Bài tập luật hình sự về trộm cắp tài sản năm 2024

A có ý định giết chị C[ là vợ của A] để tự do lấy nhân tình. Đã có lần A cho thuốc diệt chuột vào ấm thuốc bắc của chị C làm chị C bị nhiễm độc nhưng không chết , tổn hại sức khỏe không đáng kể. Khoảng 1 tháng sau đó, A lại giết chị C bằng thủ đoạn cho uống thuốc ngủ, A tán thuốc thành bột và trộn với bột sắn dây. Chị C không biết bột sắn dây có trộn thuốc ngủ nên pha 1 cốc uống và đã tử vông . Hỏi:

1. Giả thiết chị C không chết thì A có phải chịu TNHS về hành vi của mình không? tội phạm thực hiện ở giai đoạn?

2. Xác định khách thể, đối tượng tác đôngh và các đấu hiệu khách quan của tội phạm trong vụ án trên?

3. Giả định A trước khi thực hiện hành vi phạm tội như tình huống trên mà đang có án tích về tội trộm cắp tài sản thì A bị coi là phạm tội có tình tiết tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? Tại sao?

  • 1. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM TUẤN ANH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. HỒ TRỌNG NGŨ HÀ NỘI, 2018
  • 2. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 LỜI CAM ĐOAN Tác giả xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu trong luận văn hoàn toàn chính xác. Toàn bộ nội dung trong luận văn không sao chép của bất cứ tác giả nào, trường hợp trích dẫn tài liệu để phân tích, trình bày đều có chú thích tác giả theo đúng quy định. Tác giả luận văn PHẠM TUẤN ANH
  • 3. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................1 Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN.........................................................................................................................7 1.1. Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài s ản ..............................7 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội trộm cắp tài sản.................17 1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội chiếm đoạt tài s ản khác. .................33 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN SÓC SƠN - THÀNH PHỐ HÀ NỘI...........................................................37 2.1. Định tội danh đối với tội trộm cắp tài s ản.............................................................37 2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài s ản .................................60 Chương 3: CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN .............................66 3.1. Nâng cao nhận thức về định tội danh về tội trộm cắp tài sản theo Bộ luật hình sự 2015 ..........................................................................................................................66 3.2. Tăng cường hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài s ản.....................................................................................................................67 3.3. Nâng cao năng lực của chủ thể áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản. ...........74 3.4. Tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản..................................................................................................................................75 KẾT LUẬN ..................................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................80
  • 4. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhìn lại sau ba mươi năm đổi mới kể từ năm 1986, đất nước ta do Đảng lãnh đạo đã đạt được những thành quả to lớn, toàn diện trên tất các các mặt của đời sống xã hội. Cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được, vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém và không ít vấn đề bức xúc nảy sinh chưa được giải quyết đó là sự tha hóa, biến chất về đạo đức, lối sống thực dụng và hưởng thụ của một bộ phận con người trong xã hội làm phát sinh tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt là tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp, tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, nhiều vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Sóc Sơn là một huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, nằm ở cửa ngõ phía Bắc, tiếp giáp với nhiều huyện của các tỉnh, bao gồm phía Bắc giáp huyện Phổ Yên của tỉnh Thái Nguyên, phía Đông Bắc giáp huyện Hiệp Hoà của tỉnh Bắc Giang, phía Đông Nam giáp huyện Yên Phong của tỉnh Bắc Ninh, phía Nam giáp huyện Đông Anh, phía Tây giáp huyện Mê Linh và thành phố Phúc Yên của tỉnh Vĩnh Phúc. Toàn huyện có 25 xã và 01 thị trấn, trong đó thị trấn Sóc Sơn là khu vực trung tâm, 25 xã còn lại được chia thành 3 khu vực gồm 8 xã vùng trũng, 9 xã đồi gò và 8 xã vùng giữa. Dân số của huyện trên 34 vạn người. Huyện Sóc Sơn là nút giao thông quan trọng nằm ở cửa ngõ phía bắc của Thủ đô Hà Nội với nhiều tuyến đường giao thông quan trọng như: đường Võ Nguyên Giáp [nối từ trung tâm Hà Nội đến sân bay quốc tế Nội Bài]; 1
  • 5. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 đường Quốc lộ 2; Quốc lộ 3; Quốc lộ 18; đường Võ Văn Kiệt; đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên, đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai,… đặc biệt Sóc Sơn có Sân bay Quốc tế Nội Bài là nơi thông thương quan trọng của cả nước. Mặc dù có nhiều thuận lợi về điều kiện kinh tế - xã hội cũng như hạ tầng kỹ thuật, sự đang trên đà phát triển của huyện Sóc Sơn, tuy nhiên đây cũng là điều kiện để tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội có những diễn biến phức tạp cả về tính chất và mức độ, được thể hiện ở tình hình tội phạm, trong đó có tình hình tội trộm cắp tài sản nói riêng và nhóm các tội xâm phạm sở hữu nói chung. Theo con số thống kê những vụ án đã xét xử của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn trong 5 năm qua [từ năm 2013 - 2017] tại huyện Sóc Sơn đã xảy ra 1.062 vụ phạm pháp hình sự với 2.500 bị cáo, trung bình mỗi năm xảy ra 212,4 vụ với 500 bị cáo. Trong đó, nhóm các tội xâm phạm sở hữu chiếm 41,4% về số vụ [440 vụ] và 28,1% về số bị cáo [703 bị cáo]. Đáng chú ý là tội trộm cắp tài sản chiếm 20,2% về số vụ [215 vụ] và 12,76% về số bị cáo [319 bị cáo] trên số vụ và bị cáo phạm tội nói chung trên địa bàn huyện. Thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống và xử lý tội phạm cho thấy, nhờ sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan tiến hành tố tụng, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng cao. Số vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sóc Sơn đã được phát hiện chiếm tỷ lệ cao và được đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật. Song bên cạnh đó, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sóc Sơn vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chính là do ý thức tự bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo vệ tài sản của người khác trong quần chúng nhân dân còn chưa cao; các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa đánh giá hết tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, việc áp dụng một số quy định của pháp luật còn chưa thống nhất; các cơ quan, đơn vị, tổ chức kinh tế mặc dù có điều kiện về kinh tế nhưng công tác bảo vệ tài sản còn nhiều hạn chế, mất cảnh giác, 2
  • 6. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 không quan tâm trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuật để phục vụ cho việc phòng ngừa và chống tội phạm; số đối tượng bị phạt tù sau khi chấp hành xong hình phạt tù để tái hòa nhập cộng đồng còn chưa được quản lý chặt chẽ, chưa được tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và chưa được tạo điều kiện về công ăn việc làm, do đó số đối tượng này không có việc làm còn nhiều nên tỷ lệ tái phạm còn cao. Chính vì vậy, Tác giả lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội” làm luận văn Thạc sĩ với mong muốn trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn xử lý loại tội này sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội trộm cắp tài sản tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, vấn đề xây dựng pháp luật hình sự áp dụng cho tội trộm cắp tài sản đã thu hút không ít sự quan tâm của các nhà tội phạm học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu Luật, trước hết phải kể đến các công trình nghiên cứu có tính lý luận như: Luật hình sự Việt Nam phần chung của tác giả Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014; Giáo trình luật hình sự Việt Nam [tập 2] Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự [phần các tội phạm], Viện khoa học pháp lý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tiếp đó là các công trình nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học như Đấu tranh phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả Thân Như Thành; Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Thái Nguyên của tác giả Dương Văn Hưn. Ngoài ra, còn một số bài viết trong các tạp chí Kiểm sát, Tòa án như bài Định tội danh của PGS. TSKH Lê Cảm [tạp chí Tòa án]… Các bài viết, các đề tài và các công trình nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ các vấn đề về sự hình thành cũng như các quy định về tội trộm cắp tài s ản trong PLHS Việt Nam kể từ khi nước ta giành được độc lập đến nay. Tuy nhiên, chưa 3
  • 7. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 có công trình nghiên cứu chuyên sâu tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội. Vì vậy, thông qua quá trình nghiên cứu Luận văn này, tác giả đi sẽ sâu tìm hiểu toàn diện về loại tội trộm cắp tài sản, từ đó kế thừa những nội dung đã được tiếp cận từ các công trình nghiên cứu của các tác giả trước đây để tìm ra nguyên nhân, điều kiện phát sinh loại tội phạm này, thực trạng các quy định của pháp luật được áp dụng trong thực tiễn, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện và áp dụng đúng các quy định của pháp luật về tội trộm cắp tài sản. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản và về hình phạt, cũng như kiến nghị, giải pháp áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản một cách phù hợp hơn nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm trộm c ắp tài s ản trên địa bàn huyện Sóc Sơn nói riêng, thành phố Hà Nội nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu: - Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam; - Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm xâm phạm sở hữu khác; - Khái quát lịch sử hình thành các quy định của pháp luật Việt Nam về tội trộm cắp tài sản ở Việt Nam; - Phân tích thực tiễn định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; những hạn chế, bất cập trong định tội danh tội trộm cắp tài sản và đề xuất giải pháp khắc phục; 4
  • 8. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 - Phân tích thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; những hạn chế, bất cập trong quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản và đề xuất kiến nghị. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4.1. Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu đó là các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản; các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. Tác giả lấy các quy định của pháp luật, các quan điểm khoa học và thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu. Về nội dung, đề tài được nghiên cứu dưới góc độ của Luật hình sự và tố tụng hình sự. Về không gian, đề tài được nghiên cứu và khảo sát trong phạm vi huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Về thời gian, đề tài nghiên cứu số liệu thực tế từ thực tiễn xét xử c ủa Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến năm 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận. Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh, phòng chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu. Để đạt được kết quả, nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, trong đó có kể đến là: phương pháp lịch sử, so sánh, kể cả luật so sánh; tổng kết thực tiễn; phân tích và phân tích quy phạm; thống kê; tổng hợp … 5
  • 9. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào nâng cao nhận thức và áp dụng pháp luật cũng như hoàn thiện lý luận về tội trộm cắp tài sản trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Với kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo luật và nghiên cứu khoa học. Về mặt thực tiễn: Với kết quả đạt được trong nghiên cứu của luận văn thì có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong thực tiễn công tác chỉ đạo, điều hành và tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Sóc Sơn - thành phố Hà Nội. Chương 3: Các biện pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản. 6
  • 10. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1. Khái niệm và những dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản 1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản. Theo từ điển pháp luật hình sự định nghĩa tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý [49, 283]. Theo pháp luật hình sự hiện hành ở nước ta, khái niệm tội phạm được các nhà làm luật ghi nhận trong Điều 8 BLHS Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 [sau đây gọi là BLHS năm 2015]. Theo đó, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm ph ạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự [12, Điều 8]. Trong BLHS Việt Nam, tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173, trong chương XVI các tội xâm phạm sở hữu BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với khách thể trực tiếp của tội phạm là quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức. Là tội phạm có bản chất là tội chiếm đoạt, tức là người có hành vi trộm cắp tài sản đã cố ý chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ người có tài sản sang mình hoặc sang cho người khác mà mình quan tâm đến. Thủ đoạn của việc chiếm đoạt đó là hành vi được thực hiện một cách lén lút. Ngoài những dấu hiệu pháp lý chung của tội phạm thì tội trộm cắp tài sản còn có một số đặc điểm, dấu hiệu pháp lý riêng, vừa để xác định bản chất pháp lý cơ bản của tội trộm cắp tài sản, vừa để phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với 7
  • 11. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 một số tội có tính chất chiếm đoạt khác. Căn cứ quy định của Điều 173 BLHS năm 2015 và trên cơ sở tổng kết các quan điểm khác nhau trong khoa học luật hình sự, khái niệm tội trộm cắp tài sản được định nghĩa như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý, được thực hiện b ởi người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quan hệ sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân”. Đặc điểm riêng biệt mang tính đặc thù của tội trộm cắp tài s ản là hành vi thực hiện một cách lén lút, không có tính chất lén lút thì không phải là trộm c ắp tài sản. Các nghiên cứu của các nhà khoa học đều coi lén lút là thủ đoạn chiếm đoạt của tội trộm cắp tài sản và đã là hành vi lén lút thì có nghĩa là bí mật, không công khai. Trong tội trộm cắp tài sản, thì hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản có đầy đủ những dấu hiệu này, thiếu một trong những dấu hiệu đó sẽ không thể hiện được bản chất của sự lén lút, bởi nếu làm một việc quang minh chính đại thì không bao giờ phải lén lút. Hay nói cách khác, lén lút là hành vi của một người cố ý thực hiện một việc làm giấu diếm, vụng trộm và không để lộ cho người khác biết để nhằm mục đích chiếm đoạt trái phép tài sản của họ. Tuy nhiên, nếu tất cả hành vi lén lút của tội trộm cắp tài sản được thực hiện một cách vụng trộm, giấu diếm thì việc nhận biết, đánh giá và việc định tội danh cũng dễ dàng hơn. Nhưng trong thực tế thì hành vi lén lút có nhiều cách thể hiện khác nhau. Có những hành vi lén lút được thực hiện một cách vụng trộm, giấu diếm đó là trường hợp che giấu toàn bộ sự việc phạm tội, nhưng cũng có những hành vi lén lút lại được người phạm tội thực hiện một cách công khai, không có ý giấu diếm hoặc che đậy, đó là trường hợp người phạm tội chỉ che giấu hành vi phạm tội đối với chủ tài sản mà không che giấu đối với những người xung quanh. Mặc dù tính chất lén lút là trưng cơ bản nổi bật của tội trộm cắp tài sản nhưng không phải là đặc trưng duy nhất của tội trộm cắp tài sản mà đi kèm với nó là hành vi chiếm đoạt tài sản. 8
  • 12. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 Đối chiếu với đặc trưng nổi bật như vậy, thì quy định của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới cũng tương tự, ví dụ: * Quy định của Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về tội trộm cắp tài sản. BLHS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 2 ngày 01/7/1979, có hiệu lực từ ngày 01/01/1980 và được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1997, 1999, 2001, 2002 và 2005. Theo đó, tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 264 trong chương “Tội xâm phạm tài sản” BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa như sau: “Người nào có hành vi trộm cắp tài sản của công hoặc tư với số lượng tương đối lớn hoặc trộm cắp nhiều lần thì bị phạt tù đến dưới ba năm, cải tạo lao động hoặc quản chế, kèm theo phạt tiền hoặc chỉ bị phạt tiền; nếu trộm cắp với số lượng lớn hoặc có những tình tiết nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm và bị phạt tiền; nếu trộm cắp với số lượng đặc biệt lớn hoặc có những tình tiết đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ mười năm trở lên hoặc tù chung thân và bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản; nếu có một trong những hành vi dưới đây thì bị phạt tù chung thân hoặc tử hình và bị tịch thu tài sản: 1. Trộm cắp tiền, tài sản với số lượng đặc biệt lớn từ ngân hàng hoặc các tổ chức tài chính khác; 2. Trộm cắp di sản quý hiếm, có tình tiết nghiêm trọng” [13, tr168]. Thông qua quy định trên cho thấy điều luật cũng chỉ nêu được tên của hành vi trộm cắp tài sản mà không đưa ra được khái niệm mô tả hành vi thế nào là trộm cắp tài sản. Dấu hiệu bắt buộc được phản ánh trong cấu thành tội phạm của điều luật này là hậu quả thiệt hại về tài sản, đồng thời điều luật cũng không quy định rõ giá trị tài sản bị chiếm đoạt tối thiểu là bao nhiêu mà chỉ sử dụng các thuật ngữ chung chung như “số lượng lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, điều này sẽ dẫn đến việc áp dụng pháp luật một cách tùy tiện, và quy định như vậy 9
  • 13. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 cũng rất khó để xác định được đâu là vi phạm hành chính và đâu là vi phạm hình sự. Về hình phạt bao gồm hình phạt tiền, cải tạo lao động hoặc quản chế, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. So với Bộ luật hình sự Việt Nam, hình phạt cao nhất đối với tội trộm cắp tài sảm là đến 20 năm, còn đối với Luật hình sự Trung Hoa là tử hình. * Quy định của BLHS Liên bang Nga đối với tội trộm cắp tài sản. Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 158 chương “Các tội xâm phạm quyền sở hữu” của BLHS Liên bang Nga hiện hành, được ban hành năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm 2010, như sau: “1. Trộm cắp tài sản nghĩa là bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị phạt tiền đến tám mươi nghìn rúp hoặc bừng lương hoặc bằng thu nhập khác của người bị kết án đến sáu tháng, hoặc bị phạt lao động đến một trăm tám mươi giờ, hoặc bị phạt lao động cải tạo từ sáu tháng đến một năm, hoặc bị hạn chế tự do đến hai năm, hoặc bị phạt giam đến bốn tháng, hoặc bị phạt tù đến hai năm. 2. Hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện: a] Bởi nhóm người có bàn bạc từ trước; b] Kèm theo hành vi đột nhập trái pháp luật vào nhà hoặc nhà kho khác; c] Kèm theo việc gây ra thiệt hại đáng kể cho công dân; d] Từ quần áo, túi xách hoặc đồ xách tay khác trên người bị hại thì bị phạt tiền đến hai trăm nghìn rúp hoặc bằng lương hay bằng thu nhập khác của người bị kết án đến mười tám tháng, hoặc bị phạt lao động bắt buộc từ một trăm tám mươi giờ đến hai trăm bốn mươi giờ, hoặc bị phạt lao động cải tạo từ một năm đến hai năm, hoặc bị phạt tù đến năm năm có hoặc không kèm theo bị hạn chế tự do đến một năm. 3. Hành vi trộm cắp tài sản được thực hiện: 10
  • 14. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 a] Kèm theo hành vi đột nhập trái pháp luật vào nhà ở; b] Từ ống dầu mỏ, ống dẫn các sản phẩm dầu mỏ, ống dẫn ga; c] Ở mức độ nghiêm trọng thì bị phạt tiền từ một trăm nghìn đến năm trăm nghìn rúp hoặc bằng lương hoặc bằng thu nhập khác của người bị kết án đến mười tám tháng, hoặc bị phạt lao động bắt buộc từ một trăm tám mươi giờ đến hai trăm bốn mươi giờ, hoặc bị phạt lao động cải tạo từ một năm đến hai năm, hoặc bị phạt tù đến năm năm có hoặc không kèm theo bị hạn chế tự do đến một năm; 4. Hành vi trộm cắp được thực hiện: a] Bởi nhóm có tổ chức; b] Ở mức độ đặc biệt lớn thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm hoặc không kèm theo bị phạt tiền đến một triệu rúp hoặc bằng lương hay bằng thu nhập khác của người bị kết án đến năm năm có hoặc không kèm theo bị hạn chế tự do đến hai năm”. Theo quy định của Bộ luật hình sự Liên bang Nga cho thấy tại điều luật đã đưa ra được định nghĩa của tội trộm cắp tài sản. Theo đó, hành vi phạm tội trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản một cách bí mật tài sản của người khác. Điều luật đã mô tả được thế nào là hành vi trộm cắp, đó là hành vi bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng lại không quy định trị giá tài sản cụ thể là bao nhiêu mà chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị coi là phạm tội trộm cắp và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, quy định này không phân biệt được ranh giới giữa vi phạm hành chính và hình sự về hành vi trộm cắp. 1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản. 1.1.2.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản. Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [45, tr.86]. Cũng như các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trong phần 11
  • 15. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 các tội xâm phạm sở hữu, tội trộm cắp tài sản đặc trưng bởi hành vi chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên hành vi chiếm đoạt tài sản của tội trộm cắp tài sản được thực hiện một cách lén lút, không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà trực tiếp xâm hại đến quan hệ sở hữu, đây cũng là một điểm khác với các tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản, tội bắt cóc nhằm CĐTS, đặc điểm này được thể hiện trong cấu thành tội trộm cắp tài sản mà nhà làm luật không quy định thiệt hại về tính mạng, sức khỏe là tình tiết định khung hình phạt. Sau khi người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản nhưng bị đuổi bắt mà có hành vi chống lại người đuổi bắt để tẩu thoát mà gây chết người, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo hành vi tương ứng [Mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP]. 1.1.2.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản. Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả [45, tr99]. a] Về hành vi khách quan. Trong tội trộm cắp tài sản, người phạm tội chỉ có một hành vi khách quan duy nhất đó là CĐTS nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, bí mật. Đặc trưng lén lút của hành vi chiếm đoạt trong tội trộm cắp tài sản cũng chỉ đòi hỏi phải có trong ý thức của người phạm tội, nó thể hiện ở việc người phạm tội che giấu hành vi đang phạm tội của mình, không cho phép chủ tài sản biết có hành vi CĐTS khi hành vi này đang xảy ra. Thực tế cho thấy, khi người phạm tội thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản với chủ sở hữu nhưng lại công khai CĐTS với những người có mặt ở đó nhưng những người có mặt lúc tài sản bị chiếm đoạt vì lý do nào đó mà không biết chủ tài sản là 12
  • 16. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 ai, không có trách nhiệm quản lý tài sản đó thì hành vi của người CĐTS trong trường hợp này vẫn bị coi là hành vi trộm cắp tài sản; trong trường hợp này, người CĐTS chỉ có hành vi che giấu hành vi trộm cắp của mình đối với chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không cần che dấu với những người khác. b] Về đối tượng tác động. Để gây thiệt hại đến các quyền sở hữu về tài sản, người phạm tội trộm cắp tài sản phải tác động đến tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản. Theo quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam, tài sản có nhiều hình thức khác nhau. Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản” [15, tr62]. Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, nó tồn tại khách quan bên ngoài ý thức mà con người có thể cảm nhận bằng giác quan của mình. Với ý nghĩa phạm trù pháp lý, vật chỉ có ý nghĩa trở thành đối tượng của quan hệ pháp luật, tức là nó được con người kiểm soát và đáp ứng được một nhu cầu nào đó của con người. Không phải bất cứ một bộ phận nào của thế giới vật chất đều được coi là vật. Vì vậy, có trong thế giới vật chất, có những bộ phận ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật. Như vậy, trong giao lưu dân sự muốn trở thành vật thì phải thỏa mãn được những điều kiện, đó là: là bộ phận của thế giới vật chất; mang lại lợi ích cho chủ thể; con người chiếm hữu được; có thể đang tồn tại hoặc có thể sẽ hình thành trong tương lai. Vật là một hình thức tài sản và có thể trở thành đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Vật phải nằm trong sự chiếm hữu của con người thì khi đó vật mới là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Đối với trường hợp vật vô chủ [có thể là trường hợp chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu của mình và tài sản không nằm trong phạm vi quản lý] thì hành vi lấy đi loại tài sản này không bị coi là phạm tội trộm cắp tài sản. 13
  • 17. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 Vật được phân loại thành các nhóm khác nhau. Dựa vào mối liên hệ, phụ thuộc về công dụng của vật với nhau mà vật được phân thành: Vật chính là vật độc lập có thể khai thác theo tính năng [ti vi, điều hòa, máy ảnh…]; vật phụ là vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính điều [khiển ti vi, điều hòa, vỏ máy ảnh,…]. Dựa vào việc xác định giá trị sử dụng của vật khi được chia ra thành nhiều phần nhỏ mà Bộ luật dân sự phân chia vật thành vật chia được và vật không chia được. Dựa vào đặc tính, giá trị của tài sản sau khi sử dụng thì chia thành vật tiêu hao và vật không tiêu hao. Dựa vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà người ta phân loại vật thành vật thành vật cùng loại và vật đặc định. Ngoài ra, người ta còn chia ra làm vật đồng bộ và vật không đông bộ. Tiền: Theo Mác thì tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. Bộ luật dân sự năm 2015 quy định tiền là một loại tài sản nhưng lại không có quy định để làm rõ bản chất pháp lý của tiền. Chỉ có loại tiền có giá trị đang được lưu hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận mới được coi là tài sản. Tiền là công cụ thanh toán đa năng, là công cụ tích lũy tài sản và là thước đo giá trị. Giấy tờ có giá: Giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định [www. vi.wikipedia.org]. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hồi phiếu, kỳ phiếu, công trái… Xét về mặt hình thức giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức, trình tự luật định. Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản, giá của giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo vệ. Giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển nhượng với điều kiện chuyển 14
  • 18. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 nhượng tòan bộ một lần, việc chuyển nhượng một phần giấy tờ có giá là vô hiệu. Ngoài ra, giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro. Quyền tài sản: Theo Điều 115 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác [15, tr65]. Quyền là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể và được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. c] Về hậu quả. Hậu quả của tội trộm cắp tài sản do người phạm tội gây ra là thiệt hại về giá trị tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp. Tài sản bị người phạm tội chiếm đoạt bao gồm các loại tiền, hàng hóa và các giấy tờ có giá trị thanh toán như ngân phiếu, công trái, trái phiếu… Căn cứ quy định của BLHS hiện hành, giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên mới cấu thành tội phạm; còn nếu tài sản bị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng thì phải kèm theo điều kiện đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168 [tội cướp tài sản], 169 [tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản], 170 [tội cưỡng đoạt tài sản], 171 [tội cướp giật tài sản], 172 [tội công nhiên chiếm đoạt tài sản], 174 [tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản], 175 [tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản] và điều 290 [tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản] của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là di vật, cổ vật. Có thể khẳng định tội trộm cắp tài sản có cấu thành vật chất bởi dấu hiệu cấu thành hậu quả được phản ánh trong cấu 15
  • 19. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 thành tội phạm của tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, mặc dù người có hành vi trộm cắp chưa chiếm đoạt được tài sản mà nằm ngoài ý muốn chủ quan của họ thì vẫn cấu thành tội trộm cắp tài sản nhưng là phạm tội chưa đạt chứ không nhất thiết phải có thiệt hại về tài sản mới cấu thành tội phạm. d] Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Mối quan hệ nhân quả phản ánh hành vi và hậu quả trong mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản. Theo đó, hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; trong hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tế, mầm mống nội tại, nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh hậu quả; hậu quả xảy ra phải là hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi trái pháp luật. 1.1.2.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản. “Chủ thể của tội trộm cắp tài sản quy định tại tất cả các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 173 BLHS là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự chỉ là chủ thể của tội trộm cắp tài sản quy định tại các khoản 3 và 4 Điều 173 BLHS”. Điều 12 BLHS năm 2015 quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này [12, tr14]. Như vậy, căn cứ theo Điều 8 và điều 173 BLHS hiện hành ta có thể xác định được rằng: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. Còn người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi mà thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì chỉ phải chịu TNHS về tội trộm cắp tài sản theo 16
  • 20. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 khoản 3 và khoản 4 Điều 173 BLHS. 1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản. Mặt chủ quan của tội phạm đó là những diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội bao gồm lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Giống như các tội có tính chất chiếm đoạt khác, tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội trộm cắp tài sản nhận thức được rõ hành vi của mình là trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội và thấy trước hậu quả của hành vi đó khi tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn hậu quả xảy ra. Mục đích của tội phạm là chiếm tài sản của người khác [33, tr.314]. Trước khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội đã xuất hiện mục đích chiếm đoạt. Do vậy, có thể khẳng định dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành của tội trộm cắp tài sản là mục đích CĐTS. Tuy nhiên, cùng với mục đích chiếm đoạt thì người phạm tội còn có thể có những mục đích khác nếu mục đích đó không cấu thành một tội phạm độc lập khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản. 1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội trộm cắp tài sản. 1.2.1. Lịch sử phát triển những quy định của pháp luật Vi ệt Nam v ề tội trộm cắp tài sản. 1.2.1.1. Từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời sau thành công của Cách mạng tháng 8 đã phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách, đó là vừa phải đối phó với thù trong giặc ngoài, vừa phải từng bước quản lý, phát triển và xây dựng đất nước. Để bảo vệ thành quả của cách mạng và duy trì sự ổn định xã hội, Nhà nước ta đã ban hành nhiều Sắc lệnh, Nghị định, Thông tư để xử lý tội phạm nói chung, tập trung vào các tội phản cách mạng. Có nhiều văn bản pháp luật quy định xử lý tội phạm trong đó có các quy định về tội xâm phạm 17
  • 21. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng như: Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký cho phép tạm thời giữ lại các luật, lệ tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ cho đến khi ban hành các VBPL thống nhất trong toàn quốc; Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/3/1948 quy định trừng trị các hành vi trộm cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh. Nghị định số 32 - NĐ ngày 06/4/1952 của Bộ tư pháp quy định đường lối xét xử các tội trộm cắp, lừa đảo, biển thủ tài sản; Thông tư số 11 - BK ngày 14/12/1949 của liên Bộ nội vụ, Quốc phòng, Tư pháp ấn định phương pháp đối phó với các vụ trộm cắp tại nơi có chiến sự. Ngoài các văn bản pháp luật trên thì phải kể đến hai văn bản pháp luật được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21/10/1970 đó là Pháp lệnh số 149-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh số 150-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Tội trộm cắp tài sản được quy định thành hai loại, cụ thể là quy định tại Điều 7 Pháp lệnh về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Điều 6 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Trong Pháp lệnh số 149-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh số 150-LCT về trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân đã xây dựng hai CTTP hoàn chỉnh về tội trộm cắp tài sản trong đó quy định riêng biệt về trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa và trộm cắp tài sản riêng của công dân. Nội dung Pháp lệnh quy định cụ thể các tình tiết định khung trong điều luật, có các khung hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, góp phần phân hóa TNHS đối với người phạm tội. Việc ban hành đồng thời hai Pháp lệnh này đã thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta không những đối với tài sản của Nhà nước mà còn đối với cả tài sản riêng của công dân, làm cho người dân nâng cao niềm tin vào chính quyền Dân chủ cộng hòa, tích cực tham gia sản xuất và chiến đấu. 1.2.1.2. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội trộm cắp tài sản. 18
  • 22. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 BLHS năm 1985 được Quốc hội khóa VII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1986 đã đánh dấu một bước phát triển mới đối với kỹ thuật lập pháp của khoa học pháp lý nước ta nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Điều này đã khắc phục được tình trạng các văn bản pháp luật chồng chéo, không thống nhất trước đó; nó được thể hiện dưới hình thức Bộ luật, có tính bao quát tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng bảo vệ thành quả của cách mạng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tội trộm cắp tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 bao gồm hai Điều luật độc lập, trong đó Điều 132 BLHS quy định về tội trộm cắp tài sản XHCN và Điều 155 BLHS quy định về tội trộm cắp tài sản của công dân. Tại Điều 132 BLHS năm 1985 về tội trộm cắp tài sản XHCN được quy định thành ba khoản với mức hình phạt thấp nhất của khoản 1 là “phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm” và hình phạt cao nhất quy định tại khoản 3 là “tù chung thân hoặc tử hình”. Tại Điều 155 BLHS năm 1985 về tội trộm cắp tài sản của công dân quy định thành ba khoản với mức hình phạt ở khoản 1 là “phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm” và khung hình phạt cao nhất ở khoản 3 là “phạt tù từ bảy năm đến hai mươi năm”. Như vậy, so với các quy định tương ứng của các văn bản pháp luật đã được ban hành trước năm 1985 thì tại Điều 132 và Điều 155 BLHS năm 1985 đã quy định rõ ràng và cụ thể hơn hành vi phạm tội trộm cắp tài sản XHCN và hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của công dân. Về hình phạt: Trong giai đoạn này, tư tưởng chỉ đạo là chú trọng bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản riêng của công dân. BLHS năm 1985 đã quy định tương đối đầy đủ và tập trung hệ thống hình phạt và tiêu chí áp dụng. Việc quy định như vậy đã thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc áp dụng hình phạt đó là không phải chỉ nhằm mục đích trừng trị mà 19
  • 23. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 còn nhằm mục đích giáo dục, cải tạo và răn đe đối với những người khác. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: BLHS năm 1985 ra đời thì lần đầu tiên các quy định về tình tiết giảm nhẹ [Điều 38] và tình tiết tăng nặng [Điều 39] được quy định khá đầy đủ, làm tiêu chí để quyết định hình phạt. Ngoài ra, còn có một số hướng dẫn nghiệp vụ của Tòa án nhân dân Tối cao về một số tình tiết khác như người phạm tội đầu thú, gia đình bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả thay cho bị cáo cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ. Với tính chất của tội phạm ngày càng gia tăng và thủ đoạn ngày càng tinh vi, BLHS năm 1985 chưa phản ánh được đầy đủ. Do đó, BLHS năm 1985 đã được Quốc hội nước ta đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 vào ngày 28/12/1989, trong đó bổ sung thêm quy định về một tình tiết định khung tăng nặng TNHS đối với người phạm tội vào điểm b khoản 2 Điều 155 tội trộm cắp tài sản của công dân, đó là“có tính chất chuyên nghiệp”. Tuy nhiên, trong thời gian này chưa có hướng dẫn cụ thể về tình tiết phạm tội “có tính chất chuyên nghiệp” mà chỉ có bài phát biểu kết luận của Chánh án TANDTC tại hội nghị tổng kết của ngành Tòa án năm 1991 về tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” là trường hợp ngoài bọn lưu manh chuyên nghiệp ra, người thực hiện một hay nhiều tội cùng loại [thuộc nhóm khách thể] những tội phạm lặp đi lặp lại nhiều lần hoặc nghề sống chính thì đều coi là “có tính chất chuyên nghiệp”. Đến nay, Nghị quyết số 01/2006/HĐTP-TANDTC ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn cụ thể tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, đó là người phạm tội phải thỏa mãn hai điều kiện là cố ý phạm tội từ 5 lần trở lên về cùng một tội phạm nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích mà không cần phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa bị truy cứu TNHS và họ lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính [29, mục 5]. BLHS năm 1985 ra đời đã đánh dấu một bước phát triển trong kỹ thuật 20
  • 24. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 lập pháp, tuy nhiên nó được ban hành trong thời kỳ tập trung, quan liêu, bao cấp, có sự phân biệt rõ ràng trong việc bảo vệ tài sản XHCN và tài sản của công dân. Mặc dù đã trải qua bốn lần sửa đổi, bổ sung [vào các năm 28/12/1989, 12/8/1991, 22/12/1992, 10/5/1997] nhưng những lần sửa đổi, bổ sung này chủ yếu nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh đối với một số loại tội phạm nhất định, và sau các lần sửa đổi, bổ sung đó thì BLHS đã không còn là một chỉnh thể thống nhất, do đó cần có một BLHS mới thay thế để phù hợp với điều kiện xã hội hơn. Chính vì lẽ đó, BLHS năm 1999 ra đời trên cơ sở kế thừa và phát triển cho phù hợp với điều kiện và tình hình xã hội lúc bấy giờ đã thay thế BLHS năm 1985. Tội trộm cắp tài sản thay vì quy định ở hai điều luật khác nhau như ở BLHS năm 1985 [Điều 132 tội trộm cắp tài sản XHCN và Điều 155 tội trộm cắp tài sản của công dân] thì nay đã được quy định trong một điều luật, đó là Điều 138 BLHS năm 1999. 1.2.1.3. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội trộm cắp tài sản. Bộ luật hình sự năm 1999 được thông qua ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa X và có hiệu lực từ ngày 01/7/2000 cho thấy trong tư tưởng của các nhà làm luật đã có một sự nhìn nhận khách quan hơn về sự bình đẳng của các thành phần sở hữu trong các mối quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật hình sự nói riêng, do đó đã khắc phục được những hạn chế trong việc phân biệt giữa các thành phần sở hữu mà BLHS năm 1985 đã quy định. Sau nhiều năm thi hành, Bộ luật hình sự năm 1999 đã góp phần quan trọng trong việc giữ vững tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 đã bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sót sau 10 năm thi hành, trong đó đáng chú ý là chưa thể chế hóa được quan điểm, chủ trương mới của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08- 21
  • 25. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong khi đó, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã đặt ra cho hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng phải là công cụ pháp lý sắc bén nhằm thúc đẩy và bảo vệ cho sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, ngày 19/6/2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như phù hợp với yêu cầu cải cách của đất nước. Điều 138 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 vẫn giữ nguyên quy định là 5 khoản, trong đó có 4 khoản định khung và 01 khoản quy định là hình phạt bổ sung và mức hình phạt thấp nhất được quy định tại kho ản 1 vẫn là “phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” và mức hình phạt cao nhất được quy định tại khoản 4 Điều này vẫn là “phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân”. Điểm khác biệt ở đây là trị giá tài sản bị chiếm đoạt được nâng lên từ “năm trăm nghìn đồng” thành “hai triệu đồng”; điều này cho thấy sự phù hợp của các quy định của pháp luật so với nền phát triển của kinh tế. 1.2.1.3.1. Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về tình tiết định tội. Căn cứ theo quy định, so sánh Điều 138 BLHS năm 1999 với Điều 138 BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì thấy về cơ bản các quy định tại Điều 138 vẫn giữ nguyên, kể cả thứ tự các khoản và khung hình phạt. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã có sự thay đổi trị giá tài sản tối thiểu bị chiếm đoạt để cấu thành tội trộm cắp tài sản đó là từ “năm trăm nghìn đồng” thành “hai triệu đồng”. Bởi trong giai đoạn trước năm 2009 khi nền kinh tế vẫn còn đang ở một mức độ nào đó và tài sản trị giá từ năm trăm nghìn trở lên là tương đối lớn, do đó hành vi trộm cắp tài sản trị giá từ năm trăm nghìn đồng đã được coi là hành vi nguy hiểm 22
  • 26. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 cho xã hội và cấu thành tội trộm cắp tài sản, tuy nhiên, đến năm 2009 thì nền kinh tế xã hội đã phát triển đến một mức độ nhất định, đời sống của nhân dân được nâng lên, do đó chiếm đoạt tài sản trị giá từ hai triệu đồng trở lên mới thể hiện được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. 1.2.1.3.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình ph ạt và tình tiết định khung tăng nặng. Theo quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội trộm cắp tài sản được chia thành 4 khung hình phạt gồm một khung cơ bản [khoản 1] và ba khung tăng nặng [khoản 2, khoản 3 và khoản 4]. a] Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về hình phạt trong cấu thành tội phạm cơ bản. Khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999 chính là CTTP cơ bản của tội trộm cắp tài sản. Theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS thì một hành vi được coi là thỏa mãn cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản khi thỏa mãn điều kiện lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau: - Gâu hậu quả nghiêm trọng: Hậu quả nghiêm trọng này có thể là những thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và các thiệt hại phi vật chất. Cụ thể được quy định tại điểm a tiểu mục 3.4 Mục 3 Phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999; theo đó, những thiệt hại này có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của chủ tài sản hoặc người quản lý tài sản đó. Cũng có thể sẽ xảy ra thiệt hại cho sức khỏe của người khác trong tội trộm cắp tài sản bởi thông thường người phạm tội thực hiện hành vi tội phạm một cách lén lút nên họ không bao giờ đối mặt với 23
  • 27. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 người chủ sở hữu tài sản, người quản lý tài sản hoặc người khác. Tuy nhiên, khi hành vi trộm cắp tài sản của người phạm tội mà bị phát hiện thì người đó có thể có hành vi chống trả lại người đuổi bắt để tẩu thoát, từ đó gây ra những thương tích hoặc tổn hại nhất định cho người đuổi bắt. Trong một số trường hợp nhất định, người phạm tội còn có hành vi phá hủy hoặc gây thiệt hại đến tài sản khác như trường hợp để lấy trộm tài sản trong nhà thì người phạm tội phải cắt khóa, cậy cửa để vào nhà; để lấy xe máy thì người phạm tội phải dùng vam phá khóa… - Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt: Đó là trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản nhưng chưa đủ điều kiện cấu thành một trong những tội chiếm đoạt tài sản được quy định trong BLHS năm 1999. Tại tiểu mục 1.1 mục 1 Phần 1 Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999 thì trường hợp “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt” là nếu trước đó đã bị xử lý bằng một trong các hình thức sau đây về hành vi chiếm đoạt nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý mà lại thực hiện một trong các hành vi chiếm đoạt tài sản, đó là: đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Pháp lênh xử lý VPHC [nay là Luật xử lý VPHC]; đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệnh, Điều lệ của lực lượng vũ trang nhân dân; đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền. - Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm: Người phạm tội bị coi là “đã bị kết án về tội chiếm đoạt” nếu trước đó đã bị kết án về một trong các tội, đó là: Tội cướp tài sản [Điều 133]; Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản [Điều 134]; Tội cưỡng đoạt tài sản [Điều 135]; Tội cướp giật tài sản [Điều 136]; Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản 24
  • 28. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 [Điều 137]; Tội trộm cắp tài sản [Điều 138]; Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản [Điều 139]; Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản [Điều 140]; Tội tham ô tài sản [Điều 278]; Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản [Điều 280 BLHS]. Như vậy, đối với những người đã bị kết án về một trong các tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà sau đó lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì dù giá trị tài sản chiếm đoạt đó chưa đến hai triệu đồng nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. b] Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về hình phạt và những tình tiết định khung tăng nặng trong các CTTP tăng nặng. * Về cấu thành tội phạm tăng nặng thứ nhất theo khoản 2 Điều 138. Khoản 2 Điều 138 BLHS năm 1999 quy định mức hình phạt được áp dụng là tù từ hai năm đến bảy năm, được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau: - Có tổ chức: Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, trộm cắp tài sản có tổ chức là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm [khoản 3 Điều 20 BLHS 1999], trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức; đ ó là hình thức đặc biệt của tội phạm đồng phạm, nó mang đầy đủ dấu hiệu của đồng phạm nhưng có tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn đồng phạm thông thường. Tuy nhiên, không phải vụ trộm cắp tài sản có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên mà tùy vào từng trường hợp cụ thể có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi giục hoặc người giúp sức, nhưng nhất thiết phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. - Có tính chất chuyên nghiệp: Theo hướng dẫn tại Mục 5.1 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là: a] Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một 25
  • 29. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu TNHS hay chưa bị truy cứu TNHS, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích; b] Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính” [29]. Đối với trường hợp phạm tội này thì nhất thiết người thực hành phải thưc hiện hành vi nhiều lần [từ 05 lần trở lên] nhưng không phải cứ thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần đều là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp mà phải xem xét việc thực hiện hành vi phạm tội của họ đó có thật sự làm nguồn sống hay không. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nhưng họ không lấy việc phạm tội làm nghề sinh sống thì không được coi đó là có tính chất chuyên nghiệp mà chỉ là trường hợp phạm tội nhiều lần [quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS]. Nếu người phạm tội chỉ trộm cắp tài sản một lần và có lấy việc phạm tội đó làm nghề sinh sống, còn những lần phạm tội khác không phải là trộm cắp tài sản thì cũng không phải là trộm cắp tài sản có tình chất chuyên nghiệp mà chỉ là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48 BLHS. - Tái phạm nguy hiểm: Cũng giống như tất cả những trường hợp tái phạm nguy hiểm ở các loại tội phạm khác, chỉ cần xác định người phạm tội có đầy đủ các dấu hiệu được quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS. Đây là tình tiết không phụ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như hành vi phạm tội cụ thể của tội phạm này hay tội phạm khác mà là tình tiết định khung tăng nặng thuộc về nhân thân của người phạm tội. - Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm: Thủ đoạn xảo quyệt là những mánh khóe, cách thức gian dối, thâm hiểm mà người phạm tội thực hiện nhằm làm cho người bị hại và những người khác không thể đề phòng. Còn thủ đoạn nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã có những thủ đoạn nhằm gây nguy hại đến tính mạng, sức khỏe của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. - Hành hung để tẩu thoát: Sau khi người phạm tội đã trộm cắp được tài 26
  • 30. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 sản mà bị đuổi bắt hoặc đã bị bắt nhưng đã có hành vi dùng vũ lực chống lại chủ sở hữu hoặc những người khác nhưng hành vi dùng vũ lực đó chưa gây ra thương tích. Nếu hành vi hành hung mà gây ra thương tích thì tùy thuộc vào tỷ lệ thương tật của người bị hành hung mà người phạm tội còn có thể bị truy cứu TNHS theo khoản tương ứng của Điều 104 BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khi xác định trường hợp phạm tội hành hung để tẩu thoát này thì cần phân biệt với người phạm tội hành hung không nhằm mục đích tẩu thoát mà nhằm mục đích giữ bằng được tài sản đã chiếm đoạt được thì khi đó người thực hiện hành vi phạm tội phải bị truy cứu TNHS về tội cướp tài sản chứ không còn là tội trộm cắp tài sản với tình tiết định khung tăng nặng “hành hung để tẩu thoát” nữa. - Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng: Là trường hợp người phạm tội trộm cắp tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng. Việc xác định trị giá tài sản căn cứ vào giá thị trường thời điểm xảy ra hành vi phạm tội. - Gây hậu quả nghiêm trọng: Đây là trường hợp ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì còn có những thiệt hại khác do hành vi phạm tội trộm cắp tài sản của người phạm tội đã gây ra. Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999: Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra [có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả]. Hậu quả đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất [gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu về an ninh, trật tự, an toàn xã hội] [tiểu mục 3.1 mục 3 Phần 1 27
  • 31. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 TTLT]; ngoài ra tiểu điểm a tiểu mục 3.4 mục 3 Phần 1 Thông tư hướng dẫn về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các hậu quả để xem xét trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Gây hậu quả nghiêm trọng là gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người khác được quy định từ các điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 mục 3 phần I thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT. * Về cấu thành tội phạm tăng nặng thứ hai theo Điều 138 BLHS năm 1999 [khoản 3]: Khoản 3 Điều 138 BLHS năm 1999 quy định mức hình phạt chính là tù từ bảy năm đến mười lăm năm, được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau: - Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng: Trường hợp này cũng tương tự như quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Việc xác định trị giá tài sản căn cứ vào giá thị trường tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội. - Gây hậu quả rất nghiêm trọng: Trường hợp này cũng giống với trường hợp phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng, chỉ khác ở chỗ là hậu quả rất nghiêm trọng này là do hành vi phạm tội gây ra; khi xác định về hậu quả cần dựa vào các thiệt hại về tài sản, về vật chất và phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. Căn cứ quy định tại điều 138 BLHS và hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 3.4 mục 3 Phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999 thì các trường hợp sau đây được coi là “hậu quả rất nghiêm trọng” do hành vi phạm tội gây ra: b.1] Làm chết hai người; b.2] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của 28
  • 32. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 mỗi người từ 61 % trở lên; b.3] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; b.4] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b.2 và b.3 trên đây; b.5] Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng; b.6] Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai đến ba điểm từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này [43, tiểu mục 3.4 mục 3 Phần 1]. * Về cấu thành tội phạm tăng nặng thứ ba [khoản 4 Điều 138 BLHS năm 1999]: Khoản 4 Điều 138 BLHS năm 1999 quy định mức hình phạt chính là tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân, được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau: - Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên: Cũng tương tự như quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS, chỉ khác là tài sản bị trộm cắp trong trường hợp này có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên. Việc xác định trị giá tài sản căn cứ vào giá thị trường tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội và phải dựa vào kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng để xác định trị giá tài sản; trừ trường hợp tài sản bị chiếm đoạt đó là tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành. - Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng: Đó là trường hợp quy định hành vi phạm tội đã gây ra ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì còn gây ra những thiệt hại khác nữa. Theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 3.4 mục 3 phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Công an - Bộ tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV các tội xâm phạm sở hữu của Bộ luật hình sự năm 1999 thì các trường hợp sau đây được coi là 29
  • 33. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” do hành vi phạm tội gây ra: c.1] Làm chết ba người trở lên; c.2] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; c.3] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31 % đến 60%; c.4] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng đẫn tại các điểm c.2 và c.3 trên đây; c.5] Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên; c.6] Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn điểm trở lên từ điểm a.1 đến điểm a.6 tiểu mục 3.4 này; c.7] Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai điểm trở lên từ điểm b.1 đến điểm b.6 tiểu mục 3.4 này [43, tiểu mục 3.4 mục 3 Phần 1]. Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản của người khác, thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự cho thấy còn có thể có hậu quả khác như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Đây là những thiệt hại phi vật chất, những thiệt hại này đòi hỏi người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án cụ thể, từng hoàn cảnh cụ thể và ở từng địa phương cụ thể mới có thể xác định được chính xác. b] Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về hình phạt bổ sung. Ngoài việc phải chịu một trong các hình phạt chính được quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 138 BLHS, tùy từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 138 BLHS, đó là: phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Phạt tiền là một loại hình phạt nhằm tước đi hoặc hạn chế một số lợi ích vật chất của người phạm tội và bổ sung vào ngân quỹ Nhà nước. Việc quy 30
  • 34. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 định hình phạt bổ sung là hình phạt tiền trong tội trộm cắp tài sản là rất hợp lý, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm bởi người phạm tội trộm cắp tài sản là nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác và biến tài sản đó thành tài sản của mình, do đó khi áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền sẽ tác động trực tiếp vào kinh tế của người phạm tội, từ đó có tác dụng răn đe, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. 1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội trộm cắp tài sản. Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội, được sửa đổi, bổ sung bởi: Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018 [sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015]. BLHS năm 2015 tiếp tục thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm, góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và đáp ứng công cuộc hội nhập quốc tế. So với Điều 138 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có một số thay đổi. - Tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 [sửa đổi, bổ sung năm 2017] vẫn giữ nguyên mức hình phạt bị cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, nhưng đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn về các yếu tố định tội trong trường hợp tài sản có giá trị dưới hai triệu đồng. Cụ thể: Tình tiết định tội “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt” được nêu rõ tại điểm a khoản 1 Điều 173 là “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”. Tình tiết “đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích 31
  • 35. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 mà còn vi phạm” đã được sửa đổi theo hướng liệt kê cụ thể các điều luật tại điểm b khoản 1 Điều 173 là “đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 29 0 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” đã được thay thế bằng quy định cụ thể “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” tại điểm c khoản 1 Điều 173 BLHS. Bổ sung thêm các tình tiết“tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” và“tài sản là di vật, cổ vật” quy định tại điểm d và đ khoản 1 Điều 173 BLHS. - Tại khoản 2 Điều 173 vẫn giữ nguyên mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, đã bỏ tình tiết định khung tăng nặng “gây hậu quả nghiêm trọng” và thay bằng tình tiết “tài sản là bảo vật quốc gia” quy định tại điểm e khoản 2 Điều 173 BLHS. - Tại Khoản 3 Điều 173 BLHS 2015 vẫn giữ nguyên mức hình phạt 07 năm đến 15 năm tù đã bỏ tình tiết định khung tăng nặng “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và thay bằng tình tiết “lợi dụng thiên tai, dịch bệnh”quy định tại điểm b khoản 3 Điều 173 BLHS. - Tại Khoản 4 Điều 173 đã bỏ hình phạt tù chung thân, chỉ quy định mức hình phạt từ 12 năm đến 20 năm. Đồng thời đã bỏ tình tiết định khung tăng nặng “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” và thay bằng tình tiết “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 173 BLHS. - Khoản 5 Điều 173 vẫn giữ nguyên quy định về hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Như vậy, các tình tiết định tội, định khung “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” đã được thay thế bằng những quy định cụ thể, tránh việc áp dụng tùy 32
  • 36. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 tiện, không thống nhất. 1.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội chiếm đoạt tài sản khác 1.3.1. Tội trộm cắp tài sản phân biệt với tội cướp giật tài sản. Tội cướp giật tài sản là hành vi mà người phạm tội thực hiện một cách công khai, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác và nhanh chóng tẩu thoát. Về khách thể: Khách thể của tội cướp giật tài sản bao gồm các quan hệ sở hữu tài sản và quan hệ nhân thân, còn khách thể của tội trộm cắp tài sản là những quan hệ sở hữu. Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi giấu giếm, không công khai chiếm đoạt tài sản của người khác, còn ở tội cướp giật tài sản là hành vi được thực hiện một cách công khai, trước sự chứng kiến của người chủ tài sản, hành vi được thực hiện nhanh chóng [bao gồm chiếm lấy bằng được tài sản và nhanh chóng tẩu thoát]. Dấu hiệu nhanh chóng, công khai là dấu hiệu đặc trưng trong tội cướp giật tài sản: nhanh chóng thể hiện ở việc người phạm tội lợi dụng việc chủ tài sản sơ hở để nhanh chóng tiếp cận họ để chiếm đoạt rồi nhanh chóng trốn tránh, với thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội chủ động được hành vi của mình và không để người chủ tài sản có điều kiện để ngăn cản việc chiếm đoạt tài sản nên người phạm tội không sẽ dùng bất kỳ thủ đoạn nào để đối phó với chủ tài sản; công khai thể hiện ở hành vi người phạm tội thực hiện trước sự chứng kiến của chủ tài sản mà khi hành vi cướp giật tài sản xảy ra thì người chủ tài sản biết được tài sản của mình bị người khác chiếm đoạt. Hơn nữa, trong tội trộm cắp tài sản thì thiệt hại về tài sản được quy định là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP và mức trị giá tối thiểu để làm cơ sở truy cứu TNHS được điều luật quy định; còn ở tội cướp giật tài sản bởi tính chất nguy hiểm cao của tội phạm này nên dấu hiệu hậu quả không được phản ánh trong CTTP mà điều luật cũng không quy định mức tối thiểu trị giá tài sản bị chiếm đoạt mà người phạm tội chỉ cần 33
  • 37. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 có hành vi cướp giật là phạm tội, không cần biết tài sản có giá trị như thế nào. 1.3.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Tội công nhiên CĐTS được quy định tại Điều 172 BLHS năm 2015. Theo đó, công nhiên CĐTS là hành vi mà người phạm tội thực hiện một cách công khai, lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người khác trong việc quản lý tài sản hoặc lợi dụng tình trạng họ không có điều kiện bảo vệ tài sản nhằm CĐTS của người đó mà không phải dùng bất kỳ thủ đoạn nào khác nhằm uy hiếp tinh thần người bị hại. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp tài sản có nhiều điểm giống nhau đó là: Do chủ thể bình thường có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp; đều xâm phạm đến quan hệ sở hữu tài sản và mục đích của người phạm tội là CĐTS. Cả hai tội phạm này đều có cấu thành vật chất, thiệt hại về tài sản được biểu hiện dưới dạng tài sản bị chiếm đoạt là dấu hiệu hậu quả nguy hiểm được phản ánh trong CTTP; điều luật quy định trị giá tài sản bị chiếm đoạt ở mức tối thiểu làm cơ sở truy cứu TNHS và khung hình phạt cao nhất đối với hai tội ấy đều là tù đến 20 năm. Điểm khác nhau giữa hai tội này là: Hành vi khách quan của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi mà người phạm tội thực hiện một cách công khai, ngang nhiên CĐTS của người khác ngay trước sự chứng kiến của chủ tài sản, còn hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản là hành vi dấu giếm, che giấu để CĐTS của người khác. Về nhận thức chủ quan, ở tội công nhiên CĐTS thì khi bị chiếm đoạt tài sản người chủ tài sản vẫn nhận biết được là tài sản của mình bị người khác chiếm đoạt nhưng người phạm tội lợi dụng việc họ không có điều kiện bảo vệ tài sản của mình để CĐTS mà không cần dùng đến bất kỳ thủ đoạn nào để đối phó với chủ tài sản; còn ở tội trộm cắp tài sản thì người phạm tội dấu giếm hành vi của mình để chiếm đoạt tài sản của người khác thông qua việc không cho chủ tài sản biết hành vi phạm 34
  • 38. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 tội xảy ra, trước khi xảy ra hành vi phạm tội thì tài sản vẫn đang nằm trong sự kiểm soát của chủ tài sản nhưng khi hành vi phạm tội xảy ra thì chủ tài sản không hề hay biết tài sản của mình bị người khác chiếm đoạt, chỉ sau khi bị mất tài sản thì chủ tài sản mới biết. 1.3.3. Tội trộm cắp tài sản phân biệt với tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015, theo đó, lạm dụng tín nhiệm CĐTS được hiểu là vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hoặc vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản [12, Điều 175]. Giống như tội trộm cắp tài sản nói riêng và các tội xâm phạm sở hữu nói chung, chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS là chủ thể bình thường có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật, thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm CĐTS và tội trộm cắp tài sản đều là xâm phạm đến quan hệ sở hữu. Mục đích của cả hai tội này mà đối tượng hướng đến là CĐTS. Khung hình phạt thấp nhất của cả hai tội là cải tạo không giam giữ đến 3 năm và khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù. Điểm khác nhau giữa hai tội này là trong quy định mức tối thiểu trị giá tài sản bị chiếm đoạt: Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì giá trị tài sản tối thiểu bị chiếm đoạt là 4.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng có thêm tình tiết định tội; còn đối với tội trộm cắp tài sản thì là 2.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng có thêm tình tiết định tội. 35
  • 39. tài trọn gói – ZL: 0973.287.149 – Luanvanmaster.com TẢI TÀI LIỆU KẾT BẠN ZALO 0973.287.149 Về mặt khách quan của tội phạm, đối với tội trộm cắp tài sản thì người thực hiện hành vi phạm tội một cách lén lút để chiếm đoạt tài sản; còn đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội sau khi có được tài sản một cách hợp pháp thông qua hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản hoặc hợp đồng khác thì người phạm tội không thực hiện cam kết trong hợp đồng, sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để CĐTS, hậu quả là người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản, hoặc bỏ trốn, hoặc không còn khả năng trả lại tài sản. Tiểu kết chương 1 Trước tình hình các tội phạm xâm phạm sở hữu ngày một gia tăng, trong đó có tội trộm cắp tài sản đang có tính phổ biến cao và xu hướng ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân. Để có cái nhìn rõ hơn đối với tội trộm cắp tài sản, trong phạm vi chương 1 của luận văn, tác giả đã đưa ra những vấn đề lý luận và pháp luật về tội trộm cắp tài sản như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, các quy định của pháp luật Việt Nam về tội trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó, tác giả đi vào phân tích về lịch sử phát triển các quy định của pháp luật liên quan đến tội phạm trộm cắp tài sản. Quá đó ta thấy được có sự phát triển trong nhận thức , trong tư duy của các nhà làm luật, của khoa học pháp lý nói chung và sự phát triển của các quy phạm pháp luật về tội trộm cắp tài sản ở nước ta nói riêng. Đó là, từ chỗ có sự phân biệt về mức độ bảo vệ của PLHS đối với các loại hình sở hữu thì đến nay PLHS đã có sự bình đẳng trong việc bảo vệ đối với mọi loại hìn sở hữu. 36

Chủ Đề