Các yếu tố ảnh hưởng đến nghiên cứu khoa học

Files in This Item:

Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI VIỆN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC    VƯU THỊ THÙY TRANG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ Tp.Hồ Chí Minh, 2012ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI VIỆN ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC VƯU THỊ THÙY TRANG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA – ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Đo lường và Đánh giá trong giáo dục (Chuyên ngành đào tạo thí điểm) LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ PHƯƠNG ANH Tp.Hồ Chí Minh, 2012 Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 3 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 7 1. Lý do chọn đề tài: 7 2. Mục đích nghiên cứu: 9 3. Phạm vi nghiên cứu: 9 4. Phương pháp nghiên cứu: 9 5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: 10 Chương 1: TỔNG QUAN 11 1.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước: 11 1.2. Tổng quan các nghiên cứu ngoài nước: 13 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 17 2.1. Khái niệm: 17 2.2. Khung lý thuyết của đề tài: 22 2.3. Mô hình lý thuyết của đề tài: 26 Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 28 3.1. Các bước thực hiện nghiên cứu: 28 3.2. Thực hiện nghiên cứu: 29 3.3. Xây dựng thang đo: 31 3.4. Thiết kế nghiên cứu định lượng: 35 Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 37 4.1. Mẫu khảo sát: 37 4.2. Kiểm định thang đo: 38 4.3. So sánh mức độ đánh giá của giảng viên về các yếu tố theo thành quả nghiên cứu: 46 4.4. Đánh giá của giảng viên về các yếu tố theo lĩnh vực nghiên cứu: 52 4.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu: 53 KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 57  Khuyến nghị: 57  Kết luận: 59  Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo: 60 TÀI LIỆU THAM KHẢO 61 PHỤ LỤC 63 Phụ lục 1: NỘI DUNG PHỎNG VẤN GẢNG VIÊN 63 Phụ lục 2: BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ PHỎNG VẤN 64 Phụ lục 3: PHIẾU KHẢO SÁT 69 Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 4 Phụ lục 4: CÁC BẢNG PHÂN TÍCH DỮ LIỆU 72 Phụ luc 5: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH NHÂN TỐ TỔNG HỢP 76 Phụ lục 6: KẾT QUẢ KIỂM ĐỊNH ĐỘ TIN CẬY CỦA CÁC THANG ĐO 78 Phụ lục 7: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ANOVA PHÂN NHÓM THEO THÀNH QUẢ NGHIÊN CỨU 82 Phụ lục 8: KẾT QUẢ PHÂN TÍCH ANOVA – PHÂN NHÓM THEO LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU 91 DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1 – Kết quả nghiên cứu định tính 28 Bảng 3.2 – Thang đo Thái độ đối với việc thực hiện nghiên cứu 30 Bảng 3.3 – Thang đo các biến nằm ngoài tầm kiểm soát 30 Bảng 3.4 – Thang đo Nhận thức về kiểm soát hành vi nghiên cứu 31 Bảng 3.5 – Thang đo thành tích nghiên cứu 32 Bảng 3.6 – Cấu trúc bảng hỏi………………………………………………… 33 Bảng 4.1 – Mẫu khảo sát………………………………………………. 36 Bảng 4.2 – Kết quả EFA thang đo Thái độ đối với nghiên cứu khoa học 37 Bảng 4.3 – Kết quả EFA thang đo các ràng buộc xã hội 38 Bảng 4.4 – Kết quả EFA thang đo Nhận thức về kiểm soát hành vi nghiên cứu 39 Bảng 4.5 – Kết quả KMO & Bartlett’s Test 40 Bảng 4.6 – Kết quả phân tích nhân tố tổng hợp 40 Bảng 4.7 – Bảng thống kê mô tả các biến trong mô hình 41 Bảng 4.8 – Kết quả phân tích ANOVA theo nhóm thành tích nghiên cứu (thành tích nghiên cứu được hiểu là tổng số bài báo trong nước và quốc tế) … …… 45 Bảng 4.9 – Kết quả phân tích ANOVA (thành tích nghiên cứu được hiểu là tổng số bài báo trong nước) 47 Bảng 4.10 - Kết quả phân tích ANOVA (thành tích nghiên cứu được hiểu là tổng số bài báo quốc tế) … 48 Bảng 4.11 – Kết quả phân tích ANOVA theo lĩnh vực nghiên cứu 49 Bảng 5.1 – Tổng hợp các kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động NCKH 54 Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 5 DANH MỤC HÌNH Hình 2.1 Mô hình Lý thuyết hành vi hoạch định TPB 22 Hình 2.2 Mô hình nghiên cứu đề nghị 24 Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 6 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Diễn giải CBGD Cán bộ giảng dạy CGCN Chuyển giao công nghệ ĐHQG-HCM Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh GV Giảng viên NCKH Nghiên cứu khoa học Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 7 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Cùng với xu hướng hội nhập và phát triển của đất nước ngày càng sâu rộng với thế giới, giáo dục đại học cũng đang đứng trước những thời cơ và thách thức không nhỏ. Chúng ta có nhiều cơ hội để tiếp cận với những thành tựu trong lĩnh vực giáo dục của các nước trên thế giới và đó cũng là thách thức đòi hỏi giáo dục Việt Nam phải đổi mới để đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của xã hội và quá trình hội nhập. Trong những năm gần đây, giáo dục Việt Nam luôn đưa ra các mục tiêu phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới, đã có nhiều trường đại học xây mới và các chính sách nhằm phát triển một số trường đại học đẳng cấp quốc tế. Theo hệ thống xếp hạng trường đại học trên thế giới, hai hệ thống được nhiều người biết đến nhất là Bảng xếp hạng học thuật các trường đại học trên thế giới (tiếng Anh là Academic Ranking of World Universities, viết tắt là ARWU) của Viện Giáo dục đại học thuộc trường Đại học Giao thông Thượng Hải (tiếng Anh là Shanghai Jiao Tong University, viết tắt là SJTU) và bảng xếp hạng các trường đại học quốc tế của THES. Cả 2 hệ thống này đều có đặt vấn đề về chỉ số nghiên cứu khoa học. Một trường đại học phải có các công trình nghiên cứu công bố trên tạp chí quốc tế có uy tính, được nhiều người trích dẫn. Theo giải pháp chiến lược giáo dục đại học Việt Nam: “Tổ chức một số trường đại học theo định hướng nghiên cứu. Đến năm 2020 có khoảng 30 trường đại học theo định hướng nghiên cứu cơ bản. Tăng cường găn kết giữa nghiên cứu khoa học với nhu cầu xã hội thông qua việc hình thành các liên kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với các doanh nghiệp. Nguồn thu từ các hoạt động khoa học công nghệ sẽ chiếm giữ một tỉ lệ quan trọng trong tổng nguồn thu của một cơ sở giáo dục đại học, đạt 20% vào năm 2020”. Như vậy, một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của trường đại học là hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học. Từ đó vấn đề được đặt ra là đội ngũ giảng viên của nhà trường phải thực sự đủ mạnh, là những người có năng lực chuyên môn tốt để giúp nhà Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 8 trường nâng cao chất lượng đào tạo. Một học viện được xếp vào hàng các trường đại học mạnh về nghiên cứu khoa học thường được cho rằng có chất lượng chương trình, ban giảng huấn và sinh viên tốt (Hu & Gill, 2000). Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Văn Phong thì hoạt động khoa học công nghệ là một trong những lĩnh vực quan trọng của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt trong giai đoạn quan trọng, có tính bước ngoặc của dân tộc. Những năm qua, đội ngũ tham gia nghiên cứu khoa học khá đông đảo, chất lượng khá đảm bảo. Tuy nhiên, so với nhịp độ phát triển nhanh như hiện nay, lực lượng làm công tác khoa học tuy đông nhưng vẫn chưa đủ. Đội ngũ làm công tác khoa học chưa được thống kê và chăm lo, thúc đẩy phát triển như mong muốn. Muốn đưa được khoa học công nghệ vào cuộc sống, tác động vào nên kinh tế, đây phải là lực lượng quan trọng, là chủ thể và trung tâm của công tác nghiên cứu khoa học. Trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM là trường đại học thuộc khối ngành kỹ thuật. Mục tiêu của nhà trường là “trở thành một trong các trường hàng đầu của cả nước theo định hướng nghiên cứu, ngang tầm các trường đại học tiên tiến trong khu vực Châu Á ở các mặt: Môi trường làm việc, học tập và nghiên cứu; Chương trình và chất lượng đào tạo, hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ”. Do đó, hoạt động nghiên cứu khoa học luôn là mục tiêu quan trọng của nhà trường trong quá trình phát triển. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nhà trường cần khuyến khích các giảng viên tham gia thực hiện nhiều công trình NCKH có giá trị. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hoạt động nghiên cứu khoa học của trường còn nhiều bất cập. Theo kết quả tự đánh giá của nhà trường thì tiêu chuẩn về Nghiên cứu khoa học được đánh giá là thấp so với các tiêu chuẩn khác. B́nh quân số bài đăng tạp chí trong nước và ngoài nước trên giảng viên cơ hữu trong 5 năm gần đây khoảng 1,27. Một trong những tồn tại mà nhà trường đưa ra đó là giảng viên của nhà trường chưa thật sự chú trọng công tác nghiên cứu khoa học. Đó cũng là thực trạng chung đối với các trường đại học tại Việt Nam. Việc thực hiện nghiên cứu khoa học còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 9 bản thân người nghiên cứu là yếu tố quan trọng nhất để có thể có một công trình nghiên cứu khoa học tốt. Vì vậy, việc tìm ra nguyên nhân thúc đẩy các cá nhân này trong việc nghiên cứu khoa học là rất cần thiết. Đề tài nghiên cứu “các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh” được thực hiện nhằm tìm ra các yếu tố tác động đến giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học và đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học của nhà trường. 2. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giảng viên trường đại học Bách Khoa – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện nghiên cứu khoa học, thông qua đó so sánh đánh giá của giảng viên giữa các nhóm ngành khoa học khác nhau, giảng viên giữa các nhóm có nâng suất nghiên cứu khác nhau; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến công tác nghiên cứu khoa học tại trường. 3. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu này tiến hành khảo sát các giảng viên đang giảng dạy ở các lĩnh vực khoa học: cơ bản, kỹ thuật và quản lý tại trường đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM. 4. Phương pháp nghiên cứu: 4.1. Câu hỏi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu sẽ giúp trả lời cho các câu hỏi sau: (1) Các yếu tố nào ảnh hưởng đến giảng viên Trường Đại học Bách Khoa TP.HCM thực hiện nghiên cứu khoa học ? (2) Có hay không sự khác biệt về đánh giá của giảng viên giữa các nhóm ngành khoa học cơ bản, khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý ? (3) Có hay không sự khác biệt về đánh giá của giảng viên giữa các nhóm có thành quả nghiên cứu khoa học khác nhau ? 4.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành thông qua nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức. Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện bằng phương pháp định tính thông qua Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 10 phương pháp phỏng vấn sâu với 6 giảng viên và phương pháp phỏng vấn chuyên gia để điều chỉnh các thuật ngữ trong thang đo. Nghiên cứu chính thức được thực hiện bằng phương pháp định lượng thông qua phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi với các giảng viên có trình độ tiến sĩ trở lên tại 6 Khoa của trường. Các dữ liệu được thu thập, mã hóa và thực hiện các thống kê dựa trên phần mềm SPSS. Kiểm định thang đo sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá, hệ số tin cậy Cronbach alpha. Thực hiện phân tích ANOVA gồm: phân tích phương sai 1 yếu tố (One – way ANOVA), thực hiện phân tích sâu ANOVA (Post Hoc). 5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu: Khách thể nghiên cứu: Do thời gian có hạn nên nghiên cứu chỉ tập trung vào xem xét ý kiến của các giảng viên có học vị tiến sĩ đang giảng dạy tại trường Đại học Bách Khoa – ĐHQG-HCM. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giảng viên nghiên cứu khoa học. Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 11 Chương 1: TỔNG QUAN Chương này tác giả sẽ trình bày các công trình nghiên cứu, bài báo, hội nghị/hội thảo, các nhận định của chuyên gia về các vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn. Để có thể khuyến khích cán bộ giảng dạy tích cực tham gia vào hoạt động NCKH cần phải nhận biết các nhân tố tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện nghiên cứu. Các nhân tố này có thể là nhân tố bên ngoài như thu nhập, thăng tiến, học hàm , cũng có thể là các yếu tố ảnh hưởng từ bên trong mỗi cá nhân như sự yêu thích nghiên cứu, sự tò mò muốn tìm hiểu tri thức mới, nhu cầu được sự tôn trọng, ngưỡng mộ từ sinh viên, đồng nghiệp. Cho đến nay, tại Việt Nam rất ít các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Trên thế giới đã có một số nghiên cứu liên quan như: Behymer (1974), Finkelstein (1984) đã khẳng định tác động của các yếu tố bên ngoài và bên trong đến năng suất nghiên cứu trong các khoa giảng dạy, Bulter và Cantrell (1991) đã chứng minh tác động của 6 yếu tố bên ngoài đến việc thực hiện NCKH, hay Chen, Gupta và Hoshower (2006) cũng đã công bố nghiên cứu của mình về những yếu tố thúc đẩy đến từ môi trường bên ngoài và từ bên trong cá nhân trong việc thực hiện nghiên cứu khoa học. 1.1. Tổng quan các nghiên cứu trong nước: Nguyễn Thúy Nga (2005) đã thực hiện nghiên cứu “Nghiên cứu khoa học trong giảng viên nhằm nâng cao chất lượng dạy và học”. Mục đích nghiên cứu nhằm khảo sát ý kiến của giảng viên về các vấn đề liên quan đến nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Ða số các giảng viên đều cho rằng việc nghiên cứu khoa học có tác động đến giảng viên: 10/16 ý kiến cho là nhiều và rất nhiều cho câu hỏi Việc nghiên cứu khoa học có tác động như thế nào đến quá trình giảng dạy? 62.5% giáo viên trả lời rằng chúng ta rất cần phải nghiên cứu tìm hiểu về sinh viên và việc học tập của họ trong quá trình giảng dạy. 47.5% đồng ý ở mức độ cần. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu, các giảng viên có thực sự có kinh nghiệm đối với việc nghiên cứu hay không? Bảng thống kê cho chúng ta thấy rằng có đến hơn 60% giáo viên đã từng nghiên cứu khoa học ở nhiều hình thức Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 12 nghiên cứu khác nhau như bài nghiên cứu, các bài khóa luận và đặc biệt là luận văn trong khi họ học chương trình thạc sĩ. Con số 62.5 % đã từng nghiên cứu phù hợp với con số 62.5% giảng viên có bằng Thạc sĩ. Có thể nhận thấy là hầu hết các giảng viên làm quen và tiến hành nghiên cứu trong quá trình học tập của chính họ và do yêu cầu của chương trình học tập. Trong thực tế, hầu như rất ít giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học sau khi họ hoàn tất chương trình học. Bài nghiên cứu đã tiến hành khảo sát các nguyên nhân cho việc công tác nghiên cứu hiện nay chưa được tập trung chú ý và đã nhận được các ý kiến phản hồi như sau: 68 % giáo viên cho rằng nguyên nhân chính của việc họ ít/không tham gia nghiên cứu khoa học là do không có thời gian. Tại hội thảo “Giải pháp tạo động lực cho giảng viên ĐH tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH) và chuyển giao công nghệ” do Bộ GD& ĐT tổ chức 2010. Tại hội thảo các chuyên gia cho rằng hoạt động NCKH chưa gắn kết chặt chẽ với đào tạo, đặc biệt là đào tạo tiến sỹ. Hoạt động chuyển giao kết quả nghiên cứu phục vụ sản xuất và đời sống chưa được đẩy mạnh. Ông Lê Minh Tiến (ĐH Mở TPHCM), cho rằng nguồn thu nhập chính yếu của các giảng viên ĐH hiện nay đến từ việc giảng dạy trong khi đó NCKH vừa tốn nhiều thời gian, công sức, trong khi thu nhập lại ít ỏi. Thực tế, nhiều giảng viên dạy vượt quá 200%-300% số giờ quy định để tăng thêm thu nhập. Như vậy, không có động lực tài chính từ việc NCKH nên giảng viên “lười” NCKH cũng là điều dễ hiểu. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, để tạo động lực cho giảng viên NCKH, các trường nên quy định nghiên cứu khoa học như một hoạt động bắt buộc đối với giảng viên. Bên cạnh đó, nhà trường cũng cần thường xuyên cử giảng viên dự các hội nghị nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước. Theo GS. Đào Trọng Thi: “Phải thay đổi cách nghĩ, cách làm thì nghiên cứu khoa học trong trường ĐH mới có được chất lượng. Ở Việt Nam, công tác quản lý rất yếu. Khi xét duyệt đề tài, không chỉ xem dự toán có đúng yêu cầu không mà còn cần phải tính chi trả nhân công một cách xứng đáng. Từ trước tới nay, ta vẫn coi cán bộ như là người ăn lương nên khi duyệt kinh phí cho đề tài, chỉ tính đến phần mua cơ sở vật chất, thiết bị. Cán bộ không được trả công thì người ta phải lấy lẹm vào phần mua nguyên vật liệu, vào phần Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 13 thực địa khảo sát, thậm chí phải trả tiền thuê sinh viên làm thêm, cứ thế thì nghiên cứu khoa học làm sao có chất lượng được”. Giảng viên và công tác nghiên cứu khoa học: Giảng viên trường đại học ngoài nhiệm vụ giảng dạy còn phải tham gia nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên việc trong quá trình giảng dạy phải luôn tiếp cận với kiến thức mới để cập nhật vào bài giảng và sử dụng phương pháp giảng dạy mới. Điều đó yêu cầu một giảng viên đại học thực thụ phải là một chuyên gia về một chuyên ngành nhất định. Do đó, giảng viên đại học bắt buộc phải tham gia công việc nghiên cứu khoa học, vận dụng những kiến thức mới mẻ vào hoạt động thực tiễn, đồng thời có nhiệm vụ hướng dẫn, tổ chức sinh viên trong những hoạt động nghiên cứu khoa học, xem đó là một trong những nhiệm vụ chính của mình. Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Hoàng Văn Phong thì hoạt động khoa học công nghệ là một trong những lĩnh vực quan trọng của bất kỳ quốc gia nào, đặc biệt trong giai đoạn quan trọng, có tính bước ngoặc của dân tộc. Những năm qua, đội ngũ tham gia nghiên cứu khoa học khá đông đảo, chất lượng khá đảm bảo. Tuy nhiên, so với nhịp độ phát triển nhanh như hiện nay, lực lượng làm công tác khoa học tuy đông nhưng vẫn chưa đủ. Đội ngũ làm công tác khoa học chưa được thống kê và chăm lo, thúc đẩy phát triển như mong muốn. Muốn đưa được khoa học công nghệ vào cuộc sống, tác động vào nên kinh tế, đây phải là lực lượng quan trọng, là chủ thể và trung tâm của công tác nghiên cứu khoa học. Tại Việt Nam các công trình nghiên cứu về vấn đề động lực thúc đẩy giảng viên thực hiện nghiên cứu khoa học trong trường đại học còn rất hạn chế. Chủ yếu là tổ chức các hội thảo/hội nghị để bàn luận về vấn đề này. 1.2. Tổng quan các nghiên cứu ngoài nước: Nghiên cứu của Blackburn & Lawrence (1995) đã nghiên cứu và đưa ra mô hình về động cơ, sự mong đợi và sự thỏa mãn trong công việc của các giảng viên. Nền tảng lý thuyết của nghiên cứu này là các lý thuyết về nhu cầu, thuyết về các giai đoạn của cuộc đời (life-stage theory), thuyết xã hội hoá và thuyết tăng cường; mẫu được khảo sát từ học viện Carnegie (Carnegie Foundation) năm 1987. Thành phần mô hình được liên kết với Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 14 nhau tạo thành mô hình các yếu tố động viên đến từ nhận thức (cognitive motivation framework). Kết quả nghiên cứu đã tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nghiên cứu, cụ thể: 1) Các biến nhân khẩu – xã hội học (socio-demographic variables) như: giới tính, chủng tộc, tuổi tác. 2) Các biến liên quan đến chuyên môn nghề nghiệp (professional career variables) như: trường đào tạo, thành tích nghiên cứu, tuổi nghề, cấp bậc trong sự nghiệp 3) Môi trường làm việc (enviromental variables): văn hóa nghiên cứu tại nơi làm việc, kinh phí cho nghiên cứu, vị trí địa lí, hệ thống khen thưởng, hệ thống đánh giá năng lực làm việc của khoa, viện đối với cá nhân. 4) Các biến cố không thể kiểm soát (social contingencies): bao gồm các biến cố xảy ra với từng cá nhân như sinh con, vợ/chồng bị bệnh, các xung đột trong gia đình, Nghiên cứu của Sax và ctg (2002) khảo sát mức độ ảnh hưởng của giới tính và các yếu tố thuộc nhóm các ảnh hưởng từ gia đình đến năng suất nghiên cứu. Mô hình nghiên cứu đề xuất 5 nhóm yếu tố tác động đến năng suất nghiên cứu, bao gồm: 1/ Các biến nhân khẩu học; 2/ Đặc điểm của nơi công tác (loại hình viện nghiên cứu, loại hợp đồng kí kết với cơ quan ); 3/ Đặc điểm cá nhân (như học hàm, lương bổng, định hướng nghiên cứu, stress trong công việc); 4/ Lĩnh vực nghiên cứu (tuỳ theo cách phân loại, các lĩnh vực nghiên cứu được chia thành 3 cặp: hard/ soft, cơ bản/ ứng dụng, life/ nonlife); 5/ Nhóm yếu tố liên quan đến gia đình, bao gồm tình trạng hôn nhân, con cái, tress ở nhà, áp lực tài chính, thời gian dành cho việc nhà, chăm sóc con cái… Với 8544 phản hồi từ các giảng viên toàn thời gian tại 57 trường đại học trên toàn Hoa Kỳ, kết quả hồi quy đa biến cho thấy các biến liên quan đến tình trạng gia đình có tác động không đáng kể, 2 nhóm yếu tố có tác động mạnh nhất là nhóm về đặc điểm môi trường làm việc và đặc điểm của cá nhân (như cấp bậc/ học hàm, Lương bổng, Định hướng/ Thái độ đối với nghiên cứu, Sự mong mỏi có sự công nhận từ người khác). Nghiên cứu của Chen, Gupta & Hoshower (2006) đã thực hiện nghiên cứu về các yếu tố chính thúc đẩy các giảng viên khoa kinh doanh thực hiện nghiên cứu khoa học. Với 670 bảng câu hỏi gởi đến 10 trường Đại học, 320 giảng viên đã phản Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 15 hồi lại và cho ra kết quả như sau: các giảng viên đánh giá cao phần thưởng có giá trị cả về vật chất và tinh thần đều có năng suất nghiên cứu cao hơn nhóm còn lại. Qua phân tích dữ liệu thu thập được, nghiên cứu của Chen, Gupta & Hoshower (2006) đã cho các kết quả sau: Các giảng viên chưa vào biên chế (untenured) được động viên nhiều hơn bởi các phần thưởng có giá trị vật chất, thể hiện ra bên ngoài (extrinsic awards). Các giảng viên biên chế (tenured) thì lại được động viên nhiều bởi các phần thưởng mang giá trị tinh thần (ví dụ như thoả mãn sự ham học hỏi, sự tò mò về kiến thức mới, hài lòng vì những cống hiến của mình cho nền khoa học ). Năng suất nghiên cứu có tương quan dương với tình trạng hợp đồng với trường đại học (giảng viên được kí hợp đồng dài hạn với trường có năng suất cao hơn), tỉ lệ % thời gian dành cho nghiên cứu trên tổng thời gian làm việc (tỉ lệ % dành cho nghiên cứu càng cao thì năng suất càng cao), nhưng lại có tương quan âm với số năm làm việc trong lĩnh vực giáo dục. Không có tương quan giữa năng suất nghiên cứu với lĩnh vực mà giảng viên đang làm việc. Không có mối liên hệ giữa năng suất nghiên cứu và giới tính. Như vậy, trong nghiên cứu này, Chen, Gupta & Hoshower (2006) đã tìm ra được các yếu tố bên trong và các ảnh hưởng từ xã hội bên ngoài đến động cơ thực hiện nghiên cứu. Tuy nhiên, nghiên cứu không có bước kiểm chứng từ động cơ đến hành vi, trong khi trong thực tế các ý định muốn trở thành hành vi phải có thêm các điều kiện thuận lợi. Các yếu tố về môi trường làm việc, năng lực, nguồn lực để thực hiện nghiên cứu đều được bỏ qua, xem như các giảng viên đều có điều kiện, năng lực như nhau để thực hiện nghiên cứu. Nghiên cứu của Azad & Seyyed (2007), áp dụng khung lý thuyết được xây dựng bởi Blackburn & Lawrence (1995), qua phân tích dữ liệu từ 233 hồi đáp bằng cách so sánh giữa 2 nhóm: nhóm có năng suất nghiên cứu cao và có năng suất nghiên cứu thấp đã đưa ra các nhóm yếu tố ảnh hưởng đến năng suất nghiên cứu tại các nước GCC (các tiểu vương quốc Ả Rập) như sau: 1/ Nhóm các biến nhân khẩu học; 2/ Nhóm các biến về Sự tự biết mình và năng lực cá nhân (Self-knowledge & individual competencies) thể hiện các động cơ dẫn đến việc thực hiện nghiên cứu, các quan niệm của cá nhân về ý nghĩa của việc thực hiện nghiên Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 16 cứu đối với bản thân và việc đánh giá về các năng lực của bản thân để có thể thực hiện nghiên cứu; 3/ Nhóm yếu tố về môi trường làm việc (work environment) thể hiện về những kỳ vọng, quy định của nơi làm việc, các điều kiện cơ sở vật chất, hỗ trợ về nguồn lực từ nơi làm việc để có thể thực hiện nghiên cứu; 4/ Các mối quan tâm khác ngoài xã hội mà bản thân không thể kiểm soát (social contingencies), bao gồm các biến cố xảy ra với riêng từng cá nhân. Tóm lại, qua các nghiên cứu trên, có thể thấy lý thuyết nền tảng được sử dụng là các lý thuyết động viên – chủ yếu là thuyết mong đợi (Expectancy Theory), giải thích các yếu tố tạo nên động cơ thực hiện nghiên cứu của các giảng viên, nghiên cứu viên tại các trường, viện nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy sự ảnh hưởng của các nhóm yếu tố môi trường bên ngoài (các thuận lợi hay khó khăn đến từ cơ chế quản lý, cơ sở vật chất, sự hỗ trợ về nguồn lực, nhân lực); các nguyên nhân đến từ bên trong cá nhân (về năng lực, thái độ, quan niệm về hành vi mình sẽ thực hiện, hay nói cụ thể là việc thực hiện nghiên cứu); ngoài ra, các nhóm yếu tố về nhân khẩu học và các mối quan tâm, ràng buộc bên ngoài xã hội cũng có nhiều ảnh hưởng đến việc thực hiện nghiên cứu của các giảng viên, nghiên cứu viên. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu trình bày ở trên chỉ mới dừng ở mức “các yếu tố thúc đẩy tạo thành động cơ”, và giả định rằng từ động cơ sẽ cho ra hành động thực tế, điều này để thể hiện qua việc áp dụng các lý thuyết động viên. Việc giả định này chưa chính xác vì từ động cơ, muốn dẫn đến hành vi cần phải qua một quá trình; và phải có hội đủ một số điều kiện cụ thể thì động cơ mới có thể được chuyển thành hành vi; như Thuyết TPB đã phát biểu: ý định dẫn đến hành vi của con người được dự báo bởi: thái độ đối với hành vi, chuẩn chủ quan và cảm nhận về kiểm soát hành vi; các ý định đó cùng với nhận thức về kiểm soát hành vi giải thích cho các hành vi khác nhau đáng kể trong thực tế. Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 17 Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Khái niệm: Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu là quá trình có hệ thống thu thập và phân tích thông tin để tăng sự hiểu biết của chúng ta về hiện tượng này được nghiên cứu. Đây là chức năng của nhà nghiên cứu đóng góp vào sự hiểu biết về hiện tượng này và để truyền đạt sự hiểu biết cho người khác. Ngoài ra, gần giống với nghiên cứu, giải quyết vấn đề (problem solving) cũng dựa trên các phương pháp thử và sai, quy nạp, diễn dịch để tìm ra giải pháp cho một vấn đề nào đó. Tuy nhiên, các giải pháp này được dựa trên nền các thông tin và kiến thức khoa học có sẵn để đưa ra giải pháp cụ thể cho một vấn đề cụ thể trong thực tiễn. Hay nói cách khác, giải quyết vấn đề là khi chúng ta đã có đủ mọi thông tin, và việc chúng ta phải làm là tìm ra mối liên hệ giữa các thông tin đã có. Nghiên cứu khác với giải quyết vấn đề ở điểm: nghiên cứu là tìm ra những thông tin mà người khác chưa tìm thấy. Nghiên cứu khoa học là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức,… đạt được từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Tóm lại, nghiên cứu khoa học là quá trình áp dụng các ý tưởng, phương pháp và chuẩn mực khoa học để tạo ra kiến thức mới nhằm mô tả, giải thích hoặc dự đoán các sự việc hay hiện tượng (Cooper & Schindler, 2006). Phân loại nghiên cứu: Nghiên cứu được phân chia thành 2 loại: Nghiên cứu cơ bản (basic research, pure research, fundamental research): đây là các nghiên cứu nhằm tìm ra những tri thức khoa học làm nền tảng cho các nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu ứng dụng khác (theo định nghĩa của wikipedia). Một nghiên cứu cơ bản đạt tiêu chuẩn là một nghiên cứu tìm ra được tri thức mới và Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 18 có ý nghĩa, đóng góp được vào kho tàng tri thức chung của nhân loại. Chính vì vậy, yêu cầu cơ bản nhất của nghiên cứu cơ bản là việc công bố quốc tế, nghĩa là kết quả nghiên cứu phải được kiểm định và công bố trên các tạp chí khoa học trong nước hoặc quốc tế và hội nghị quốc tế có uy tín (Hồ Tú Bảo, 2008) . Nghiên cứu ứng dụng (applied research): đây là các nghiên cứu nhằm tìm ra các tri thức khoa học để giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tế. Do vậy, các kết quả của nghiên cứu thông thường chỉ phù hợp với các đặc tính tự nhiên, địa lí, xã hội của các vùng khác nhau và không hoàn toàn mới trong kho tàng trí thức của nhân loại. Vì thế, tính cấp thiết hay cần thiết của nghiên cứu được nhấn mạnh hơn cả. Tính chất của công việc nghiên cứu: Là quá trình áp dụng các ý tưởng, phương pháp và chuẩn mực để tạo ra kiến thức mới nhằm mô tả, giải thích hoặc dự đoán các sự việc hay hiện tượng, công việc nghiên cứu có các đặc điểm sau (Dolhenty, 2003, http://www.radicalacademy.com/essayscience3.htm): Tính khách quan: các ý kiến và nhận định chủ quan của cá nhân không được ảnh hưởng đến quá trình và kết quả nghiên cứu. Sự chính xác: các thuật ngữ phải được định nghĩa chính xác, các khái niệm được giải thích rõ ràng và sử dụng nhất quán, kết luận đưa ra phải chính xác. Các kết quả phải được kiểm định và tự điều chỉnh. Sản phẩm của hoạt động nghiên cứu: Sản phẩm chính của hoạt động nghiên cứu là kiến thức mới. Các kiến thức đó sẽ được sử dụng theo 2 cách: Làm lý thuyết nền tảng cho các nghiên cứu sau. Ứng dụng các kiến thức đó vào hoạt động sản xuất, xã hội góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Cụ thể, các sản phẩm của hoạt động nghiên cứu được thể hiện thông qua: Các báo cáo nghiên cứu, bài báo công bố trên tạp chí khoa học có uy tín, báo cáo tại hội nghị chuyên ngành, các bài báo cáo này thực hiện việc truyền bá kiến thức mới tạo ra từ hoạt động nghiên cứu đến cho toàn xã hội nói chung và giới khoa học- kỹ thuật nói riêng, từ đó, các biện pháp cải tiến, ứng dụng được triển khai để phục vụ cho sản xuất, xã hội. Các bằng sáng chế (patent) và bản quyền trong và ngoài nước. Sách (ấn phẩm khoa học). Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 19 Hoạt động nghiên cứu đối với tổ chức (trường đại học hay viện nghiên cứu): Hoạt động của một trường đại học hay viện nghiên cứu bao gồm: giảng dạy, nghiên cứu và thực hiện các tư vấn có hàm lượng tri thức cao. Trong đó, đối với trường đại học thì hoạt động nghiên cứu hàn lâm được xem như là một hoạt động chính (Long và ctg, 1998), và nhiệm vụ đối với viện nghiên cứu là tìm ra tri thức mới hay ứng dụng tri thức tạo ra từ nghiên cứu để áp dụng cải tiến công nghệ tạo hiệu quả trong đời sống và sản xuất. Nghiên cứu đối với cá nhân: Đối với giảng viên trường đại học, ngoài nhiệm vụ giảng dạy thì nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ quan trọng mà giảng viên phải thực hiện. Vì đối với công việc giảng dạy đòi hỏi giảng viên không ngừng nâng cao kiến thức, cập nhật tri thức mới và giảng viên phải thực sự là chuyên gia về một chuyên ngành nhất định. Điều này chỉ có thể hình thành qua thực tiễn nghiên cứu và triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu. Ngoài việc thực hiện nghiên cứu là một trách nhiệm, nghĩa vụ phải thực hiện với trường và xã hội, một cá nhân khi đã chọn con đường trở thành giảng viên đại học có nghĩa là cá nhân đó phải có niềm đam mê mãnh liệt với nghiên cứu, đam mê với việc tìm kiếm, sáng tạo ra tri thức mới và mong muốn được truyền đạt các tri thức, kinh nghiệm đến cho sinh viên, đội ngũ trí thức tương lai. Như vậy, một cá nhân thực hiện nghiên cứu không phải chỉ vì đó là những quy định bắt buộc tại nơi làm việc hay tiêu chuẩn cơ bản để được thăng tiến, vì học hàm, học vị, mà còn vì các lí do cá nhân như niềm say mê khám phá, sự hiếu kỳ với kiến thức mới, lòng mong mỏi được đóng góp và kho tàng tri thức của nhân loại Thành quả (nâng suất) nghiên cứu khoa học: Năng suất là thước đo hiệu quả hoạt động của một quá trình sản xuất, là tỉ lệ giữa sản phầm đầu ra và các nguyên liệu đầu vào, hoặc được tính bằng mức tiêu thụ trong cùng một thời gian (Witzel, 1999). Vì sản phẩm của việc nghiên cứu khoa học là các công bố mang tính học thuật, năng suất nghiên cứu được Print & Hatie (1997) định nghĩa là tổng số các nghiên cứu mang tính học thuật tại trường đại học trong một khoảng thời gian nhất định. Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 20 Các quan điểm khác như Jacobs và ctg, 1986; Kurz & ctg, 1989 cho rằng năng suất nghiên cứu là một thước đo các nỗ lực trong hoạt động của giới học thuật. Gaston (1970) chỉ ra rằng khái niệm này bao gồm hai yếu tố cấu thành: sự sáng tạo tri thức (tính bằng số nghiên cứu và sự phân phối tri thức (tức là mức độ phổ biến của tri thức nghiên cứu được). Theo đó, thành quả nghiên cứu được thể hiện thông qua số lượng những công trình trên các tạp chí khoa học chuyên ngành; kỷ yếu hội nghị; viết sách; hướng dẫn luận văn hoặc các nghiên cứu của học viên cao học, nghiên cứu sinh; được các thừa nhận của giới nghiên cứu; chịu trách nhiệm chủ nhiệm đề tài; nhận các bằng sáng chế và bản quyền; thực hiện các khảo sát chuyên sâu; phát triển các thiết kế, thí nghiệm ra thực tế; tham gia các hội thảo và bình luận chuyên môn (Creswell,1986). Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thành quả nghiên cứu, do đó cách thức đo lường thành quả nghiên cứu cũng khác nhau. Tuy nhiên, để đo lường thành quả nghiên cứu, cần thực hiện đo trên cả 2 phương diện: số lượng và chất lượng nghiên cứu. Về số lượng: Dữ liệu dùng để đo số lượng nghiên cứu thường là số lượng các công trình nghiên cứu được công bố trong một thời gian cụ thể, thông thường là 2 năm tính từ khi thực hiện cuộc khảo sát trở về trước (Sax và ctg (2002), Chen và ctg (2006), Lertputtarak (2008)). Rotten (1990) đề nghị đo năng suất nghiên cứu dựa trên số lượng đầu sách, bài báo, báo cáo khoa học, tập san, các bài bình luận. Ngoài ra, theo Creswell (1986), năng suất nghiên cứu còn có thể được đo dựa trên số lượng công trình trên các tạp chí chuyên ngành; kỷ yếu hội nghị; sách xuất bản; hướng dẫn luận văn hoặc các nghiên cứu của học viên cao học, nghiên cứu sinh; được các thừa nhận của giới nghiên cứu; các đề tài chịu trách nhiệm chủ nhiệm; các bằng sáng chế và bản quyền; các khảo sát chuyên sâu; phát triển các thiết kế, thí nghiệm ra thực tế; việc tham gia các hội thảo và bình luận chuyên môn. Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 21 Về chất lượng: hiện nay có 2 chỉ tiêu đánh giá: Chất lượng nghiên cứu được đánh giá qua hệ thống bình chọn của một hội đồng khoa học, việc đánh giá này có thể không chính xác do ảnh hưởng của cá nhân nhà nghiên cứu được đưa ra đánh giá, hoặc có sự ảnh hưởng của uy tín của học viện (Folger và ctg, 1970). Ngoài ra, Nelson và ctg (1983) bổ sung thêm rằng: (1) Chất lượng công việc của một cá nhân không được bình luận bởi hội đồng, (2) Tiêu chí đăng tải của các tạp chí khác nhau, có tạp chí chú trọng vào sự đóng góp, củng cố vào kiến thức nền tảng, có tạp chí lại chú trọng vào việc sáng tạo ra tri thức mới, (3) Chất lượng nghiên cứu có thể được nhìn nhận khác nhau theo các hội đồng khác nhau. Cách đánh giá thứ hai dựa trên số lần được trích dẫn. Thực tế là một công trình được nhiều người trích dẫn chứng tỏ công trình đó có tác động lớn đến các nghiên cứu sau và đó là công trình có giá trị. Tuy nhiên, cũng không phải không có trường hợp trích dẫn một kết quả để chứng minh rằng kết quả đó không có giá trị. Hơn nữa, việc đếm số lần trích dẫn cũng có một số hạn chế đáng kể như: (1) một công trình được phổ biến rộng rãi trên nhiều tạp chí thì sẽ được biết đến nhiều và đuợc trích dẫn nhiều; (2) hoặc các nhà nghiên cứu mới vào nghề, có các bài báo viết chung khi được trích dẫn bài báo của mình thường bị bỏ sót tên; (3) việc trích dẫn vẫn còn tiếp tục vô hạn trong tương lai trong khi thời gian khảo sát là hữu hạn Ngoài ra, để đánh giá năng suất nghiên cứu theo cả 2 khía cạnh số lượng và chất lượng, Smith & ctg (2008) đã đưa ra quá trình đánh giá thông qua 4 bước như sau: Bước 1: xác định số lượng của các bài báo khoa học được công bố trên các tạp chí có uy tín. Bước 2: xác định phần trăm đóng góp trong công trình, một công trình có càng nhiều đồng tác giả thì phần trăm đóng góp của mỗi cá nhân càng nhỏ (theo Young và ctg, 1996). Bước 3: xác định trọng số cho các tạp chí. Mỗi một công trình khi được công bố trên các tạp chí khác nhau sẽ có số điểm khác nhau, trọng số cho các tạp chí được xác định dựa trên cảm nhận của các chuyên gia về độ uy tín của tạp chí đó, tạp chí càng uy tín thì số điểm càng cao (theo Malhotra & Kher,1996; Babbar và ctg, 2000). Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 22 Bước 4: với mục đích tạo ra sự công bằng cho những nhà nghiên cứu có kinh nghiệm nhiều và nhà nghiên cứu có kinh nghiệm ít hơn, số lượng công trình được chia cho thời gian tính từ lúc nhà nghiên cứu nhận bằng tiến sĩ đến lúc thực hiện khảo sát (theo Fogarty & Ruhl, 1997). Ngoài ra, cách đánh giá thành quả khoa học cũng được dựa trên chỉ số H (trích nguồn: GS. Nguyễn Văn Tuấn – “Chi số H trong nghiên cứu Khoa học”): Các nhà quản lí đánh giá thành quả của một nhà khoa học thường chủ yếu dựa vào 3 chỉ số: Số lượng bài báo khoa học công bố; Tổng số lần trích dẫn các bài báo; và Hệ số ảnh hưởng của tập san khoa học. 2.2. Khung lý thuyết của đề tài: Theo như các nghiên cứu tác giả đã tìm hiểu có liên quan đến đề tài thì các lý thuyết về hành vi được sử dụng để giải thích động cơ thực hiện nghiên cứu khoa học của giảng viên như: Thuyết mong đợi (Expectancy Theory) (V’room, 1964); Thuyết công bằng (Equity Theory) (Adam, 1962), Thuyết tăng cường (Reinforcement Theory) (Skinner, 1953) Trong luận văn này, lý thuyết Hành vi hoạch định (Azjen, 1991) - phát triển dựa trên nền tảng của các lý thuyết động viên - được áp dụng để phân tích hành vi thực hiện nghiên cứu khoa học của các giảng viên tại trường Đại học Bách Khoa TP.HCM. Thuyết mong đợi/kỳ vọng: Thuyết mong đợi này do Victor Vroom; giáo sư Trường Quản trị Kinh doanh Yale đưa ra, thuyết này cho rằng một cá nhân sẽ hành động theo một cách nhất định dựa trên những mong đợi về một kết quả nào đó hay sự hấp dẫn của kết quả đó với cá nhân. Mô hình này do V. Vroom đưa ra vào năm 1964, sau đó được sửa đổi, bổ sung bởi một vài người khác, bao gồm cả các học giả Porter và Lawler (1968). Thuyết mong đợi là một trong những lý thuyết động viên được sử dụng nhiều nhất để nghiên cứu về các yếu tố thúc đẩy thành quả nghiên cứu. Mô hình động cơ tại nơi làm việc của V’room được xây dựng dựa trên khía cạnh kỳ vọng của cá nhân đối với nơi làm việc. Thuyết mong đợi, hay có thể xem là động cơ thúc đẩy dựa trên nhận thức, giúp nhà nghiên Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 23 cứu hiểu được lí do một cá nhân ra quyết định chọn một trong nhiều cách hành xử khác nhau. V’room (1964), chỉ ra rằng mọi người có động cơ làm việc khi họ kỳ vọng rằng công việc họ đang làm sẽ đưa đến một kết quả mà họ mong đợi và họ sẽ nhận được các lợi ích từ công việc đó. Thuyết mong đợi bao gồm 3 cặp khái niệm: mong đợi giữa sự nỗ lực – thành tích, mong đợi giữa thành tích – lợi ích, giá trị của phần thưởng (valence). Mong đợi giữa sự nỗ lực – thành tích (EP) có nghĩa là mức độ mà một người đánh giá khả năng của mình và nhận thức của cá nhân đó về những yếu tố trong môi trường công việc mà họ xứng đáng nhận được (Bateman & Zeithaml, 1993). Sự mong đợi là niềm tin rằng khi một cá nhân nỗ lực (E) thì họ sẽ đạt được các kết quả (P) mong muốn. Niềm tin này dựa trên kinh nghiệm quá khứ của cá nhân, sự tự tin, và sự đánh giá về độ khó của mục tiêu (Bartol & ctg, 1998). Đối với các mục tiêu, cá nhân phải tự tin rằng khả năng của mình cao hơn mục tiêu kỳ vọng. Ngược lại, nếu một người nhận thấy rằng khả năng của mình không thể với tới mục tiêu thì động cơ thúc đẩy việc thực hiện của họ sẽ thấp. Mặt khác, nếu mục tiêu được đặt quá cao dẫn đến xác suất thành công thấp thì cũng đưa đến sự mong đợi thấp. Mong đợi giữa thành tích – lợi ích mang lại (PO) được hiểu là khả năng thành tích đạt được sẽ đem đến những lợi ích nào. Các lợi ích bao gồm các phần thưởng tiềm năng như tiền thưởng hay sự thăng tiến (các phần thưởng này gọi là phần thưởng mang giá trị vật chất, thể hiện ra bên ngoài cá nhân), hay cảm giác thành công (phần thưởng mang giá trị tinh thần, thoả mãn nội tâm bên trong cá nhân. Giá trị của phần thưởng (Valence) là sự đánh giá của cá nhân về các giá trị của phần thưởng hay kết quả mà họ sẽ đạt được sau khi thực hiện hành vi (Bartol & ctg, 1998). Ba nhóm cặp khái niệm trên được Staw (1984) kết hợp theo công thức sau: EP * PO * Giá trị của phần thưởng = Động cơ thúc đẩy V’room (1964) cho rằng các cá nhân được động viên khi thoả mãn 3 điều kiện sau: họ thoả mãn với phần thưởng sẽ đạt được; họ tin rằng hành động của họ sẽ mang đến kết quả/ phần thưởng đó; họ tin rằng họ có khả năng để thực hiện hành vi. Lý thuyết hành vi hoạch định (TPB): Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 24 Lý thuyết hành vi hoạch định TPB (Ajzen, 1991), được phát triển từ lý thuyết hành động hợp lý (TRA, Ajzen & Fishbein, 1975), lý thuyết này giả định rằng, một hành vi có thể được dự báo hoặc giải thích bởi các ý định (động cơ) để thực hiện hành vi đó. Các ý định được giả sử bao gồm các nhân tố, động cơ ảnh hưởng đến hành vi, và được định nghĩa như là mức độ nỗ lực mà mọi người cố gắng để thực hiện hành vi đó (Ajzen, 1991). Thuyết TPB phát biểu rằng ý định dẫn đến hành vi của con người được dự báo bởi: thái độ đối với hành vi, chuẩn chủ quan và cảm nhận về kiểm soát hành vi. Các ý định đó cùng với nhận thức về kiểm soát hành vi giải thích cho các hành vi khác nhau đáng kể trong thực tế. Thái độ, chuẩn chủ quan và nhận thức về kiểm soát hành vi được cho là có liên quan chủ yếu với tập hợp các niềm tin về hành vi, chuẩn mực và sự kiểm soát đến hành vi mà theo Ajzen & Fishbein (2005) tập hợp này lại bị tác động bởi nhiều yếu tố nhân khẩu – xã hội học như là xã hội, văn hoá, cá tính và các nhân tố ngoại cảnh. Hình 2.1 Mô hình Lý thuyết hành vi hoạch định TPB (I. Azjen, 1991) Thái độ dẫn đến hành vi (A): Thái độ dẫn đến hành vi là mức độ mà biểu hiện của hành vi đó được chính bản thân cá nhân đánh giá là tích cực hoặc tiêu cực. Dựa trên mô hình kỳ vọng – giá trị, thái độ dẫn đến hành vi được định nghĩa là toàn bộ niềm tin có thể dẫn đến hành vi liên hệ hành vi đó với những hậu quả và các thuộc tính khác nhau. Chuẩn chủ quan (SN): Chuẩn chủ quan là sức ép xã hội về mặt nhận thức để tiến hành hoặc không tiến hành hành vi nào đó. Tương tự như mô hình kỳ vọng – giá trị về thái độ dẫn đến hành vi, giả định rằng Chuẩn chủ quan được định nghĩa là toàn bộ những niềm Thái độ đối với hành vi (A) Chuẩn chủ quan (SN) Kiểm soát hành vi (PBC) Ý định hành vi (I) Hành vi (B) Luận văn Thạc sĩ HV: Vưu Thị Thùy Trang 25 tin được chuẩn hóa liên quan đến mong đợi về những ám chỉ quan trọng. Nhận thức về kiểm soát hành vi (PBC): Nhận thức về kiểm soát hành vi nói đến nhận thức của con người về khả năng của họ để thực hiện một hành vi đã qui định. Tương tự như mô hình kỳ vọng – giá trị về thái độ dẫn đến hành vi, giả định rằng Nhận thức về kiểm soát hành vi được định nghĩa là toàn bộ niềm tin về sự kiểm soát, ví dụ như, những niềm tin về sự hiện diện của các yếu tố xúc tiến hoặc cản trở sự thực hiện hành vi. Ý định (I): Ý định là sự biểu thị về sự sẵn sàng của mỗi người khi thực hiện một hành vi đã qui định, và nó được xem như là tiền đề trực tiếp dẫn đến hành vi. Ý định dựa trên các ước lượng bao gồm Thái độ dẫn đến hành vi, Chuẩn chủ quan và Nhận thức kiểm soát hành vi và các trọng số được gán cho mỗi ước lượng này tùy vào tầm quan trọng của chúng. Hành vi (B): Hành vi là sự phản ứng hiển nhiên có thể nhận thấy được thực hiện trong tình huống đã qui định cùng với mục tiêu đã qui định trước đó. Những quan sát hành vi đơn lẻ có thể được tổng hợp nhiều lần trong các phạm vi để tạo ra một phép đo tiêu biểu về hành vi mang tính bao quát. Theo TPB, Hành vi là một hàm bao gồm các ý định thích hợp và Nhận thức kiểm soát hành vi. Về mặt khái niệm, Nhận thức về kiểm soát hành vi được dùng để làm giảm bớt ảnh hưởng của Ý định lên Hành vi, do đó, một ý định được tán thành chỉ dẫn đến Hành vi chỉ khi mà Nhận thức về kiểm soát hành vi đủ mạnh. Thực tế, các ý định và Nhận thức về kiểm soát hành vi đều được cho rằng là những yếu tố chính dẫn đến hành vi khi mà chúng không có sự tác động qua lại. Tóm lại, nếu thái độ đối với hành vi là tốt (cá nhân nhìn nhận hành vi đó là tốt), và xã hội cũng nhìn nhận hành vi đó là đúng đắn; bản thân cá nhân có sự kiểm soát cao đối với hành vi (hay nói một cách khác là cá nhân chắc chắn có những điều kiện thuận lợi để thực hiện hành vi) thì cá nhân đó càng có động cơ mạnh mẽ để thực hiện hành vi. Hơn nữa, nếu một cá nhân thấy rằng khả năng kiểm soát hành vi thực tế của mình cao thì họ sẽ có khuynh hướng thực hiện các ý định của mình ngay khi có cơ hội.