b. Trong Hội thi, chúng em được gặp...[gỡ/gở/gợ], giao lưu vớihọc sinh các trường kết... [nghía/nghịa/nghĩa]


Hoặc: * Chọn trong ngoặc từ viết đúng chính tả bằng cách gạch chândưới từ đó:


a. Mỗi năm đến mùa mưa, vùng này thường có [lủ/lũ]


b. Cả đội quyết tâm san phẳng những chỗ lồi [lỏm/ lõm] trên sân bóng.c. Sạch [sẹ/sẽ] là mẹ sức [khõe/ khỏe]

[17]

B. Dụng cảm, tan vỡ, sổ sàng, xin lỗi, quảng đường.C. Dũng cảm, tan vỡ, sỗ sàng, xin lỗi, quãng đường.


Với một số nội dung trên, sau khi học sinh hoàn thành xong cần tổ chứccho các em luyện đọc. Như vậy là vừa giúp học sinh nhận diện ra được chữviết sai cả trên cơ sở ngữ âm cả trên cơ sở chính tả. Nhờ vậy mà học sinh ghinhớ được cách viết đúng. Luyện tập một nội dung nhưng được xây dựng bằngnhiều hình thức khác nhau, nên tránh được trùng lặp, nhàm chán, do đó kíchthích được hứng thú cho học sinh. Lại có những bài tập sử dụng chung mộtngữ liệu nhưng lại được khai thác ở những khía cạnh khác nhau. Ví dụ với bàiĐánh dấu nhân vào ơ trống trước từ viết đúng chính tả có thể được thay thếbằng lệnh: Điền Đ – S hoặc “Khoanh tròn chữ đặt trước câu trả lời đúng” vàngược lại.


Khi sử dụng các bài tập nêu trên chúng tơi thường tổ chức dưới nhiềuhình thức khác nhau.Có thể cho học sinh hoạt động cá nhân như tự làm bàivào vở,cũng có thể cho học sinh hoạt động theo nhóm. Để tạo khơng khí thiđua sơi nổi và kích thích hứng thú cho học sinh , các bài tập đó là nội dung củacác cuộc thi như: Thi: Ai nhanh-Ai đúng? Thi Ai nhanh tay – nhanh mắt?,thi Trò chơi tiếp sức, thi Ai viết nhanh-viết đúng? Thi Ai viết đúng-viết đẹp?... Sau mỗi tháng, mỗi kỳ, mỗi năm chúng tôi thường điều tra, thống kêtổng hợp số liệu các loại lỗi chính tả của học sinh [chú trọng phần hệ thốngthanh điệu] để kiểm tra, đối chứng. Đồng thời điều chỉnh, bổ sung vào hệthống bài tập cho phù hợp nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Kết quả khảo sátcuối năm thể hiện:


Bảng thống kê các loại lỗi về thanh điệu



TT Bài LỗiSố HS


HỏiNgã


NgãNặng


SắcHỏi


SắcNgã


Ngang huyền


Ngangsắc


Nganghỏi


HuyềnSắc


Huyền Ngã


Tổng


1 C.tả 185 12 7 6 4 3 11 5 3 4 55


2 T.L.V 185 38 25 14 25 17 16 18 14 9 176

[18]

Như vậy, thực tế cho thấy, sau một thời gian đưa hệ thống bài tậpphương ngữ nói trên vào áp dụng thay thế, bổ khuyết cho phần “thừa” và phần“thiếu” trong SGK Tiếng Việt lớp 3, chúng tơi thấy hiện tượng phạm lỗi chínhtả của HS do ảnh hưởng của phương ngữ đã giảm rõ rệt cả về số lượng và tầnsố xuất hiện. Nếu như đầu năm tổng số lỗi về thanh điệu là 1534 lỗi/740 bàicủa 185 học sinh thì cuối năm con số đó chỉ cịn là 231 lỗi [giảm 84,94%].Trong đó phải kể đến hiện tượng học sinh nhầm lẫn các tiếng có thanh hỏi,thanh ngã/thanh nặng... chỉ cịn rất ít và đó thường là những đối tượng họcsinh học yếu. Có thể nói các bài tập với nội dung cụ thể ln ln bám sáthiện tượng “có vấn đề” đã giúp các em thường xuyên luyện tập viết đúng vàghi nhớ những chữ thường viết sai. Nhờ vậy chất lượng học tập môn Tiếng Việtcũng từng bước được nâng cao.


PHẦN III: KẾT LUẬN


Qua quá trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn về những vấn đề có liênquan đến phương ngữ Nghệ An cũng như thực trạng tiếp thu ngôn ngữ TiếngViệt chuẩn của học sinh Tiểu học ở Nghệ An; sau một thời gian áp dụng hệthống bài tập chính tả phương ngữ trong dạy học chính tả chúng tơi rút ra mộtsố kết luận sau:


1. Những đặc điểm mang tính chất riêng biệt về ngữ âm của phươngngữ Nghệ An một mặt là điều kiện thuận lợi giúp học sinh Tiểu học vùng nàylĩnh hội những tri thức về ngôn ngữ Tiếng Việt chuẩn.Mặt khác, những đặcđiểm đó cũng gây khơng ít khó khăn trở ngại cho các em trong q trình họcmôn Tiếng Việt. Đặc biệt những hạn chế ấy được thể hiện ở hệ thống thanhđiệu. Sự phát âm lẫn lộn không phân biệt một số thanh dẫn đến hiện tượngphạm lỗi chính tả trong học sinh, nhất là học sinh Tiểu học hết sức phổ biến,khơng dễ gì khắc phục được.

[19]

3. Để góp phần tháo gỡ khó khăn trong q trình dạy - học mơn TiếngViệt Tiểu học nói chung, ở Nghệ An nói riêng địi hỏi những nhà nghiên cứu,những người dạy Tiếng Việt tiếp tục suy nghĩ và có những giải pháp thỏađáng, phù hợp.


Vấn đề cần được đặt ra hiện nay là:


- Đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên Tiểu học cần được đào tạo mộtcách có hệ thống về Tiếng Việt.


- Bên cạnh cuốn “Từ điển chính tả Tiếng Việt” nói chung cần biên soạncác từ điển chính tả cho nhà trường thích hợp với từng vùng phương ngữ nhấtđịnh nhằm giúp cho học sinh ở các địa phương viết đúng chính tả trên cơ sởphân biệt các âm và thanh điệu khác nhau được thể hiện trên chữ viết.


- Song song với việc sử dụng bộ sách Tiếng Việt Tiểu học hiện nay, cầnbiên soạn, bổ sung thêm các tài liệu mang tính chất chỉ đạo, hướng dẫn có nộidung sát hợp với từng địa phương, từng vùng phương ngữ, giúp giáo viên cócơ sở để tiến hành việc giảng dạy Tiếng Việt phù hợp với đối tượng học sinhcủa mình. Tuy nhiên đây cũng chỉ là một giải pháp mang tính chất tình thế màthơi. Nên chăng cần tiến tới khơng chỉ có một bộ sách Tiếng Việt dùng chungcho học sinh cả nước như hiện nay mà cần phải có từng bộ sách Tiếng Việtriêng cho mỗi vùng phương ngữ. Trong đó thể hiện được những tri thức cơbản về khoa học Việt ngữ, đồng thời thể hiện được tính “khu vực” của ngơnngữ. Đó sẽ là cơ sở, là điều kiện để giáo viên và học sinh tiến hành việc dạy –học Tiếng Việt tốt hơn.

[20]

Trong phương pháp làm việc và học tập của mình nói chung, trong phươngpháp dạy học nói riêng, mỗi người có sự chủ động, sáng tạo riêng của mình.Trên đây chỉ là một số kinh nghiệm của cá nhân về việc xây dựng hệ thống bàitập chính tả phương ngữ cho học sinh lớp ba ở Nghệ An để các bạn thamkhảo.


Rất mong nhận được các ý kiến nhận xét, góp ý của các Cán bộ chỉ đạochuyên môn các cấp và của bạn bè đồng nghiệp, đặc biệt là những người đangtrực tiếp giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.


Xin chân thành cảm ơn!


Vinh, ngày 9 tháng 4 năm 2010

[21]

1. Lê A: Về chương trình chính tả Tiểu học [Kỉ yếu Hội thảo khoa họctoàn quốc] - SGK Tiếng Việt bậc tiểu học hiện hành và chương trình TiếngViệt bậc Tiểu học sau năm 2000 - NXB giáo dục 1997.


2. Lê A - Lê Phương Nga - Nguyễn Trí: Phương pháp dạy học TiếngViệt [tài liệu đào tạo giáo viên Tiểu học] - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Vụ giáoviên - Hà Nội 1994.


3. Hoàng Ngọc Anh: Một vài nhận xét bước đầu về âm và nghĩa từ địaphương Nghệ Tĩnh - Ngôn ngữ số 1 - 1995.


4. Hồ Cơ: Việc thực hiện các qui định về chuẩn hố chính tả và thuậtngữ trong sách giáo khoa và trong nhà trường.


5. Hoàng Cao Cương: Vai trò của Tiếng Việt trong soạn sách giáo khoagiành cho học sinh bậc tiểu học hôm nay [Kỉ yếu Hội thảo khoa học toàn quốc].


6. Hà Quang Nâng: Từ thực trạng mắc lỗi chính tả của học sinh Tiểuhọc suy nghĩ về cách dạy và sách giáo khoa hiện nay [Kỉ yếu Hội thảo khoahọc toàn quốc].


7. Lê Phương Nga [Chủ biên] - Trần Thị Minh Phương - Lê Hữu Tỉnh:Tiếng Việt 3 nâng cao - NXBGD 2006.


8. Phan Ngọc: Chữa lỗi chính tả cho học sinh - NXBGD 1982


9. Hoàng Thảo Nguyên: Về nội dung, phương pháp dạy chính tả quasách giáo khoa Tiếng Việt Tiểu học.


10. Hồng Phê; Vấn đề chuẩn chính tả. Chuẩn hố chính tả và thuật ngữNXBGD 1984.


11. Hồng Tuệ: Người giáo viên trước các vấn đề chuẩn hoá Tiếng Việt.Chuẩn hoá Chính tả và thuật ngữ - NXBGD 1984.


12. Nguyễn Trí [chủ biên] - Dương Thị Hương - Thảo Nguyên: Để dạy
học tốt Tiếng Việt 3 - NXBGD 2006.


13. Nhiều tác giả: Tiếng Việt [Lớp 1, 2, 3, 4, 5] chương trình hiện hành- NXBGD 2008.


14. Nhiều tác giả: Tài liệu hướng dẫn giảng dạy và Bài soạn Tiếng Việt[Lớp 1, 2, 3, 4, 5] - NXBGD

Video liên quan

Chủ Đề