Cách chia 1/2 gói thuốc là bao nhiêu

Chúng ta vẫn thường thấy, kê đơn thuốc chỉ định 2 viên thuốc/ngày, chia 2 lần, mỗi lần 1 viên. Sử dụng trọn vẹn 1 viên thuốc cho một lần uống, ngoài tính tiện lợi sử dụng mà còn đảm bảo một liều lượng chuẩn xác cho điều trị vì mỗi viên thuốc đã được định liều tuyệt đối. Và như vậy, chỉ cần uống theo đúng hướng dẫn là hiệu quả dược lý thành công.

Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp bác sĩ đã kê đơn hoặc nhiều người bệnh sử dụng thuốc dưới dạng bẻ hay chia tách ra khi uống.

Chúng ta phải thừa nhận là trong nhiều trường hợp vì liều điều trị không cho phép cao mà nhà sản xuất lại không điều chế dạng phù hợp nên buộc người thầy thuốc phải kê đơn dưới dạng thuốc có hàm lượng lớn và kê đơn dạng “bẻ” làm 2 khi dùng.


Vì tính hiệu lực dược lý không cho phép người bệnh dùng cả viên mà chỉ được phép dùng nửa viên nên không có cách nào khác, bệnh nhân phải bẻ ra để điều trị, chấp nhận những tai hại có thể có. Chẳng hạn như liều dùng chỉ là 100mg/lần, nhưng nhà sản xuất chỉ làm ra viên thuốc có hàm lượng 200mg buộc chúng ta phải chia ra làm 2, mỗi phần 100mg. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp cụ thể, có thể không ý thức được hết tác động của việc này mà đã đưa đến hiện tượng bẻ thuốc hoặc chia thuốc để dùng.


Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, có thể từ phía bác sĩ, dược sĩ, có thể từ phía bệnh nhân. Có nhiều bác sĩ đã kê thuốc hàm lượng lớn và buộc phải chỉ rõ bẻ đôi khi uống vì lý do phòng khám tạm thời hết thuốc “bé”. Tương tự, do cửa hàng hết thuốc mà người dược sĩ đã bán cho bệnh nhân những viên thuốc có hàm lượng gấp đôi hoặc gấp ba liều kê chuẩn và buộc người bệnh phải bẻ ra khi dùng, mặc dù đơn thuốc kê những viên có hàm lượng phù hợp.


Việc tự ý bẻ thuốc ra khi uống cũng không phải là ít gặp ở bệnh nhân, phần nhiều là không ý thức được tác hại. Cụ thể, nhiều ông bố bà mẹ đã tự bẻ viên thuốc hạ sốt paracetamol dạng 500mg ra làm 2 nửa với mong muốn mỗi nửa là 250mg để hạ sốt cho con trẻ. Nhưng thực tế, các nửa viên thuốc đã không cân bằng được như thế.


Không khác với các trường hợp dùng gói oresol trị tiêu chảy. Mỗi gói oresol dùng cho người lớn phải hoà đúng với 1 lít nước để đạt được áp suất thẩm thấu tối ưu. Nhưng vì do vị hơi khó uống với những người không quen, lại không được để dung dịch đã pha quá 24 giờ nên nhiều người đã tự ý chia nhỏ gói oresol ra làm hai phần để hoà trong 0,5l nước cho tiết kiệm nếu trong trường hợp không sử dụng hết.

Chia thuốc có thể làm ảnh hưởng tới nồng độ thuốc

 


Hệ lụy từ việc tự ý chia thuốc


Nhìn qua, có vẻ chấp nhận được nhưng xét cụ thể về mặt dược lý thì lại có những tác hại nghiêm trọng. Trong đa phần các trường hợp, việc chia tách thuốc không bao giờ đạt được như ý, tức là khó đạt được thành những phần bằng nhau ngoại trừ những viên thuốc mà nhà sản xuất cố ý có vết chia đôi cho những trường hợp cần thiết.


Sự không đạt được những phần bằng nhau dẫn đến một hệ quả tất yếu: có phần thì liều lượng nhỏ hơn liều quy định, có phần lại có liều lượng lớn hơn liều quy định.


Người ta đã thử nghiệm và thấy, có đến 31% bẻ sai chênh lệch hai phần lên tới trên 15% về liều lượng và có đến 14% bẻ sai chênh lệch hai phần là trên 25% liều lượng.


Những phần mà có liều lượng nhỏ hơn liều quy định thì khi sử dụng sẽ không đạt được hiệu quả điều trị. Còn những phần mà có liều lượng vượt quá liều quy định thì sẽ gây ngộ độc thuốc. Nhất là với các thuốc có biên độ điều trị hẹp hay chỉ số điều trị thấp, ngưỡng điều trị quá gần với ngưỡng gây ngộ độc thuốc.
Có thể lấy ví dụ với các thuốc có biên độ điều trị hẹp như: aminoglycosides, ciclosporin, carbamazepine, digoxin, digitoxin, flecainide, lithium, phenytoin, phenobarbital, rifampicin, theophylline, warfarin. Với các thuốc này, việc bẻ thuốc rất dễ dẫn đến nguy cơ ngộ độc.

Trong trường hợp với gói bột hoà tan oresol thì lại khác. Nếu chúng ta hoà trong cả 1 lít nước thì sẽ thu được một hỗn hợp đồng nhất có áp suất thẩm thấu bằng với áp suất thẩm thấu của máu và do vậy không làm tổn thương tế bào. Nhưng khi ở trong dạng gói bột, dù nhà sản xuất đã cố gắng trộn đều nhưng vẫn có những phần nhiều muối quá, có những phần nhiều đường quá. Việc chia tách gói bột này làm thiên lệch áp suất thẩm thấu trong từng phần và do đó, có vẻ như chúng ta chia hai phần bằng nhau thì áp suất thẩm thấu trong hai phần là không ngang nhau.

Có nhiều nhóm thuốc có tác dụng hạ sốt, tuy nhiên, theo các bác sĩ, ở trẻ nhỏ, thuốc hạ sốt an toàn nhất nên được sử dụng là Paracetamol. Paracetamol là thuốc hạ sốt không cần kê đơn, tuy nhiên, việc sử dụng đúng cách cũng hết sức quan trọng vì nguy cơ gây độc cho gan của trẻ nếu phụ huynh dùng quá liều. Vì vậy, cha mẹ khi quyết định sử dụng thuốc hạ sốt cho trẻ cần đặc biệt lưu ý cách dùng, liều lượng và tần suất uống thuốc hàng ngày.

Ngoài thị trường hiện nay, các loại thuốc hạ sốt dùng cho người lớn thường chứa hàm lượng 500mg dược chất Paracetamol. Tuy nhiên, ở trẻ em thường dùng là loại chứa 1⁄2 liều so với người lớn là 250mg Paracetamol.

Theo các chuyên gia y tế, khi dùng Paracetamol để hạ sốt hay sử dụng với tác dụng khác của thuốc thì các mẹ đều cần áp dụng cách tính liều lượng thuốc cho trẻ theo cân nặng. Đặc biệt, khi dùng thuốc hạ sốt cho trẻ, nên ưu tiên sử dụng thuốc ở dạng lỏng. Việc lấy thuốc viên nén Paracetamol dành cho người lớn để bẻ nhỏ 1/2, 1/3, 1/4...rồi sử dụng cho trẻ em không được khuyến cáo. Lời khuyên dành cho các mẹ là sử dụng thuốc Paracetamol dạng lỏng, đọc thật kỹ bản hướng dẫn sử dụng và tham khảo ý kiến dược sĩ để biết cách sử dụng và tính liều lượng cho trẻ.

Cách sử dụng thuốc hạ sốt cho trẻ đúng cách:

  • Cha mẹ nên cho trẻ sử dụng thuốc hạ sốt khi trẻ có tình trạng sốt với nhiệt độ từ 38,5 độ C trở lên.
  • Liều dùng thuốc hạ sốt được tính dựa vào cân nặng của trẻ: Từ 10 – 15mg Paracetamol cho 1 kg cân nặng của trẻ.
  • Tần suất sử dụng: Cha mẹ cho trẻ uống thuốc hạ sốt từ 4-6 tiếng một lần. Nếu sau khi uống thuốc và chưa đến giờ uống lại mà trẻ không hạ sốt thì cũng không được uống thêm thuốc. Lúc này, cha mẹ cần chườm mát vào trán, bẹn, lòng bàn tay, chân, cho trẻ mặc đồ thoáng, uống nhiều nước để hỗ trợ thêm cho trẻ.

Ví dụ: Trẻ bị sốt nặng 5 kg, cha mẹ cần dùng từ 50mg đến 75mg Paracetamol là tối đa mỗi lần. Nếu sau 4 -6 giờ mà trẻ còn sốt thì cho trẻ uống với liều tương tự và tiếp tục theo dõi. Không được sử dụng quá liều dùng này, cũng như không được rút ngắn khoảng thời gian nghỉ giữa 2 lần uống thuốc, nếu không sẽ gây hại cho gan của bé.

Tính liều lượng thuốc theo cân nặng khi sử dụng sử dụng thuốc cho trẻ nhỏ là cách phổ biến nhất cũng như giúp đảm bảo an toàn cho trẻ. Tuy nhiên, còn một số cách tính liều lượng thuốc cho trẻ cũng hay được sử dụng mà các mẹ có thể tham khảo.

3.1 Tính liều lượng theo độ tuổi của trẻ

Liều dùng thuốc hạ sốt Paracetamol của trẻ là 10-15mg/kg mỗi lần dùng. Tuy nhiên, số lần dùng của trẻ trong ngày có thể khác nhau và khi tính liều dùng cho cả ngày 24 giờ thì phải tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ. Tính liều thuốc hạ sốt dựa vào độ tuổi của trẻ nghĩa là ở độ tuổi khác nhau thì mức độ sử dụng thuốc cho trẻ cũng sẽ khác nhau. Đây cũng là một cách tính liều lượng thuốc hạ sốt cho trẻ các mẹ cần ghi nhớ.

Ví dụ ở trường hợp trẻ sơ sinh bị sốt, liều dùng của Paracetamol là 10-15mg/kg/lần và khoảng cách giữa 2 lần uống là 6-8 giờ. Như vậy, tần suất sử dụng thuốc hạ sốt ở trẻ sơ sinh là 3-4 lần một ngày. Trong khi đó, ở nhóm trẻ lớn hơn, mặc dù liều lượng thuốc cũng tương tự trẻ sơ sinh là 10-15mg/kg/lần nhưng nhịp dùng thuốc lại gần hơn. Cụ thể, trong vòng 24 giờ, trẻ có thể được uống từ 4-6 lần, nghĩa là cứ 4-6 giờ dùng một lần, tuy nhiên, tốt nhất không nên uống quá năm liều hạ sốt trong một ngày.

3.2 Tính liều lượng thuốc theo diện tích da của trẻ

Đây là cách tính khá phức tạp không được sử dụng hàng ngày tại nhà. Phương pháp này chủ yếu áp dụng trong các trường hợp sử dụng thuốc có độc tính cao như thuốc trị ung thư. Thực tế, để áp dụng cách tính liều lượng thuốc dựa vào diện tích da trong các bệnh viện, các nhà chuyên môn sẽ dựa vào chiều cao và cân nặng của trẻ cũng như kết hợp công thức hoặc bảng tính sẵn để suy ra diện tích da của trẻ. Đây được xem là cách tính liều lượng thuốc chính xác nhất nhưng nó lại khá phức tạp, đòi hỏi các bác sĩ phải có kinh nghiệm cũng như trong những trường hợp cần sự an toàn và hiệu quả tuyệt đối của thuốc đối với trẻ.

Chủ Đề