Các lý thuyết xã hội học văn hóa năm 2024

  • 1. LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC LỊCH SỬ VÀ LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC Tác giả: LÊ NGỌC HÙNG LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay nhu cầu tìm hiểu lý luận xã hội học rất lớn, ngay cả khi một số cuốn sách về lịch sử xã hội học và lý thuyết xã hội học hiện đại của tác giả nước ngoài đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt. Trong các cuộc hội thảo khoa học lớn nhỏ và cả trên giảng đường đại học vang lên những ý kiến chỉ ra sự thiếu hụt của lý thuyết, phê phán sự tràn lan của các nghiên cứu "thuần túy" thực nghiệm thiếu lý luận. Trong các tài liệu, bài viết vẫn còn khá phổ biến quan niệm điều tra được cái gì thì trình bày cái đó, còn tùy ai muốn gọi nó là cái gì cũng được. Cứ làm xã hội học thực nghiệm cung cấp số liệu thực tế không cần đến lý thuyết xã hội học, không cần biết là những kết quả nghiên cứu thực nghiệm đó có thực sự mang tính khoa học hay không. Tình trạng làm xã hội học theo kiểu "thực nghiệm trước, lý luận sau" hay chỉ cần thu thập số liệu bằng điều tra, khảo sát được ví như việc "đặt cỗ xe kéo trước đầu con ngựa". Đối với cách làm xã hội học không cần tới lý thuyết có thể phải viện dẫn lời nhắc nhở, cảnh báo của F. Engels cách đây hơn một thế kỷ: "sự khinh thường lý luận là con đường chắc chắn nhất đưa chúng ta đến chỗ suy nghĩ theo lối tự nhiên chủ nghĩa, tức là suy nghĩ sai". Các khoa học, theo cách phân chia cổ điển, gồm ba loại: một là khoa học nghiên cứu về giới tự nhiên vô sinh - khoa học chính xác ví dụ cơ học, hai là khoa học nghiên cứu những cơ thể sống, ví dụ sinh vật học, và ba là những khoa học lịch sử nghiên cứu điều kiện sinh hoạt của loài người, những quan hệ xã hội và những hình thức của kiến trúc thượng tầng của xã hội. Khác với các khoa học tự nhiên vô cơ và hữu cơ, đặc trưng của các khoa học về lịch sử trong đó có xã hội học là lịch sử xã hội không lặp lại, cho nên sự nhận thức về nó chỉ mang tính chất tương đối. Các khoa học này tập
  • 2. tỏ những mối liên hệ nhân quả và những đặc điểm, tính chất của những sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội diễn ra trong những hoàn cảnh lịch sử xác định về không gian và thời gian. "Vì vậy mà trong lĩnh vực này, kẻ nào đi tìm những chân lý tuyệt đỉnh cuối cùng, những chân lý thực sự, nói chung không biến đổi, thì kẻ đó sẽ chẳng kiếm được là bao, ngoài những điều nhạt nhẽo và những điều nhàm tai loại tồi nhất, ví dụ như: nói chung người ta không thể sống mà không lao động, rằng cho đến nay người ta thường chia ra thành kẻ thống trị và kẻ bị trị, rằng Na-pô-lê-ông chết ngày mồng 5 tháng Năm 1821, v.v." Lịch sử xã hội học là lịch sử của các lý thuyết xã hội học đấu tranh với nhau, cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau trong việc giải quyết những vấn đề mà cuộc sống thực của con người luôn đặt ra trước xã hội học. Trong tiến trình phát triển xã hội loài người, như F.Engels đã từng nhận xét, luôn xuất hiện những con người khổng lồ biết phát hiện vấn đề và đưa ra câu trả lời cho những câu hỏi lớn của thời đại. Sự kiện như vậy cũng xảy ra trong suốt chiều dài lịch sử xã hội học. Các nhà xã hội học vĩ đại thế kỷ XIX gồm Auguste Comte, Herbert Spencer, Karl Marx, Emile Durkheim, Max Weber, Georg Simmel đã đưa ra những kiến giải khác nhau đối với hàng loạt những câu hỏi như: Trật tự xã hội là gì? Sự đoàn kết xã hội là gì? Sự thống nhất xã hội là gì và làm thế nào tạo ra được chúng? Cái gì gắn kết con người với nhóm, với xã hội? Lịch sử phát triển xã hội đã diễn ra như thế nào và sẽ đi tới đâu? Từ các nỗ lực trả lời những câu hỏi này đã xuất hiện và phát triển các ý tưởng sâu sắc, các lý thuyết đồ sộ của xã hội học thế kỷ XIX. Trên cơ sở đó đã nảy sinh, khai triển nhiều trường phái lý thuyết xã hội học nổi tiếng nhằm giải đáp những câu hỏi bao trùm thế kỷ XX. Trong số đó nổi lên chủ thuyết xã hội học chức năng với các đại diện tiêu biểu, ví dụ Talcott Parsons và Robert Merton; chủ thuyết mâu thuẫn với các tác giả Wright Mills, Ralf Dahrendorf cùng các nhà lý luận khác như Jurgren Habermas và Michael Foulcault; chủ thuyết tương tác biểu trưng của George Mead, Herbert Blumer và các đồng sự. Những thập niên cuối của thế kỷ XX chứng kiến sự hồi sinh mạnh mẽ của
  • 3. này và nhất là chủ thuyết lựa chọn duy lý với sự đóng góp quan trọng của các tác giả như George Homans, Peter Blau và nhiều tác giả khác. Trong lịch sử phát triển lý thuyết xã hội học trên thế giới không thể không kể tới những xu hướng phát triển khác, nhất là các nghiên cứu lý luận của các nhà xã hội học Nga [Liên Xô cũ], các nhà xã hội học Bungari, Đức. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các lý thuyết xã hội học thành một dòng chảy xiết suốt chiều dài lịch sử phát triển xã hội là vấn đề cơ bản có tính triết học của nó. Đó là vấn đề mối quan hệ giữa con người và xã hội. Vấn đề cơ bản của xã hội học cũng có hai mặt, nhưng không phải mặt quyết định luận: cái gì có trước, xã hội hay con người; cũng không phải là mặt nhận thức của nó. Vấn đề là con người tác động tới xã hội như thế nào và xã hội có ảnh hưởng như thế nào tới con người. Trong thế kỷ XIX vấn đề cơ bản có tính chất triết học của xã hội học được diễn đạt bằng những câu hỏi của thời đại, ví dụ, trật tự xã hội, nhất trí xã hội, thống nhất xã hội là gì? Biến đổi xã hội là gì? Và làm thế nào tổ chức được xã hội ổn định, trật tự? Trong thế kỷ XX xã hội học tiếp tục trả lời nhiều câu hỏi cần thiết và quan trọng xoay quanh vấn đề cơ bản này. Đồng thời lý thuyết xã hội học tập trung tìm hiểu để đưa ra câu trả lời mới đối với những câu hỏi như: xã hội tạo thành từ các cá nhân, các nhóm như thế nào? Con người biến đổi xã hội ra sao? Trên cơ sở giải quyết những câu hỏi của thời đại trước, những câu hỏi mới đang xuất hiện. Vấn đề cơ bản của xã hội học thế kỷ XXI có thể diễn đạt thành những câu hỏi, ví dụ mối quan hệ hài hòa giữa con người và xã hội là gì? Quy luật hình thành và vận động của mối quan hệ đó là gì? Làm thế nào tạo ra được mối quan hệ hài hòa đó? Lịch sử cho thấy các lý thuyết xã hội học không những khác nhau ở quê hướng xứ sở - nước này hay nước kia; ở cấp độ phân tích vĩ mô - xã hội hay vi mô - cá nhân hoặc kết hợp cả hai: vĩ mô -vi mô, mà còn khác nhau ở góc nhìn lạc quan - tích cực hay bi quan - tiêu cực và khác nhau cả cách tiếp
  • 4. định lượng và định tính. Nhưng tất cả các lý thuyết xã hội học rất phong phú, đa dạng đó đều cùng hướng vào trả lời câu hỏi: bản chất của mối quan hệ giữa con người và xã hội là gì? Có thể nói, đường xoáy trôn ốc đi lên của tất cả các lý thuyết xã hội học đều xoay quanh một cái trục đối tượng nghiên cứu. Đó là tìm ra các quy luật của sự nảy sinh, vận động, biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa xã hội và con người. Xã hội học với tất cả các lý thuyết, phạm trù, khái niệm và phương pháp của nó đều hướng vào nghiên cứu quy luật, đặc điểm, tính chất, cơ chế, điều kiện hình thành, bộc lộ, biến đổi, phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, nhất là trong thời kỳ hiện đại, đương đại. "Lịch sử & lý thuyết xã hội học" được viết ra nhằm đáp ứng nhu cầu tham khảo tài liệu học tập, giảng dạy và nghiên cứu của bạn đọc quan tâm tới khoa học xã hội và nhân văn. Cuốn sách sẽ giúp ta mở rộng tầm nhìn khoa học, khách quan, biện chứng, nghiêm túc và cởi mở trong việc tiếp thu, đánh giá và vận dụng lý luận khoa học xã hội học vào cuộc sống đang đổi mới hiện nay. Trong cuốn sách này các lý thuyết xã hội học được trình bày thành hai phần. Phần I giới thiệu các quan niệm của một số tác giả tiêu biểu của những thời kỳ dựng xây và phát triển khoa học xã hội học. Phần II trình bày một số chủ thuyết lớn trong xã hội học hiện đại, trong đó nhấn mạnh lý thuyết của một số nhà khoa học nổi tiếng của thời kỳ kế tục và phát triển mới khoa học xã hội học ở thế kỷ XX. Lê Ngọc Hùng Phần I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC Chương I. SỰ RA ĐỜI KHOA HỌC XÃ HỘI HỌC 1. Bối cảnh kinh tế - xã hội Khoa học xã hội học gọi ngắn gọn là xã hội học tất yếu ra đời trong bối cảnh kinh tế - xã hội ở châu Âu thế kỷ XIX, cụ thể là ở Pháp vào nửa đầu thế
  • 5. tất yếu đó bộc lộ ở nhu cầu và sự phát triển chín muồi các điều kiện vật chất và tinh thần, các tiền đề cần thiết cho sự nhận thức đời sống xã hội. Lúc bấy giờ các cuộc cách mạng công nghiệp và thương mại đã làm lung lay tận gốc hệ thống thiết chế kinh tế - xã hội cũ từng tồn tại hàng ngàn năm trước đó ở Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, Italia và các nước khác. Hình thái kinh tế - xã hội kiểu phong kiến bị sụp đổ từng mảng lớn trước sức mạnh bành trướng của lực lượng sản xuất và thị trường hàng hóa công nghiệp của nền đại công nghiệp. Dưới tác động của tự do hóa thương mại, tự do hóa sản xuất và đặc biệt là tự do hóa lao động, hệ thống tổ chức quản lý kinh tế - xã hội theo kiểu truyền thống đã bị thay thế bằng các phương thức tổ chức kinh tế - xã hội hiện đại. Kiểu sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất hiện và phát huy tác dụng. Hình thành và phát triển hệ thống nhà máy, xí nghiệp, tập đoàn kinh tế có khả năng tạo ra khối lượng lớn hàng hóa, thu hút nhiều lao động từ nông thôn ra thành thị, mở rộng hệ thống thị trường nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp. Hoạt động buôn bán và sản xuất được tổ chức lại theo quy mô đại công nghiệp cơ khí lúc đầu đã xuất hiện ở Anh, sau đó ở Pháp, Hà Lan, Đức và các nước khác. Điều đó đã tạo ra những bước đột chuyển trong quá trình biến đổi kinh tế - xã hội ở các nước này. Riêng về mặt kinh tế, chỉ sau khoảng một trăm năm phát triển, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã sản xuất được một khối lượng tổng sản phẩm ước tính bằng tổng khối lượng của cải vật chất do loài người tạo ra trong suốt lịch sử phát triển từ trước cho tới khi xuất hiện chủ nghĩa tư bản. Đại công nghiệp đã sản xuất ra khối lượng khổng lồ hàng hóa với giá rẻ, được Marx và Engels ví như là những viên "trọng pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục". Kết quả là nền tảng kinh tế - xã hội theo lối phong kiến và cùng với nó là chế độ phong kiến, quan hệ xã hội phong kiến châu Âu bị trốc tận gốc và sụp đổ tan tành".
  • 6. tế đã làm thay đổi sâu sắc đời sống chính trị, văn hóa, xã hội. Của cải, đất đai, tư bản không còn tập trung trong tay tầng lớp phong kiến, quý tộc, tăng lữ mà rơi vào tay giai cấp tư sản. Sự phân chia giai cấp, sự phân tầng xã hội và sự phân hóa giàu -nghèo diễn ra trên quy mô rộng lớn với tính chất quyết liệt, sâu sắc. Nền công nghiệp quy mô lớn đã đẩy nhanh quá trình đô thị hóa cùng với sự tích tụ dân cư, phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng. Kỹ thuật, công nghệ và khoa học phát triển nhanh chóng góp phần hình thành và phát triển tầng lớp xã hội mới là những người trí thức, đội ngũ hành chính, quản lý và công nhân kỹ thuật. Sản xuất kiểu công nghiệp với quy mô lớn đòi hỏi phải mở mang buôn bán, giao lưu và thị trường nguyên vật liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa công nghiệp. Từ đó hình thành nên tầng lớp thương nhân, doanh nhân. Sự phân hóa trong lối sống của thành thị và nông thôn diễn ra tốc độ nhanh chóng tỉ lệ thuận với quá trình đô thị hóa. Quan hệ giữa thành thị và nông thôn trở thành quan hệ phụ thuộc. Nông dân bị tách ra khỏi ruộng đất trở thành người làm thuê, người bán sức lao động cho giới chủ tư bản công nghiệp ở thành phố. Việc nông dân rời bỏ cộng đồng làng quê, nông thôn ra thành phố sinh sống đã kéo theo những biến đổi to lớn trong thiết chế gia đình với hệ giá trị, chuẩn mực và cấu trúc đặc trưng cho xã hội truyền thống dựa vào phương thức sản xuất phong kiến. Đời sống cá nhân và gia đình bị xô đẩy, bị xé vụn và bị cuốn hút vào hoạt động kinh tế kiểu thị trường và lối sống cạnh tranh, vụ lợi. Lối sống nông thôn dựa vào kinh tế nông nghiệp, vào quan hệ gia đình, dòng họ bị thay đổi và nhường chỗ cho lối sống thành thị - xuất hiện "chủ nghĩa thành thị" - dựa vào kinh tế công nghiệp và quan hệ chức năng. Các hình thức tổ chức xã hội theo kiểu phong kiến trước đây bị lung lay, xáo trộn và biến đổi mạnh mẽ. Tổ chức và thiết chế tôn giáo, cụ thể là Giáo hội trước kia rất có thế lực nay bị mất dần vai trò và quyền lực thống trị trong đời sống xã hội trước sức ép của hoạt động kinh tế diễn ra sôi động. Việc nhà
  • 7. khỏi nhà nước và nhà trường là một biểu hiện rõ rệt nhất của sự biến đổi xã hội trong lĩnh vực tổ chức đời sống vật chất và tinh thần ở xã hội châu Âu thế kỷ XVIII-XIX. Do đó, luật pháp ngày càng phải tập trung vào việc điều tiết các quá trình kinh tế, các quan hệ lợi ích và quan hệ xã hội mới xuất hiện, chưa từng có trong xã hội phong kiến. Ví dụ, luật pháp trở nên duy lý để thiết chế hóa và điều tiết các quan hệ mua bán sức lao động sao cho có lợi cho chủ tư bản trong việc tìm kiếm lợi nhuận làm giàu và bóc lột công nhân. Ngay cả thiết chế hành chính, tổ chức hành chính, tổ chức xã hội kiểu phong kiến, quân chủ độc đoán, chuyên chế cũng buộc phải thay đổi theo xu thế duy lý, theo hướng thị dân hóa và công dân hóa. Tóm lại, sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ trật tự xã hội phong kiến gây những xáo trộn và biến đổi sâu rộng trong đời sống xã hội. Quan hệ, tương tác và cấu trúc xã hội trở nên phức tạp, mất ổn định gây ra những hệ quả khó lường. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực tiễn phải lập lại trật tự, ổn định xã hội; nảy sinh nhu cầu tìm hiểu, giải thích các hiện tượng, các quá trình kinh tế xã hội và giải quyết các vấn đề của thời kỳ khủng hoảng xã hội lúc bấy giờ. Nói cách khác, xã hội học đã ra đời một cách tất yếu thong bối cảnh kinh tế xã hội châu Âu thế kỷ XIX nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức và nhu cầu thiết lập sự ổn định, trật tự xã hội. 2. Bối cảnh chính trị, văn hóa và tư tưởng Các sự kiện chính trị - xã hội quan trọng nhất góp phần làm thay đổi căn bản thể chế chính trị, trật tự xã hội và các thiết chế xã hội châu Âu thế kỷ XVIII-XIX là các cuộc cách mạng, nhất là Đại cách mạng Pháp năm 1789. Cuộc cách mạng này đã mở đầu cho thời kỳ tan rã chế độ phong kiến, nhà nước quân chủ và thay thế trật tự xã hội cũ bằng một trật tự chính trị xã hội mới với sự thống trị kinh tế và chính trị của giai cấp tư sản. Về mặt văn hóa - tư tưởng, Đại cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII với khẩu hiệu "tự do, bình đẳng, bác ái" đã khơi dậy những biến đổi mang tính cách mạng trong văn hóa, tư tưởng, nhận thức và hành động chính trị của
  • 8. nhân và quần chúng lao động về quyền con người và quyền bình đẳng giai cấp. Cùng với sự biến đổi chính trị có tính chất cách mạng ở Pháp là các biến động chính trị theo con đường "tiến hóa" ở Anh, Đức, Italia và các nước khác. Đặc điểm chung của những thay đổi to lớn trong đời sống chính trị châu Âu lúc bấy giờ là quyền lực chính trị chuyển sang tay giai cấp tư sản và một thiểu số người nắm giữ tư liệu sản xuất. Biến đổi chính trị xã hội đã góp phần củng cố và phát triển chủ nghĩa tư bản. Điều này thể hiện ở việc hình thành những điều kiện có lợi cho tự do buôn bán, tự do sản xuất, tự do cạnh tranh, tự do ngôn luận tư sản và đặc biệt là tự do bóc lột sức lao động công nhân, làm căng thẳng thêm quan hệ mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp thống trị - tư sản và giai cấp bị trị - vô sản. Mâu thuẫn sâu sắc về lợi ích giữa các tầng lớp xã hội và nhất là giữa giai cấp công nhân vô sản và giai cấp tư sản đã lên tới đỉnh điểm làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới vào nửa cuối thế kỷ XIX - Công xã Pari năm 1871, và sau này là cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Các cuộc cách mạng này đã thổi bùng lên ngọn lửa nhiệt tình cách mạng và lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong các tầng lớp tiến bộ xã hội, nhất là giai cấp công nhân, vô sản và các dân tộc bị áp bức trên phạm vi toàn thế giới. Những biến động chính trị xã hội và đặc biệt là cuộc cách mạng Pháp đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử xã hội học như sau: Trước hết, đó là sự kiện xã hội học ra đời lần đầu tiên trên thế giới với tư cách là một khoa học ở nước Pháp - cái nôi của Đại cách mạng Pháp rồi sau đó mới xuất hiện ở các nước Anh, Đức, Italia, Mỹ. Thứ hai, các công trình của các nhà xã hội học người Pháp như Auguste Comte, Emile Durkheim, nhà xã hội học người Anh Herbert Spencer, nhà xã hội học người Đức Georg Simmel, và đặc biệt là những người sáng lập ra chủ nghĩa cộng sản khoa học, lãnh tụ thiên tài và người thầy của giai
  • 9. Karl Marx và Friedrich Engels đều chịu ảnh hưởng của học thuyết xã hội chủ nghĩa Pháp. Thứ ba, những biến động kinh tế - chính trị - văn hóa ở xã hội Pháp đã khiến các nhà xã hội học tiền bối đặt ra những câu hỏi lý luận cơ bản không chỉ đối với xã hội học của Pháp mà của toàn bộ lý luận xã hội học thế kỷ XIX. Đó là vấn đề trật tự xã hội, bình đẳng xã hội và vấn đề làm thế nào phát hiện và sử dụng các quy luật tổ chức xã hội để góp phần tạo dựng, củng cố trật tự xã hội và tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội như vậy, các nhà tư tưởng xã hội, các nhà xã hội học châu Âu thế kỷ XIX đã ra sức tìm hiểu, mô tả, phân tích các quá trình, hiện tượng xã hội để phản ánh và giải thích đầy đủ những biến động chính trị, xã hội đang diễn ra xung quanh họ. Các nhà xã hội học thế kỷ XIX tập trung vào nghiên cứu những vấn đề lớn nảy sinh từ những khủng hoảng, mất ổn định, mất trật tự chính trị xã hội lúc bấy giờ. Một số nhà xã hội học tiến bộ đã chỉ ra con đường và biện pháp để lập lại trật tự và duy trì sự tiến bộ xã hội. 3. Các tiền đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu khoa học Tiền đề lý luận và phương pháp luận làm nảy sinh, phát triển xã hội học có nguồn gốc từ những tiến bộ to lớn mà loài người đã đạt được "từ xưa đến nay", nhất là từ thời kỳ vĩ đại mở đầu bằng thời đại Phục hưng vào nửa cuối thế kỷ XV đến nửa đầu thế kỷ XIX. Về tầm cỡ lịch sử vĩ đại của sự tiến bộ khoa học thời đại này, F. Engels chỉ rõ: "đó là một thời đại cần có những con người khổng lồ và đã sinh ra những con người khổng lồ: khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình và tính cách, khổng lồ về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng". Kết quả là đã hình thành nên các dòng tư tưởng triết học cụ thể là triết học cổ điển Đức, các trào lưu tư tưởng xã hội đặc biệt là chủ nghĩa xã hội Pháp và các lý thuyết kinh tế học và kinh tế chính trị học Anh. Các trào lưu tiến bộ của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, dưới nhiều hình thức và bằng nhiều cách khác nhau đã trở thành tiền đề, nguồn
  • 10. yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống lý luận và phương pháp luận của khoa học xã hội học thế kỷ XIX. Các nhà tư tưởng Anh, nhất là những người theo chủ nghĩa tự do và kinh tế chính trị học Anh thường cổ vũ và bênh vực cho quyền con người nhằm biện minh cho chủ nghĩa tư bản công nghiệp phát triển mạnh nhất ở nước này. Khi nghiên cứu các chế độ kinh tế - xã hội, A.Smith [1723-1790] và D.Ricardo [1772-1823] đã cho rằng các cá nhân phải được tự do thoát khỏi những ràng buộc và hạn chế bên ngoài để tự do cạnh tranh. Có như vậy, các cá nhân mới tạo ra được một xã hội tốt đẹp hơn. Nhìn chung, các quan niệm kinh tế học đã gợi mở ra cách nhìn duy vật biện chứng đối với các vấn đề xã hội đang nảy sinh do nền kinh tế đại công nghiệp đang ngày càng mở rộng, sự phân hóa xã hội ngày càng tăng. Tại Pháp, cái nôi của xã hội học - thời kỳ Phục hưng nửa cuối thế kỷ XV đã mở đầu cho một thời đại duy lý với các tư tưởng khai sáng và chủ nghĩa xã hội của những con người khổng lồ như F. Voltaire [1694-1778], J. Rouseau [1712-1778], D. Diderot [1713-1784], C. H. De Saint-Simon [1760- 1825], C. Fourier [1772-1837] và nhiều người khác. Trong số đó nổi bật lên nhà triết học, nhà xã hội học Auguste Comte [1798-1857], người đã sáng lập ra chủ nghĩa thực chứng và khai sinh khoa học xã hội học. Các nhà triết học và các nhà tư tưởng xã hội Pháp cho rằng con người chủ yếu bị chi phối bởi các điều kiện và hoàn cảnh xã hội. Họ khẳng định rằng con người có những "quyền tự nhiên" nhất định mà các thiết chế xã hội phải tôn trọng và bảo vệ chứ không được phép chà đạp, vi phạm. Từ đó đã hình thành tư tưởng về sự cần thiết phải xóa bỏ sự áp bức và bất công xã hội, phải thay thế trật tự xã hội cũ bằng một trật tự xã hội mới phù hợp hơn với bản chất con người và đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người. Sự biến đổi như vậy cần phải diễn ra một cách hợp lý, hợp pháp, tiến bộ và bằng con đường duy lý, "khai sáng" tư tưởng và nhận thức, thậm chí bằng các cuộc cách mạng. Các tư tưởng tiến bộ, nhân văn, nhân bản, nhân đạo được phản ánh đặc biệt rõ trong cuộc Đại cách mạng Pháp năm 1789.
  • 11. mạnh mẽ của khoa học và đặc biệt là phương pháp luận nghiên cứu khoa học là tiền đề cơ bản, quan trọng cho sự ra đời xã hội học. Các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra ở thế kỷ XVI, XVII và đặc biệt là thế kỷ XVIII đã làm thay đổi căn bản thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Lần đầu tiên trong lịch sử khoa học nhân loại, thế giới hiện thực, nhất là đời sống xã hội của con người được xem như là một thể thống nhất vận động và luôn biến đổi theo quy luật. Các quy luật của xã hội có thể nhận thức được và giải thích được thông qua việc sử dụng và phát triển các khái niệm, phạm trù và phương pháp nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở nhận thức khoa học có thể biến đổi, cải tạo được xã hội. 4. Sự ra đời xã hội học Về mặt chữ nghĩa, "xã hội học" [Sociology] là kết quả của việc ghép chữ "Socius" hay chữ "Societas" nghĩa là xã hội với chữ "Ology" hay "Logos" có nghĩa là học thuyết, là nghiên cứu. Về mặt lịch sử, Auguste Comte được ghi nhận là cha đẻ của xã hội học do đã có công khai sinh ra môn khoa học này vào nửa đầu thế kỷ XIX, cụ thể là năm 1838. Lúc bấy giờ ông dùng thuật ngữ "Xã hội học" để chỉ một lĩnh vực nghiên cứu mới về các quy luật của tổ chức xã hội, học thuyết về xã hội, sự nghiên cứu về xã hội loài người. Nhưng về sau trong quá trình phát triển của mình, xã hội học đã có các quan niệm khác nhau về đối tượng nghiên cứu tương ứng với mỗi thời kỳ lịch sử của nó. Ngay từ buổi bình minh của xã hội học, một số nhà khoa học nhất là Comte đã chủ trương áp dụng mô hình phương pháp luận của khoa học tự nhiên và chủ nghĩa thực chứng vào nghiên cứu các quy luật của sự biến đổi xã hội. Xã hội học sớm nhận thấy sự cần thiết phải sử dụng các phương pháp quan sát, thực nghiệm, so sánh, phân tích lịch sử, trừu tượng hóa, khái quát hóa vào nghiên cứu quy luật tổ chức xã hội. Các khoa học tự nhiên như vật lý học, hóa học, sinh học đã phát hiện ra các "quy luật tự nhiên" để giải thích thế giới. Chủ nghĩa duy lý khoa học xuất hiện và phát huy tác dụng mạnh mẽ đầu tiên trong lĩnh vực nhận thức
  • 12. và sau đó là trong lĩnh vực nghiên cứu xã hội. Thành tựu của khoa học tự nhiên không chỉ là nguồn cổ vũ lớn lao mà còn là kho tàng lý luận và công cụ khoa học sắc bén cho các nhà tư tưởng xã hội, các nhà xã hội học vận dụng để nghiên cứu đối tượng đã được xác định. Xã hội học tìm thấy ở khoa học tự nhiên các quan niệm về cách xây dựng lý thuyết và các mô hình nghiên cứu để áp dụng trong việc tìm hiểu quá trình, hiện tượng xã hội một cách khoa học. Như vậy, ngay từ đầu nhiệm vụ của xã hội học được xác định là phải nghiên cứu thành phần, cấu trúc và quá trình vận động, biến đổi của xã hội. Cùng với việc các hiện tượng, các quá trình xã hội trở thành đối tượng nghiên cứu, xã hội học đã có ngay các phương pháp, công cụ nghiên cứu kế thừa từ các khoa học khác. Cùng với các điều kiện và tiền đề nêu trên, sự nỗ lực hoạt động của các nhà khoa học là hết sức quan trọng để xã hội học ra đời và phát triển mạnh mẽ. Nhiều nhà khoa học xã hội thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX rất quan tâm nghiên cứu các hiện tượng, quá trình xã hội nhằm phát hiện ra các quy luật của tổ chức xã hội, "các quy luật của sự phát triển và tiến bộ xã hội". Nhiều nhà tư tưởng, các nhà lý luận xã hội tiến bộ luôn tin rằng có thể và cần thiết phải coi các quy luật mà khoa học phát hiện được là công cụ lý luận, là ngọn đuốc soi đường xây dựng một xã hội tốt đẹp. Tóm lại, xã hội học đã ra đời với tư cách là một khoa học trong lòng xã hội châu Âu thế kỷ XIX với các điều kiện chín muồi về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội và khoa học. Người tiên phong trên con đường xây dựng một khoa học mới về xã hội là nhà triết học thực chứng người Pháp tên là Auguste Comte - nhà xã hội học đầu tiên trên thế giới. Người đã kế thừa và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất về mặt tư tưởng và nhận thức mà loài người đã tạo ra từ trước cho đến khoảng giữa thế kỷ XIX để đưa ra một học thuyết chính xác, vạn năng cho khoa học xã hội học là Karl Marx và các đồng chí của ông. Những người luôn soi vào Marx và góp phần làm cho xã hội học phát triển thành nhiều cành nhánh lý luận và nhiều chủ thuyết, nhiều trường phái khác nhau là Emile Durkheim, Max Weber và các tác giả khác. Tất cả sự
  • 13. nỗ lực nghiên cứu, tất cả những thành công về mặt lý luận và thực nghiệm và tất cả những thành tựu nổi bật và cả những đóng góp trầm lặng của các nhà khoa học đều tạo thành một dòng chảy bất tận của lịch sử xã hội học bắt đầu từ nửa đầu thế kỷ XIX qua thế kỷ XX sang thế kỷ XXI và sẽ tiếp mãi. Chương II. SỰ THỐNG NHẤT TRONG TÍNH ĐA DẠNG CỦA CÁC LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC 1. Sự thống nhất của các quan niệm khác nhau về xã hội học Đối tượng nghiên cứu của xã hội học Từ xưa đến nay các nhà xã hội học luôn đưa ra câu trả lời khác nhau đối với câu hỏi: Xã hội học nghiên cứu cái gì? Một số tác giả này coi xã hội học là khoa học về hành vi xã hội, một số tác giả khác xem xã hội học là khoa học về hệ thống xã hội. Đến cuối thế kỷ XX, đúng như một số tác giả nhận xét: "định nghĩa ngắn gọn như "xã hội học là khoa học nghiên cứu xã hội loài người và hành vi xã hội" có lẽ khá mơ hồ và chứa đựng ít thông tin [mặc dầu xác đáng], hay không đủ chính xác để phân biệt xã hội học với các ngành khoa học khác như tâm lý học". Nhưng tình hình phong phú, đa dạng, muôn hình, muôn vẻ của các quan niệm về xã hội học phổ biến đến mức không ít tác giả tin rằng, sau hơn một thế kỷ rưỡi phát triển các lý thuyết xã hội học mới chỉ thống nhất với nhau ở một điểm là không có định nghĩa thống nhất về xã hội học. Nhưng một số người lo ngại về điều này. Một số người chưa biết rằng tư tưởng thống nhất trong sự đa dạng của lý luận xã hội học đã được Đại hội xã hội học thế giới lần thứ XII tổ chức tại Madrid, Tây Ban Nha năm 1990 ghi nhận là tư tưởng chủ đạo của sự phát triển xã hội học. Càng ngày càng trở nên rõ ràng một điều là không thể có và cũng không cần thiết có một lý luận chung duy nhất cho xã hội học toàn thế giới. Một điều khác rõ ràng không kém là mãi đến thập niên cuối thế kỷ XX xã hội học mới đạt tới một trình độ phát triển trong đó các lý thuyết xã hội học bình đẳng nhau trong việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu.
  • 14. trong tính đa dạng, phong phú của các lý thuyết xã hội học là linh hồn, là sinh khí, là hơi thở của xã hội trong suốt tiến trình lịch sử của nó. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ, các lý luận, các lý thuyết, các quan niệm xã hội học khác nhau đều tập trung vào giải quyết một vấn đề cơ bản mang tính triết học của nó, đó là mối quan hệ giữa con người và xã hội. Lịch sử lý thuyết xã hội học là lịch sử của các nỗ lực đặt ra những câu hỏi và đưa ra những câu trả lời khoa học về bản chất, về quy luật, về đặc điểm và tính chất của mối quan hệ giữa con người và xã hội. Đến nay có thể định nghĩa như sau: Xã hội học là khoa học nghiên cứu quy luật của sự nảy sinh, biến đổi và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội. Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là các quy luật được phát hiệu, được trình bày, diễn đạt ra dưới các hình thức khác nhau, do vậy mà có các loại lý thuyết xã hội học. Lịch sử xã hội học đã chứng kiến sự xuất hiện khi thì lần lượt khi thì cùng một lúc các quan niệm, các lý thuyết không những khác nhau mà mâu thuẫn, đối lập và đấu tranh với nhau về cách kiến giải nhiều khía cạnh, nhiều mặt của một vấn đề triết học - xã hội học là mối quan hệ giữa con người và xã hội. Lịch sử lý thuyết xã hội học cũng cho thấy, các câu hỏi nan giải và rắc rối về đối tượng nghiên cứu của xã hội học gắn liền với nội dung, phương pháp luận và vị trí của xã hội học trong hệ thống các khoa học. Các quan niệm khác nhau về vấn đề cơ bản có tính triết học của xã hội học Ngay từ lúc mới ra đời của xã hội học đã có phương pháp tiếp cận vĩ mô để xác định đối tượng nghiên cứu của nó. Quan niệm này được củng cố trong sự cạnh tranh từ nhiều phía quan niệm khác nhau. Theo phương pháp tiếp cận vi mô phát triển mạnh vào cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, đối tượng của các lý thuyết xã hội học là hành vi xã hội, hành động xã hội, tương tác xã hội và các quá trình, động thái của nhóm xã hội. Theo cách tiếp cận vĩ mô hồi sinh và chiếm vị trí nổi trội vào giữa thế kỷ XX, xã hội học là khoa học
  • 15. xã hội, về cộng đồng xã hội xác định trong lịch sử. Theo cách tiếp cận "tổng hợp", xã hội học được coi là có nhiệm vụ "bắc cái cầu nối" giữa những hiện tượng vĩ mô - xã hội loài người và những hiện tượng vi mô - hành vi người. Vô số các quan niệm, các định nghĩa về xã hội học trong các sách giáo khoa hiện nay cũng như trước kia đều có thể quy về một trong những cách tiếp cận trên. Các định nghĩa đó thường cho rằng xã hội học nghiên cứu các vấn đề thiên về xã hội [ví dụ xã hội loài người], hoặc các vấn đề thiên về con người [ví dụ hành vi xã hội], hoặc các vấn đề "tổng hợp, tích hợp" cả xã hội và con người. Trong các xu hướng quan niệm này đã xuất hiện mầm mống và tiền đề cho sự định hình ngày một rõ nét quan niệm thứ tư, có thể gọi như vậy, xã hội học nghiên cứu mối quan hệ giữa con người và xã hội. Lịch sử phát triển xã hội học hơn thế kỷ rưỡi qua phản ánh rõ xu thế này. Thực vậy, ngay từ khi mới ra đời, xã hội học châu Âu với các biến thể lý luận vĩ mô và vi mô của nó, chủ yếu được [A. Comte, K.Marx, H.Spencer, E.Durkheim và những người khác] xác định là khoa học về sự phát triển xã hội loài người, về các [hệ thống] xã hội. Xu hướng xã hội học vĩ mô này mạnh đến mức khi "du nhập" vào một số nước khác, đặc biệt là vào Mỹ phát triển mạnh thành lý thuyết hệ thống xã hội [T. Parsons]. Xã hội học châu Âu đã bị phê phán là không chú ý tới cá nhân, tới con người. Trước trào lưu vĩ mô hóa và hệ thống hóa xã hội học, Homans – một đại diện tiêu biểu của dòng xã hội học vi mô [M.Weber, G.Simmel, H.Mead, G.Homans và các tác giả khác] đã đưa ra luận điểm nổi tiếng: "hãy trả lại con người cho xã hội học" [1964]. Nhưng ngay sau đó không bao lâu, trước tình hình "vi mô hóa", "cá nhân hóa" và "hành vi hóa" xã hội học, một số tác giả khác lại đòi "trả lại xã hội cho xã hội học". Có thể hình dung là từ khi ra đời vào nửa đầu thế kỷ XIX cho tới nay, xã hội học luôn ở trong tình cảnh "thân này ví xẻ làm đôi được". Các nhà xã hội học vừa muốn tập trung vào nghiên cứu [ví dụ hành vi, hành động] con người vừa muốn nghiên cứu [ví dụ hệ thống, cấu trúc] xã hội. Nhưng xã hội học tỏ
  • 16. có thể đứng trung lập giữa hai thái cực của những vấn đề đầy hấp dẫn và cần thiết như vậy. Lệch về phía con người, ví dụ tập trung nghiên cứu hành vi xã hội, hành động xã hội của con người, xã hội học bị các ngành khoa học nhân văn, đặc biệt là khoa học tâm lý lấn át. Nghiêng về phía xã hội, chẳng hạn tập trung nghiên cứu về cơ cấu xã hội và quá trình xã hội hay hệ thống xã hội, xã hội học dễ bị triết học, đặc biệt là chủ nghĩa duy vật lịch sử và các ngành khoa học xã hội khác như sử học, kinh tế học trùm lên. Trong khi đó xã hội học khó có thể một mình thâu tóm cả hai, tức là vừa nghiên cứu hành vi con người, vừa nghiên cứu hệ thống xã hội. Vì như vậy xã hội học dễ bị và đã từng bị phê phán là có đối tượng nghiên cứu không rõ ràng, thậm chí bị mất đối tượng nghiên cứu. Cần thấy rằng, con người và xã hội là những khách thể nghiên cứu của rất nhiều khoa học khác nhau, không phải của riêng xã hội học. Do vậy, có thể kết luận rằng, cách định nghĩa xã hội học là khoa học về con người [ví dụ hành vi, hành động xã hội], về xã hội [ví dụ cấu trúc xã hội, hệ thống] hay cả con ngươi và xã hội là chưa xác đáng, chưa thuyết phục về mặt lý luận. Để giải quyết vấn đề đầy tranh cãi này, một số nhà xã hội học nửa cuối thế kỷ XX đưa ra cách tiếp cận "tổng-tích hợp", một số khác lại thiên về cách tiếp cận "trung bình". Thực chất các cách giải quyết này khó có thể đứng trung lập, trung dung giữa "hai dòng" vĩ mô và vi mô. Xét cho cùng những quan niệm đó hoặc lệnh về cách tiếp cận vi mô hoặc lệch về cách tiếp cận vĩ mô. Ví dụ, V. Jadop và G. Osipov cho rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học là quy luật của các hệ thống xã hội, là sự hoạt động của các quy luật "vĩ mô" đó trong hành vi, hoạt động của các cá nhân, nhóm xã hội. Một số tác giả khác nỗ lực tìm cách bắc cầu lý luận để vượt qua cái hố ngăn cách đã bị khoét sâu từ lúc nào không biết giữa cái vĩ mô - ví dụ cấu trúc xã hội và hệ thống xã hội sang cái vi mô - hành vi xã hội và hành động xã hội của cá nhân. Trong số những chiếc cầu được thiết kế cần kể tới: cây cầu thống nhất vi mô - vĩ mô theo chiều sâu [từ ý thức tập thể đến môi trường
  • 17. chiều rộng [từ nhóm hội đến toàn cầu] của George Ritzer; cây cầu đa chiều [chiều hành động công cụ - chuẩn mực và chiều trật tự cá nhân - tập thể] của Jeffrey Alexander; cây cầu cấu trúc hóa của Athony Giddens và nhiều chiếc cầu khác nữa của các tác giả như Rall Collins, James Coleman, Peter Blau và nhiều người khác. Qua đó thấy rằng, tuy có lúc mạnh yếu khác nhau nhưng trong suốt chiều dài lịch sử, các quan niệm xã hội học vĩ mô và xã hội học vi mô luôn sát cánh bên nhau và cạnh tranh ngấm ngầm hoặc công khai với nhau trong việc xác định đối tượng nghiên cứu. Chen vào giữa hai dòng lý thuyết xã hội học này là trào lưu "tổng hợp", lấy mỗi thứ một tí để dung hòa những mâu thuẫn và đưa ra những giải pháp "trung lập" và những lý thuyết "kết nối". Trên thực tế quan niệm khác nhau về đối tượng nghiên cứu của xã hội học đều xem xét và giải quyết những câu hỏi lý luận và phương pháp luận của một vấn đề cơ bản có tính triết học của xã hội học. Đó là vấn đề mối quan hệ giữa con người và xã hội. Các quan niệm, các lý thuyết xã hội học khác nhau theo nhiều kiểu, nhiều cách nhưng đều giống nhau ở chỗ không nghiên cứu gì khác ngoài các thuộc tính đặc điểm và tính chất của mối quan hệ giữa con người và xã hội. Đó là hạt nhân của sự thống nhất bên trong của các lý thuyết đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ thậm chí mâu thuẫn nhau trong lịch sử xã hội học. 2. Tranh luận và thống nhất trong xã hội học Như đã nêu ở trên, xã hội học là khoa học nghiên cứu các quy luật hình thành, vận động và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội. Quan niệm này không đột nhiên xuất hiện hay từ trên trời rơi xuống, trái lại nó được phôi thai trong các ý tưởng đã được nêu lên trong suốt lịch sử phát triển lý thuyết xã hội học. Có thể tìm thấy mầm mống, gốc rễ của quan niệm này trong tư tưởng xã hội học của Marx, Durkheim, Weber, Simmel và nhiều nhà xã hội học khác thế kỷ XIX-XX. Tuy nhiên, định nghĩa này có thể sẽ gây ra cuộc tranh luận khoa học bổ ích và lý thú. Các ý kiến tranh luận khoa học [đã có và có thể có] chủ yếu
  • 18. chủ đề bắt nguồn từ vấn đề cơ bản của xã hội học. Đó là vấn đề con người chịu ảnh hưởng và gây ảnh hưởng trở lại đối với xã hội như thế nào? Đó là vấn đề quan hệ tương tác nhiều chiều, muôn hình muôn vẻ giữa con người và xã hội diễn ra theo quy luật nào, cơ chế nào? Điều đó không có gì lạ, bởi lẽ các nhà nghiên cứu xã hội học từ xưa tới nay không ngừng cạnh tranh với nhau về đối tượng của xã hội học; bởi lẽ các chuyên gia xã hội học khác nhau luôn giải thích khác nhau về vấn đề quan hệ qua lại giữa con người và xã hội; bởi lẽ các nhà xã hội học khác nhau thường không thống nhất với nhau về phương pháp luận nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa con người và xã hội. Nhưng điều ngạc nhiên là ở chỗ rất ít, nếu không muốn nói là chưa có cách định nghĩa xã hội học nào giải đáp ổn thỏa những chủ đề bắt nguồn từ tính "nước đôi", "lưỡng tính" kiểu "nhị nguyên luận" của đối tượng nghiên cứu xã hội học, đó là mối quan hệ qua lại giữa một bên là con người và một bên là xã hội. Tính chất hai mặt của vấn đề cơ bản của xã hội học làm nảy sinh các cặp phạm trù làm chủ đề cho các cuộc tranh luận khoa học kéo dài cho đến nay chưa chấm dứt. Đó là cặp chủ đề như: "con người - xã hội", "cá nhân - văn hóa", "tự nhiên - xã hội", "chủ quan - khách quan, "chủ thể - khách thể", "vĩ mô – vi mô", "định lượng – định tính", "hành động xã hội – cấu trúc xã hội" v.v. Các quan niệm về đối tượng nghiên cứu của xã hội học không chỉ khác nhau, thậm chí còn trái ngược, mâu thuẫn nhau. Từ đó nảy sinh các cuộc tranh luận triền miên trong xã hội học. Điều đó dẫn tới hiện tượng gọi là "khủng hoảng thừa" sự khác nhau và "khủng hoảng thiếu" sự thống nhất trong lý luận xã hội học. Có thể nói, xã hội học không chỉ ra đời trong bối cảnh biến động xã hội thế kỷ XIX để trở thành khoa học về các cuộc khủng hoảng xã hội mà bản thân nó cũng luôn ở trong tình trạng khủng hoảng về lý luận. Trong những thập niên gần cuối thế kỷ XX tình hình tranh luận đó đã dịu đi một phần là do các nhà nghiên cứu có xu hướng chấp nhận một phần
  • 19. "tổng hợp", "tích hợp" kiểu dung hòa và một phần khác là do xu hướng làm lý thuyết cấp trung bình mà Robert Merton đã đề ra. Nhưng thời kỳ êm dịu đó qua đi rất nhanh, ngay sau đó vào những năm cuối của thế kỷ XX xu hướng nghiên cứu lý luận xã hội học lại hồi sinh. Hàng loạt những câu hỏi hóc búa về lý luận đã được nêu lên, ví dụ: lý thuyết là gì? Đặc trưng của xã hội học là gì? Tại sao lý thuyết xã hội học không phát triển nhanh, mạnh như các khoa học tự nhiên? Chuyện gì đang xảy ra với xã hội học? Có phải xã hội học đang bế tắc về lý luận không? Sự quan tâm tới thực trạng lý luận xã hội học lớn đến mức tạp chí "Diễn đàn xã hội học" của Hiệp hội xã hội học phương Đông đã dành trọn một số Tạp chí năm 1994 cho chuyên đề đặc biệt về: "Chuyện bất ổn gì đang xảy ra với xã hội học" để đăng các bài viết khác nhau về vấn đề này. Đồng thời các tạp chí và các ấn phẩm chuyên ngành xã hội học cũng bày tỏ sự chú ý và đưa ra những suy nghĩ góp phần giải quyết tình hình "khủng hoảng" lý luận. Nếu ở các nước phát triển sự khủng hoảng lý luận chủ yếu là do sản xuất thừa - quá nhiều lý thuyết thuộc đủ mọi loại nhất là lý thuyết công tác thì ở những nước mới phát triển xã hội học đang xảy ra khủng hoảng thiếu. Những năm gần đây ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều bài viết nghiêm túc cảnh báo sự thiếu hụt lý thuyết trầm trọng trong nghiên cứu xã hội học và trong đào tạo – giảng dạy xã hội học. Hố ngăn cách giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm, giữa yếu tố lý luận và yếu tố quan sát đang bị khoét sâu và trở nên trầm trọng đòi hỏi phải có sự nâng cấp kịp thời. Bản chất, biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của "chủ nghĩa kinh nghiệm trừu tượng" [Abstracted Empiricism - còn dịch là chủ nghĩa thực nghiệm tách biệt] đã được W.Mills và một số tác giả vạch ra rất rõ ràng. Điều nguy hại nhất đối với thực trạng này là việc biến nghiên cứu thực nghiệm khoa học thành nghiên cứu theo chủ nghĩa kinh nghiệm và tạo ra một thói quen độc đoán có áp lực của một hệ chuẩn mực - quy tắc của phương pháp xã hội học. Có thể thấy rằng, việc xã hội học bán rẻ linh hồn khoa học của mình cho chủ nghĩa kinh nghiệm dưới đủ mọi loại hình thức tất yếu làm tha hóa
  • 20. nó. Đồng thời cách làm xã hội học theo kiểu đào hố ngăn cách với lý thuyết tạo ra những sản phẩm "hao hao khoa học" tất yếu làm xói mòn niềm tin từ phía xã hội đối với bản thân khoa học xã hội học. Định nghĩa nêu trên có khả năng mở hướng thoát ra khỏi sự khủng hoảng đó, thoát khỏi nguy cơ đối tượng nghiên cứu bị "biến mất". Thực vậy, có thể thấy rằng đối tượng nghiên cứu của xã hội học không phải ở chỗ hoặc là nghiên cứu về "con người" hoặc là nghiên cứu về "xã hội" hay nghiên cứu "cả hai: con người và xã hội". Vấn đề xã hội học cơ bản ở đây là nghiên cứu mối quan hệ hữu cơ, sự ảnh hưởng lẫn nhau, quan hệ biện chứng giữa một bên là con người với tư cách là cá nhân, nhóm... và một bên là xã hội với tư cách là hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội... Nói một cách hình ảnh, vấn đề không phải là ở chỗ làm cho con người và xã hội ngày càng xa nhau hay gộp lại, nhập lại làm một, cũng không đơn thuần là "bắc chiếc cầu thực nghiệm" nối hai bên. Vấn đề cơ bản mang tính triết học của các lý thuyết xã hội học là mối quan hệ giữa con người và xã hội. Về mặt lý luận và phương pháp luận, nhiệm vụ của xã hội học hiện nay là: nghiên cứu các quy luật, tính quy luật, thuộc tính, đặc điểm, tính chất, cơ cấu, hình thức, điều kiện của sự hình thành, vận động và phát triển mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và xã hội trong bối cảnh toàn cầu hóa và tri thức hóa nền kinh tế. 3. Một số cặp chủ đề lý luận xã hội học “Con người – Xã hội” Các nhà nghiên cứu cho rằng xã hội không phải là tổng số các cá nhân. Nhưng thật phi lý khi lý thuyết xã hội học bàn về xã hội không có cá nhân. Ngược lại, bản thân các cá nhân đơn độc, riêng lẻ không tạo thành "cái xã hội". Thật khó có thể lý giải hành động của cá nhân nếu không thấy rằng chủ thể của nó luôn chịu ảnh hưởng của người khác, chịu sự tác động từ phía xã hội.
  • 21. quy luật hình thành, vận động và phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội, xã hội học trước hết phải quan tâm tới vấn đề kép "con người - xã hội". Xã hội học cần trả lời các câu hỏi quan trọng như xã hội là gì, con người là gì, nghiên cứu xã hội học về con người, về xã hội là như thế nào; từ đó tiến tới trả lời câu hỏi con người tác động tới xã hội như thế nào và ngược lại xã hội ảnh hưởng ra sao đối với con người. Khi nghiên cứu xã hội hay bàn về khái niệm xã hội, một số lý thuyết xã hội học chỉ tập trung tìm kiếm những kiểu, dạng xã hội đã định hình, những khuôn mẫu của hiện tượng, quá trình xã hội, hay vạch ra cấu trúc bên trong của xã hội; một số lý thuyết khắc họa bối cảnh, tình huống, và các giá trị nảy sinh, biến đổi, phát triển cùng với hoàn cảnh, điều kiện xã hội; một số lý thuyết tập trung vạch ra mâu thuẫn giữa các lực lượng xã hội, những bất bình đẳng giữa các nhóm và cả những cái "không bình thường" trong quá trình tiến triển xã hội. Sự thống nhất của các lý thuyết này là ở chỗ công khai thừa nhận hay ngầm hiểu rằng bản chất của xã hội, "cái xã hội" chỉ có thể nghiên cứu được một cách đầy đủ, toàn diện và hệ thống trong mối quan hệ giữa con người và xã hội. Gắn liền với khái niệm xã hội là khái niệm về bản chất con người. Các lý thuyết xã hội học không quan tâm nhiều lắm tới việc con người vốn là thiện hay ác như một số nhà tư tưởng phương Đông hay phán định. Điều chủ yếu là luận giải xem hành vi con người có lý trí hay không lý trí, có sáng tạo hay không sáng tạo; con người có vị trí, vai trò như thế nào trong xã hội; cá nhân có điều kiện để bộc lộ và phát triển năng lực người tới mức độ nào; con người có khả năng thích nghi và cải tạo hoàn cảnh lịch sử tới đâu. Lý thuyết xã hội học của Marx chủ yếu bàn về sự vận động, phát triển của xã hội nhưng đã chỉ ra phương pháp tiếp cận đúng đắn mối quan hệ "cá nhân - xã hội", "hành động xã hội" - cấu trúc xã hội". Thực vậy, quan điểm duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx tỏ ra đặc biệt ưu việt trong
  • 22. vấn đề triết học của xã hội học. Marx nhấn mạnh rằng bản chất con người trong thực tế là tổng hòa các quan hệ xã hội. Đặc biệt Marx luôn nhấn mạnh mối quan hệ biện chứng giữa con người và xã hội và chỉ ra rằng xã hội tạo ra con người giống hệt như con người tạo ra xã hội. Về mối quan hệ hữu cơ này, Marx viết: "Con người làm ra lịch sử của chính mình, nhưng không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho và do quá khứ để lại". Quan điểm của Marx mở ra khả năng hiện thực trong việc giải quyết hàng loạt những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với xã hội học ở nước ta hiện nay. Trong số đó có những câu hỏi quan trọng như: làm thế nào có thể kết hợp hài hòa lợi ích của cá nhân với lợi ích tập thể, của cộng đồng, của xã hội? Nhưng ở một số nước, phải mãi tới những thập niên cuối của thế kỷ XX, xã hội học mác xít mới thực sự thoát thai từ chủ nghĩa duy vật lịch sử để trở thành khoa học có vị trí xứng đáng trong hệ thống các khoa học xã hội và nhân văn góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội. “Hành động xã hội - cấu trúc xã hội" Đối tượng nghiên cứu của xã hội học - mối quan hệ giữa con người và xã hội - thể hiện đặc biệt rõ qua phân tích cặp vấn đề "hành động xã hội - cấu trúc xã hội". Nói đến hành động xã hội của con người là nói đến động cơ, mục đích, điều kiện, phương tiện thực hiện mục đích đã định. Hành động cũng có thể được xem xét với nghĩa là một quá trình bao gồm các yếu tố chủ quan bên trong như nhu cầu, tình cảm, ý thức và các yếu tố bên ngoài như đối tượng, công cụ, điều kiện, hoàn cảnh. Trong xã hội học, hành động xã hội được định nghĩa là tất cả những hành vi và hoạt động của con người diễn ra trong khung cảnh lịch sử xã hội nhất định, là hành vi có mục đích, có đối tượng, là hành động hướng tới
  • 23. chịu ảnh hưởng của người khác. Khái niệm hành động xã hội là khái niệm cơ bản và quan trọng đến mức nó được coi là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Max Weber từng cho rằng xã hội học là khoa học lý giải hành động xã hội. Vilfredo Pareto quan niệm đối tượng của xã hội học là hành động phi lô gích. Nói đến cấu trúc là nói đến tính hệ thống của một chỉnh thể, là mối liên kết của các bộ phận cấu thành nên một hệ thống. Cấu trúc xã hội còn gọi là cơ cấu xã hội là kiểu cách, là khuôn mẫu, là hình thái của mối quan hệ giữa con người và xã hội. Trong lịch sử xã hội học có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc xã hội. Cũng tương tự như đối với hành động xã hội, cấu trúc xã hội được biểu hiện ra như là phức thể bao gồm các yếu tố vật chất có thể nhìn thấy được, ví dụ như nhóm, tổ chức xã hội và các yếu tố tinh thần khó nhìn thấy như chuẩn mực, giá trị, quyền lực xã hội. Khi mới ra đời ở Pháp, như ta thấy, xã hội học được xác định là "khoa học về xã hội", tức là khoa học nghiên cứu sự hình thành, biến đổi và chức năng của hệ thống xã hội, của cấu trúc xã hội. Auguste Comte cho rằng xã hội học là môn khoa học về tiến trình biến đổi xã hội từ hình thức này sang hình thức khác, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Với chức năng chế ngự và kiểm soát hành động của con người, sự kiện xã hội được Durkheim hiểu như là cấu trúc xã hội. Và ông cho rằng đối tượng của xã hội học là các "sự kiện xã hội". Điều đó có nghĩa là mối quan hệ giữa con người và xã hội được Durkheim xem xét thông qua mối quan hệ giữa cấu trúc xã hội và hành động xã hội, ở đó con người dường như bị xã hội, tức là sự kiện xã hội, kiểm soát, kiềm chế cũng như là được gắn kết với nhau tạo thành xã hội. Trong khi hành động xã hội của con người bị xã hội hóa trên thực tế cũng như trong lý luận, thì bản thân "xã hội" lại bị "tự nhiên hóa" thông qua những khái niệm của sinh vật học. Không ít các lý thuyết xã hội học đã sử dụng tiếp cận sinh vật học và các khái niệm cơ bản như "cơ thể", "tiêu hóa",
  • 24. cơ", "thích nghi". "chọn lọc tự nhiên", "đấu tranh sinh tồn", "tự điều chỉnh" để nghiên cứu xã hội. Thuyết tiến hóa xã hội của Spencer là một ví dụ về cách vận dụng tri thức khoa học tự nhiên [sinh vật học] vào việc giải quyết mối quan hệ giữa cấu trúc xã hội và hành động xã hội của con người. Khi mới xuất hiện và phát triển ở Mỹ, xã hội học vừa tiếp tục truyền thống châu Âu là nghiên cứu hệ thống xã hội, cấu trúc xã hội, vừa tiếp thu truyền thống khoa học hành vi của Mỹ là tập trung nghiên cứu các vấn đề con người - nhu cầu, động cơ, nhân cách và hành vi, hành động xã hội của cá nhân. Dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của chủ nghĩa hành vi và tâm lý học xã hội, một số tác giả quan niệm xã hội học là "khoa học về các cá nhân", là "khoa học về hành vi xã hội". Thậm chí đến cuối thế kỷ XX, một số tác giả, một mặt khẳng định xã hội học là khoa học liên ngành, mặt khác vẫn cho rằng đối tượng nghiên cứu chủ yếu của nó là hành vi người. Tuy nhiên, khi tập trung vào vấn đề của các cá nhân, xã hội học Mỹ không lảng tránh, trái lại tập trung vào nghiên cứu các vấn đề xã hội. Nhưng khác với xã hội học châu Âu lý giải các hiện tượng xã hội từ góc độ hệ thống xã hội, xã hội học Mỹ giải thích các vấn đề xã hội từ góc độ vị thế xã hội của cá nhân theo cách tiếp cận của chủ nghĩa hành vi. Đối với xã hội học châu Âu, vấn đề là nhận thức được quy luật tổ chức và vận hành xã hội. Đối với xã hội học Mỹ, vấn đề là giải thích tại sao, trong khi theo đuổi những lợi ích cá nhân khác nhau, các cá nhân vẫn cùng nhau tạo ra được cấu trúc xã hội trật tự, ổn định. Lý thuyết hệ thống về cấu trúc của hành động xã hội mà Parsons đưa ra [1937] không những là lý thuyết tiêu biểu của trường phái xã hội học chức năng mà còn là một cách tiếp cận có hiệu quả để giải quyết mối quan hệ giữa hành động xã hội và cấu trúc xã hội. Luận điểm cơ bản của Parsons là sự tồn tại của mỗi hệ thống do chức năng của hệ thống đó quy định. Theo Parsons, hệ thống nhân cách là một trong bốn [tiểu] hệ thống [văn hóa, kinh tế, xã hội, nhân cách] của tổng thể hệ thống xã hội. Ngoài khái niệm "nhân cách",
  • 25. nhiều thuật ngữ rất "tâm lý học" như thích ứng, nhu cầu, mục đích để nói về hành động xã hội và các chức năng của hệ thống xã hội. Lý thuyết xã hội [1949] của Robert Merton chú trọng nghiên cứu vấn đề "chủ thể hành động" với nghĩa là con người có khả năng lựa chọn mục đích và phương tiện để đạt được mục đích. Theo ông, hành động người được coi là đúng mực, là "bình thường" khi mục đích và phương tiện thực hiện nó được coi phù hợp với hệ giá trị, chuẩn mực xã hội. Khác đi là sự sai lệch xã hội với mức độ nặng nhẹ, nhiều ít khác nhau. Điều đó càng chứng tỏ hành động xã hội gắn liền với cấu trúc xã hội. Nhận thấy việc coi trọng nghiên cứu xã hội học về hành động xã hội và tương tác xã hội vẫn chưa đủ, George Homans, một đại diện của lý thuyết hành động duy lý, cho rằng cần phải sử dụng triệt để các quy luật và nguyên lý tâm lý học để giải thích hành vi xã hội của con người. Như vậy, từ nửa đầu thế kỷ XIX đến nay trong xã hội học đã xuất hiện nhiều trường phái, xu hướng lý thuyết khác nhau. Nhưng có thể thấy các thuyết xã hội học đều hướng vào nghiên cứu các khía cạnh, các bình diện, các biểu hiện, các hình thức, các cơ chế, các đặc điểm, tính chất của mối quan hệ giữa con người và xã hội. “Vĩ mô - vi mô” - và phương pháp luận xã hội học Khi xác định đối tượng nghiên cứu là các quy luật của cả [hệ thống] xã hội thì xã hội học được gọi là xã hội học vĩ mô. Các lý thuyết của H.Spencer, K.Marx, M.Weber, G.Simmel, T.Parsons và một số người khác chủ yếu dựa vào phân tích xã hội học đối với những hiện tượng diễn ra trong cả hệ thống xã hội, do vậy, thuộc về xã hội học vĩ mô. Chẳng hạn, Spencer coi hệ thống xã hội như là một cơ thể "siêu hữu cơ" gồm các cơ quan, bộ phận thực hiện các chức năng khác nhau nhằm đảm bảo duy trì, "nuôi sống" cơ thể xã hội. Các lý thuyết xã hội học chức năng - cấu trúc sau này cũng dựa vào các luận điểm như vậy. Xã hội là một hệ thống gồm các bộ phận chức năng hoạt động và biến đổi chủ yếu theo quy luật và con đường thích nghi, tiến hóa nhiều hơn là bằng con đường cách mạng.
  • 26. xác định đối tượng nghiên cứu của xã hội học là các hiện tượng của cá nhân, nhóm nhỏ như hành động xã hội và tương tác xã hội thì xã hội học được gọi là xã hội học vi mô. Những lý thuyết xã hội học vi mô là lý thuyết về hành động xã hội, lựa chọn duy lý, trao đổi xã hội và thuyết tương tác tượng trưng, v.v... Các tác giả tiêu biểu của xã hội học vi mô là M. Weber, G.Simmel, H.Mead, E.Goffman. G.Homans, J.Habermas và những người khác. Ví dụ, Mead, một tác giả của thuyết tương tác biểu trưng, cho rằng xã hội được tạo thành từ các cá nhân tương tác với nhau. Homans cho rằng tương tác người và hành động xã hội có thể được giải thích bằng cách quy về hành vi tâm lý hoạt động theo nguyên tắc "thưởng-phạt". Cá nhân có xu hướng lặp lại các hành động mà nhờ đó họ đã được thưởng dưới các hình thức khác nhau. Goffman giải thích rằng các cá nhân hành động giống như các diễn viên đóng vai trên sân khấu. Họ đóng các vai khác nhau nhằm tạo ra ấn tượng và hình ảnh đẹp đẽ về mình ở trong con mắt người khác. Tương tự như chủ đề "cá nhân - xã hội" và "hành động xã hội - cấu trúc xã hội", chủ đề kép "vĩ mô - vi mô" liên quan mật thiết tới vấn đề lý luận và phương pháp. Các nhà xã hội học vĩ mô và xã hội học vi mô phải đương đầu với câu hỏi: xã hội học là xã hội học vi mô hay xã hội học vĩ mô, hay là cả hai? Kinh nghiệm lịch sử cho biết không nên vội vàng trả lời thẳng những câu hỏi này. Trên thực tế, ta rất khó lựa chọn một trong ba phương án trả lời đã có sẵn. Để không bị bế tắc về lý luận và phương pháp nghiên cứu, ta có thể trả lời là việc phân chia xã hội học vĩ mô và xã hội học vi mô chỉ mang tính chất tương đối, ước lệ. Bởi vì đối tượng nghiên cứu của xã hội học là mối quan hệ giữa con người và xã hội chứ không phải hoặc là con người, hoặc là xã hội. Thực vậy, về mặt phương pháp nghiên cứu, các nhà xã hội học vĩ mô gặp phải khó khăn to lớn là những thay đổi ở cấp xã hội, dân tộc, tổ chức thường trải dài theo thời gian và không gian, thường diễn ra rất chậm chập và
  • 27. khó quan sát, khó nắm bắt. Do đó rất khó nghiệm chứng các giả thuyết khoa học rút ra từ các khái niệm, các lý thuyết của xã hội học vĩ mô. Xã hội học vi mô chủ trương nghiên cứu những hiện tượng xã hội trong đời sống thường ngày của các cá nhân và quan hệ, tương tác giữa các cá nhân. Vấn đề nan giải của phương pháp luận xã hội học thuần túy vi mô không chỉ ở chỗ các hiện tượng cá nhân diễn ra rất năng động tinh vi, phức tạp, cũng không phải chỉ ở chỗ các cá nhân cụ thể hành động rất khác nhau. Mà ở chỗ trong nhiều trường hợp dù có nắm chắc đặc điểm của từng cá nhân ta vẫn không thể giải thích được hành vi của họ trong nhóm hay hành vi của nhóm người. Hành vi của cá nhân dường như bị "bàn tay vô hình" sắp đặt. Các nhà xã hội học kinh tế cho rằng "bàn tay vô hình" là cơ chế thị trường có khả năng chi phối hành vi tiêu dùng của khách hàng và quy định hành vi kinh doanh của nhà sản xuất. Các nhà xã hội học cho đó là "bàn tay vô hình" của cấu trúc xã hội, thực chất là của hệ thống các giá trị, các chuẩn mực xã hội, v.v.... Một mặt, xã hội học vi mô rất khó có thể giải thích hành vi xã hội của hàng nghìn hay hàng triệu cá nhân nếu không sử dụng cách tiếp cận vĩ mô. Khi nghiên cứu về dư luận xã hội, về ảnh hưởng của đổi mới kinh tế tới thu nhập và việc làm của người dân thành thị, các chuyên gia phải dựa vào tập hợp mẫu và cách tính "trung bình". Mặt khác, nhiều hành vi diễn ra ở cấp cá nhân nhưng lại có tầm ảnh hưởng ở cấp vĩ mô. Ví dụ, các quyết định và các hành động của các vị anh hùng, các vĩ nhân trong lịch sử hay nhóm các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng sâu rộng tới toàn xã hội. Rõ ràng, các hành động cá nhân, các tương tác giữa các nhà lãnh đạo có ảnh hưởng vượt ra ngoài phạm vi cá nhân, "vi mô" để lại hệ quả nhiều mặt và lâu dài đối với hàng triệu cá nhân và nhiều thế hệ, tức là phạm vi vĩ mô. Không chỉ mối tương tác cá nhân mới diễn ra ở cấp vi mô, mà ngay cả các quá trình của cấu trúc xã hội và thiết chế xã hội cũng diễn ra ở cấp vi mô. Ví dụ, có thể quan sát thấy những thay đổi trong chính sách kinh tế, xã hội của nhà nước ở hoạt động kinh tế của các nhà doanh nghiệp. Bản thân các tổ
  • 28. cũng có thể được phân tích với tư cách là chủ thể xã hội có nhu cầu, mục đích và các nguồn lực để hành động nhằm mục tiêu, kế hoạch đã xác định. Các nhà nghiên cứu có xu hướng kết hợp cả hai cấp phân tích vĩ mô và vi mô. Việc đặt xã hội học vĩ mô đối lập xã hội học vi mô đang lùi vào dĩ vãng. Trong những thập kỷ gần đây, một số nhà nghiên cứu như Pierre Bourdieu, James Coleman, Jon Elster đã cố gắng đưa ra những giải pháp theo hướng "tích hợp" đặt cầu nối xã hội học vĩ mô với xã hội học vi mô. Chẳng hạn, có tác giả nói tới cấp nghiên cứu "trung gian" giữa vĩ mô và vi mô. Đó là việc phân tích theo nhóm, theo tập hợp mẫu và nghiên cứu tình huống hoặc thiết kế những công cụ tinh tế, sắc bén để thu thập thông tin từ cá nhân có thể hiểu được nhóm, xã hội, v.v... Nhưng ngay cả khi sử dụng cấp phân tích trung gian là nhóm thì vẫn còn khó khăn phải giải quyết. Thứ nhất, các hiện tượng, quá trình của nhóm không đơn thuần do hành vi của mỗi cá nhân gộp lại, cộng lại. Thứ hai, so với cá nhân thì nhóm vẫn là vĩ mô. Việc xác định và thực hiện "bước nhảy vọt" từ hành vi cá nhân sang hành vi nhóm, hành vi người sang hành vi xã hội là một nhiệm vụ lý luận và phương pháp luận. Có thể và cần phải tìm ra cơ chế chuyển đổi, "quá độ" cấp phân tích từ "vĩ mô" sang "vi mô", từ nhóm sang cá nhân trong mối quan hệ giữa con người và xã hội. Thuyết "cấu trúc hóa" của nhà xã hội học người Anh Athony Giddens là một ví dụ về sự nỗ lực nghiên cứu theo hướng tìm kiếm quá trình định hình và tái tạo cấu trúc xã hội thông qua hành động xã hội của các cá nhân. Tóm lại, thực chất của các cuộc tranh luận khoa học về các cặp chủ đề "con người - xã hội", "hành động xã hội - cấu trúc xã hội" và "vĩ mô - vi mô" đều xoay quanh cái trục vấn đề triết học - xã hội học: mối quan hệ giữa con người và xã hội. Các câu hỏi nghiên cứu lý luận và thực nghiệm xã hội học còn đang bỏ ngỏ, ví dụ là: hành động có mục đích, có ý thức, có đối tượng của con người tác động như thế nào tới xã hội nói chung và cơ cấu xã hội nói
  • 29. điều kiện xã hội có ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động thực tiễn và hành động của con người? 4. Vấn đề phân kỳ lịch sử phát triển xã hội học Các giai đoạn phát triển của xã hội học Cùng với vấn đề xác định đối tượng nghiên cứu là vấn đề phân chia các giai đoạn phát triển của xã hội học. Câu hỏi đặt ra là: cho đến nay, xã hội học đã trải qua những thời kỳ phát triển nào? Câu trả lời không đơn giản, trái lại rất phức tạp. Mặc dù, giống như mọi khoa học khác, bối cảnh lịch sử kinh tế chính trị - xã hội luôn chi phối sự phát triển của xã hội học, nhưng rất khó có thể chỉ dựa vào đặc điểm bên ngoài sự phát triển của bản thân khoa học để phân kỳ lịch sử của nó. Lịch sử xã hội học không phải một cái gì đó đứng im, xám ngắt, tẻ nhạt mà như một "cây đời mãi mãi xanh tươi". Có thể phân biệt một số giai đoạn phát triển chủ yếu của xã hội học như sau: Giai đoạn thứ nhất: xã hội học vừa mới ra đời và ngay lập tức phải đấu tranh vì quyền sống của nó với tư cách là một khoa học có vị trí độc lập như mọi khoa học khác. Thời kỳ này bắt đầu bằng sự kiện A. Comte đóng vai trò là "bà đỡ" cho xã hội học ra đời ở Pháp. Giai đoạn này kéo dài cho đến khi xảy ra hàng loạt các sự kiện quan trọng, nổi bật. Đó là việc G.Simmel đưa môn xã hội học vào giảng dạy ở một trường đại học của Đức [1885], A. Small đề nghị thành lập Khoa xã hội học đầu tiên trên thế giới ở trường Đại học tổng hợp Chicago của Mỹ [1892], E.Durkheim chính thức đưa môn xã hội học vào giảng dạy trong trường đại học của Pháp [1895] và cho ra đời Tạp chí Năm xã hội học [Année Sociologique] [1896]. Về niên đại, thời kỳ này bắt đầu từ những năm 1830-1840 – khi Comte xuất bản bộ sách về triết học thực chứng, trong đó có bàn về xã hội học và kết thúc vào thập niên cuối thế kỷ XIX khi một số trường đại học trên thế giới thành lập khoa xã hội học. Có thể xác định chính xác hơn điểm bắt đầu thời
  • 30. là năm 1838 – năm Comte khai sinh ra một lĩnh vực khoa học mới và đặt tên nó là xã hội học. Có thể coi điểm kết thúc thời kỳ này là những năm cuối thế kỷ XIX, trong đó năm 1892 là năm thành lập Khoa Xã hội học đầu tiên trên thế giới tại trường Đại học tổng hợp Chicago theo sáng kiến của Albion Small [1854- 1926]. Small cùng với George Vincent là những tác giả của cuốn sách giáo khoa đầu tiên về xã hội học xuất bản năm 1894. Như vậy, những chỉ báo quan trọng kết thúc thời kỳ thứ nhất là sự xuất hiện khoa xã hội học, tạp chí xã hội học, sách giáo khoa xã hội học và đội ngũ các nhà xã hội học làm công tác nghiên cứu - giảng dạy xã hội học trong các trường Đại học tổng hợp và các viện nghiên cứu. Giai đoạn thứ hai: xã hội học khẳng định vị trí và vai trò của nó trong xã hội và trong hệ thống tri thức khoa học của loài người. Đặc trưng cơ bản của giai đoạn này là xã hội học sống cuộc sống riêng của nó và phát huy được tác dụng đối với đời sống xã hội của con người. Trong thời kỳ này xã hội học phát triển thành nhiều chủ thuyết, trường phái lý thuyết khác nhau trên khắp thế giới nhất là ở Mỹ và một số nước châu Âu. Đặc biệt trong thời kỳ này xã hội học chuyển mạnh sang hướng nghiên cứu thực nghiệm về "các vấn đề xã hội" do các nhà xã hội học được đào tạo chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực và từ nhiều nơi khác nhau thực hiện. Xã hội học được đưa vào giảng dạy trong nhiều trường đại học trên thế giới. Tri thức và phương pháp xã hội học được sử dụng trong nhiều tổ chức kinh tế - xã hội, viện nghiên cứu, hiệp hội nghề nghiệp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Đặc biệt đội ngũ các nhà xã hội học, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu và các nhà hoạt động chuyên nghiệp xã hội học ngày một lớn mạnh. Giai đoạn này bắt đầu vào thời điểm kết thúc giai đoạn trước tức là vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ. Giai đoạn thứ hai có thể được phân chia thành một số thời kỳ khác nhau. Ví dụ lấy mốc Thế chiến thứ hai ta có giai đoạn trước chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh.
  • 31. thúc giai đoạn thứ hai chưa được xác định chính xác nhưng có thể thấy là vào những thập niên cuối của thế kỷ XX xuất hiện những dấu hiệu, những mầm mống, những tiền đề của một giai đoạn phát triển mới của xã hội học. Giai đoạn thứ ba: xã hội học đi vào cuộc sống. Đó là thời kỳ xã hội học, giống như các khoa học khác, trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Những sự kiện quan trọng đánh dấu bước chuyển đổi sang giai đoạn này là việc vận dụng ngày càng có hiệu quả tri thức khoa học xã hội học vào việc đánh giá, đo lường và đề ra các biện pháp cải thiện đời sống. Cùng với các chỉ báo kinh tế đã xuất hiện những chỉ báo kinh tế - xã hội như HDI [Human Development Index - chỉ số phát triển người], HPI [Human Poverty Index - chỉ số người nghèo] và GDI [Gender Development Index – chỉ số phát triển giới]. Trong đội ngũ những cán bộ của chương trình, dự án kinh tế xã hội và trong các tổ chức cơ quan các cấp, các ngành đã xuất hiện các nhà xã hội học đảm nhiệm các cương vị, các chuyên môn khác nhau. Tóm lại, cùng với các khoa học khác, xã hội học bắt đầu trở thành một bộ phận của lực lượng sản xuất trực tiếp. Phân vùng lịch sử phát triển xã hội học Có thể xem xét lịch sử phát triển của xã hội học trên phạm vi từng khu vực địa lý - chính trị - văn hóa. Cụ thể, xã hội học phát triển thành những dòng lịch sử đặc trưng cho từng điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà nó ra đời và trưởng thành. Nói một cách khác, câu chuyện lịch sử của xã hội học có thể được kể lại bằng ngôn ngữ và với cách thức của từng nơi khác nhau với các nhân vật cụ thể của mỗi nơi. Theo cách tiếp cận địa - chính trị - văn hóa này ta có thể tìm hiểu lịch sử của từng nền xã hội học như sau: Thứ nhất là lịch sử xã hội học Pháp bắt đầu bằng các công trình nghiên cứu của A. Comte và E. Durkheim cho đến các công trình của các nhà xã hội
  • 32. nay trong đó quan trọng nhất phải kể đến P. Bourdieu và một số người khác. Thứ hai là lịch sử xã hội học Đức với những tác phẩm nền móng của các nhà xã hội học vĩ đại Karl Marx, M. Weber, G. Simmel và các nghiên cứu của các tác giả khác, trong số đó có J. Habermas. Thứ ba là lịch sử xã hội học Anh với lý thuyết xã hội học tiến hóa của H. Spencer, hình học xã hội và lý thuyết "cấu trúc hóa" của A. Giddens và nhiều tác giả khác. Thứ tư là lịch sử xã hội học Mỹ với lý thuyết tương tác biểu trưng của H.Mead và các đồng sự, thuyết hệ thống xã hội - hành động xã hội của T.Parsons và R.Merton, thuyết trao đổi xã hội của G.Homans và P.Blau và nhiều lý thuyết khác. Ngoài các dòng lý thuyết xã hội học nảy sinh và phát triển những nước nêu trên cần phải kể tới lịch sử các nền xã hội học của các nước công nghiệp phát triển khác, các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển. Đặc biệt cần tính đến lịch sử phát triển nền xã hội học mác xít ở những nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xã hội học mác xít lấy học thuyết Marx làm cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu. Phân kỳ nhiệm vụ lịch sử của xã hội học Một cách phân kỳ đặc trưng của lịch sử khoa học là dựa vào sự xuất hiện những nhiệm vụ lý luận có tính thời đại mà nó phải giải quyết. Sự phát triển xã hội học là quá trình vận động bên trong của nó với sự xuất hiện, biến đổi bộ máy khái niệm và phương pháp luận nghiên cứu xã hội học tương ứng với những nhiệm vụ đặt ra. Trên cái trục quan hệ giữa con người và xã hội xuyên suốt lịch sử xã hội học ta có thể thấy một số cột mốc lớn đánh dấu từng chặng đường mà xã hội học đã trải qua. Mỗi chặng đường đó đặc trưng bởi một số nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản. Do đó, căn cứ vào nhiệm vụ lý luận, câu hỏi nghiên cứu của từng thời đại ta có thể phân kỳ lịch sử xã hội học như sau:
  • 33. nhất: xã hội học tập trung trả lời câu hỏi trật tự xã hội là gì, biến đổi xã hội là gì? Thời kỳ này xã hội học chủ yếu dựa vào cách tiếp cận vĩ mô với những phạm trù cơ bản như "hệ thống xã hội", thiết chế xã hội", "cấu trúc xã hội". Phương pháp nghiên cứu của thời kỳ này chủ yếu đang ở dạng hình thành, tìm tòi và thử nghiệm trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận của khoa học tự nhiên và phương pháp trừu tượng hóa, khái quát hóa. Thời kỳ này diễn ra chủ yếu vào cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Thời kỳ thứ hai: xã hội học tập trung trả lời câu hỏi về hành động xã hội của cá nhân. Nhiệm vụ của xã hội học là tìm hiểu xem bằng cách nào mà mỗi cá nhân khi theo đuổi mục đích riêng của mình nhưng vẫn cùng nhau tạo thành một cái gì đó chung gọi là "xã hội"? Các lý thuyết và các phạm trù cơ bản của thời kỳ này là "cấu trúc hành động", "tương tác biểu trưng", "trao đổi xã hội", v.v. Xã hội học thời kỳ này chủ yếu dựa vào phương pháp tiếp cận vi mô - nghiên cứu đời sống xã hội của cá nhân và nhóm. Thời kỳ này chủ yếu diễn ra vào khoảng giữa thế kỷ XX. Thời kỳ thứ ba: xã hội học tập trung vào trả lời câu hỏi về cơ chế liên hệ, quan hệ giữa cá nhân, nhóm, tổ chức và cộng đồng xã hội. Một số lý thuyết xã hội học đã ra đời trên cơ sở vận dụng phương pháp tiếp cận "cầu nối" vi mô - vĩ mô, phương pháp tổng -tích hợp để nghiên cứu cả con người và xã hội. Các lý thuyết hậu cấu trúc, hậu chức năng, hậu hiện đại, lý thuyết giới đã ra đời trong thời kỳ này. Đặc biệt là những nỗ lực liên kết vĩ mô - vi mô, cấu trúc và hành động thể hiện qua những lý thuyết như lý thuyết "cấu trúc hóa" của A. Giddens. Thời kỳ này chủ yếu diễn ra trong những thập niên cuối thế kỷ XX. Hiện nay đã xuất hiện các cơ sở và các tiền đề lý luận và phương pháp luận để có thể giải quyết những nhiệm vụ mới đặt ra trong tình hình mới. Trong số đó nổi bật lên các câu hỏi như: đặc điểm và tính chất của mối quan hệ hài hòa giữa con người và xã hội là gì? Mối quan hệ hài hòa đó nảy sinh, hình thành và diễn biến như thế nào trong xu thế toàn cầu hóa? Tuy nhiên,
  • 34. phần lớn các câu hỏi này như vừa mới được nêu lên, đang bỏ ngỏ với biết bao các cơ hội và thách thức đang đặt ra. Việc phân chia các thời kỳ, các giai đoạn lịch sử hay cách xem xét từng nền xã hội học trên thế giới cũng như từng vòng khâu của sự phát triển xã hội học như nêu trên chỉ mang ý nghĩa tương đối. Mỗi một lý thuyết xã hội học chỉ ra đời trong một bối cảnh lịch sử xã hội nhất định. Nhưng một lý thuyết có thể sống trong một hay nhiều thời đại. Trong mỗi giai đoạn lịch sử có thể xuất hiện nhiều lý thuyết xã hội học khác nhau, thậm chí đối lập với nhau, đan xen, xâm nhập vào nhau, tiếp biến lẫn nhau. Một nhà xã hội học có thể đưa ra một số quan niệm, một số lý thuyết thuộc các trường phái, chủ thuyết khác nhau. Do vậy, điều quan trọng khi bàn về lịch sử xã hội học trên thế giới là thấy được sự thống nhất trong tính đa dạng, phong phú của các quan niệm, các lý thuyết xã hội học. Sự thống nhất này không phải là kết quả của trò chơi chữ như cách nói: tất cả các nhà lý luận xã hội học đều nhất trí với nhau là không có lý thuyết chung. Hạt nhân của sự thống nhất các nhà xã hội học là vấn đề cơ bản mang tính triết học của xã hội học. Mỗi lý thuyết, mỗi quan niệm phản ánh mỗi biểu hiện khác nhau, mỗi đặc điểm, mỗi tính chất khác nhau của mối quan hệ giữa con người và xã hội trong mỗi loại tình huống lịch sử cụ thể. Tóm lại, gắn liền với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của loài người, lịch sử xã hội học là lịch sử của sự cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau giữa các lý thuyết xã hội học trong việc đặt ra các câu hỏi nghiên cứu về sự nảy sinh, biến đổi, phát triển mối quan hệ giữa con người và xã hội. Cách giải đáp những câu hỏi đó đã phân chia các lý thuyết, quan niệm xã hội học thành nhiều trường phái, chủ thuyết xã hội học khác nhau. Ví dụ: chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa chức năng, chủ nghĩa hành vi, thuyết mâu thuẫn, thuyết tương tác biểu trưng, thuyết hành động xã hội, thuyết sinh thái - xã hội, thuyết lựa chọn hợp lý và nhiều thuyết khác.
  • 35. những thập kỷ qua, lý thuyết giới nổi lên như là một hướng nghiên cứu có tính cách mạng trong khoa học xã hội và phương pháp luận tiếp cận các vấn đề xã hội. Đối tượng nghiên cứu của khoa học về giới là sự nảy sinh, vận động và biến đổi mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới trong xã hội. Các lý thuyết giới rõ ràng là hướng phát triển quan trọng của lý luận xã hội học về mối quan hệ giữa con người và xã hội. Sự khác nhau về phương pháp tiếp cận vấn đề cơ bản của xã hội học là căn cứ phân biệt các lý thuyết thành nhóm xã hội học vĩ mô và xã hội học vi mô, xã hội học định lượng và xã hội học định tính, thành xã hội học mác xít và xã hội học phi mác xít, xã hội học phương Tây và xã hội học phương Đông, v.v. Lịch sử phát triển của xã hội học càng sản sinh ra nhiều lý thuyết và phương pháp khoa học bao nhiêu thì càng chứng tỏ nó có khả năng bấy nhiêu trong việc đi sâu tìm hiểu bản chất mối quan hệ giữa con người và xã hội trong quá trình nảy sinh, vận động và phát triển không ngừng. Chương III. XÃ HỘI HỌC AUGUSTE COMTE [1798-1857] Xã hội học là khoa học về các quy luật của tổ chức xã hội - A. Comte 1. Sơ lược tiểu sử Auguste Comte [1798-1857], tên đầy đủ là Isidore Auguste Marie Francois - Xavier Compte, nhà lý thuyết xã hội, nhà triết học thực chứng người Pháp là người khai sinh Xã hội học [Sociologie]. August Comte sinh năm 1798 trong một gia đình Giatô giáo theo xu hướng quân chủ, nhưng ông sớm trở thành một người có tư tưởng tự do và cách mạng. Năm 1814 ông vào học ở trường Đại học Bách khoa. Năm 1817, làm thư ký cho Saint Simon [1760-1825]. Năm 1826 ông bắt đầu giảng giáo trình triết học thực chứng. Ông mất năm 1857. Auguste Comte đã từng học y học, sinh lý học, triết học ở trường Bách khoa và sau này là người sáng lập ra Hiệp hội thực chứng luận. Comte chịu ảnh hưởng của triết học ánh sáng [Phục hưng] và chứng kiến các biến động
  • 36. hội, các cuộc cách mạng công nghiệp và cuộc xung đột giữa khoa học và tôn giáo ở Pháp. Công trình nghiên cứu cơ bản của Auguste Comte là Triết học thực chứng [The Positive Philosophy] gồm nhiều tập xuất bản năm 1830-1842, và Hệ thống chính trị học thực chứng [System of Positive Polity] xuất bản năm 1851 - 1854. 2. Quan niệm về xã hội học và cơ cấu bộ môn xã hội học Tư tưởng xã hội học của Auguste Comte chịu ảnh hưởng của khoa học tự nhiên như vật lý học, sinh vật học. Điều này thể hiện ở quan niệm của Comte về đối tượng nghiên cứu xã hội học cũng như về cách phân loại xã hội học. Theo ông, xã hội học là khoa học về xã hội với các bộ phận cấu thành và các quá trình của nó. Vận dụng mô hình nhận thức của khoa học tự nhiên, Comte gọi xã hội học bằng một tên khác là vật lý học xã hội [Social Physics]. Xã hội học bao gồm hai bộ phận cơ bản là: Tĩnh học xã hội [Social Statics] chuyên nghiên cứu thành phần và cấu trúc xã hội của hệ thống xã hội loài người. Động học xã hội [Social Dynamics] chuyên nghiên cứu các quá trình vận động, biến đổi xã hội để tìm ra các quy luật xã hội. Tĩnh học xã hội và các yếu tố cấu thành xã hội Comte định nghĩa tĩnh học xã hội là một bộ phận xã hội học nghiên cứu trật tự xã hội, cấu trúc xã hội, các thành phần và các mối liên hệ của chúng, tức là tất tả những yếu tố có thể coi là ổn định, "tĩnh" của xã hội. Lúc đầu, Comte nghiên cứu các cá nhân với tư cách là những thành phần hay đơn vị cấu thành của cấu trúc xã hội. Khi phân tích như vậy, ông xem cá nhân với tư cách là một tập hợp, một hệ thống gồm: [1] các năng lực và nhu cầu đã có sẵn, bên trong cá nhân, và [2] các nhu cầu, năng lực tiếp thu được từ bên ngoài qua quá trình cá nhân tham gia vào xã hội, tức là qua quá trình xã hội hóa.
  • 37. niệm xã hội học của Comte thay đổi theo hướng coi cá nhân không phải là "đơn vị xã hội đích thực" của cấu trúc xã hội. Thay vào đó, ông tập trung vào tìm hiểu thiết chế xã hội. Ông cho rằng, việc nghiên cứu về cá nhân thuộc về lĩnh vực sinh vật học chứ không phải lĩnh vực khoa học xã hội; nghiên cứu xã hội học chủ yếu nhằm vào phân tích các "đơn vị xã hội", cụ thể là các thiết chế xã hội, các tổ chức xã hội. Đơn vị xã hội cơ bản nhất, sơ đẳng nhất có mặt trong tất cả các kiểu, các loại xã hội là "gia đình". Khi phân tích gia đình với tư cách là thiết chế xã hội cơ bản, Comte chủ yếu nghiên cứu thành phần và cấu trúc của gia đình, sự phân công lao động nam nữ trong gia đình và quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt là quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Nhưng các nghiên cứu của Comte về gia đình mang tính sơ lược và thiếu đầy đủ, nhất là so với các công trình nghiên cứu của Marx, Engels và một số tác giả khác ở cuối thế kỷ XIX. Điều thực sự có ý nghĩa về lý luận xã hội học là ở quan niệm của Comte về cấu trúc xã hội. Theo Comte, cấu trúc xã hội với tư cách là một hệ thống bao giờ cũng được tạo nên từ các cấu trúc xã hội khác nhỏ hơn, đơn giản hơn gọi là tiểu cấu trúc xã hội. Do đó, hiểu được cấu trúc xã hội có nghĩa là nắm bắt được các đặc điểm, các thuộc tính và các mối liên hệ của các tiểu cấu trúc xã hội. Tĩnh học xã hội tập trung vào nghiên cứu được cấu trúc xã hội của các thiết chế xã hội như gia đình, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật và tổ chức xã hội. Comte đã phân tích cấu trúc xã hội của xã hội và cho rằng nó phát triển theo con đường tiến hóa từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Sự phát triển của xã hội biểu hiện qua sự phân hóa, đa dạng hóa và chuyên môn hóa chức năng, cũng như mức độ liên kết giữa các tiểu cấu trúc xã hội. Comte đã đặt ra những câu hỏi nghiên cứu cơ bản, xuyên suốt toàn bộ xã hội học Pháp thế kỷ XIX. Đó là: Trật tự xã hội là gì? Làm thế nào thiết lập và duy vì được trật tự xã hội? Làm thế nào duy trì được mối liên kết giữa các

Chủ Đề