Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Bác sĩ cao cấp, Tiến sĩ Vũ Văn Tâm - Bác sĩ Nội truyền nhiễm - Khoa khám bệnh & Nội khoa - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Hạ Long.

Virus là ký sinh trùng siêu nhỏ, thường nhỏ hơn nhiều so với vi khuẩn. Chúng thiếu khả năng phát triển và sinh sản bên ngoài cơ thể vật chủ. Phần lớn virus là nguyên nhân gây bệnh. Thế giới đã trải qua sự bùng phát dịch Ebola năm 2014 ở Tây Phi, đại dịch cúm lợn năm 2009. Và hiện nay là đại dịch Covid-19 đang gây nguy hiểm cho tất cả mọi người.

Virus là một loại ký sinh trùng nhỏ không thể tự sinh sản. Tuy nhiên, một khi virus lây nhiễm vào một tế bào nhạy cảm, nó có thể điều khiển bộ máy tế bào tạo ra nhiều virus hơn. Hầu hết các virus có RNA và DNA là vật liệu di truyền của chúng. Acid nucleic có thể là chuỗi đơn hoặc chuỗi kép. Toàn bộ hạt virus truyền nhiễm được gọi là virion, bao gồm acid nucleic và vỏ ngoài của protein.

Virus không chứa ribosome vì thế chúng không thể tạo ra protein. Điều này làm cho nó hoàn toàn phụ thuộc vào vật chủ ký sinh. Chúng là loài sinh vật duy nhất không thể sinh sản mà không có tế bào vật chủ.

Sau khi liên lạc với tế bào vật chủ thì nó sẽ chèn vật liệu di truyền vào vật chủ và chiếm lấy chức năng của vật chủ đó. Sau khi lây nhiễm vào tế bào, virus tiếp tục sinh sản nhưng nó tạo ra nhiều protein và vật liệu di truyền hơn thay vì các sản phẩm tế bào thông thường. Các virus đơn giản nhất chỉ chứa đủ RNA hoặc DNA để có thể mã hoá bốn protein. Còn với các virus phức tạp, có thể mã hoá khoảng từ 100 - 200 protein.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Virus có nhiều chủng loại khác nhau

Virus có hình dạng và kích thước khác nhau và chúng có thể được phân loại như sau:

  • Xoắn ốc: Virus khảm thuốc lá có hình dạng xoắn ốc.
  • Hình cầu: Hầu hết các loại virus động vật đều có hình dạng này.
  • Hình phong bì: Một số virus bao phủ bản thân với một phần được sửa chữa của màng tế bào, tạo ra một lớp vỏ lipid để bảo vệ. Chúng bao gồm virus cúmvirus HIV.

Ngoài ra, các hình dạng này có thể được kết hợp với nhau tạo ra các hình dạng của virus không theo tiêu chuẩn nào cả.

Virus được tìm thấy ở bất cứ nơi nào có sự sống và có lẽ đã tồn tại kể từ khi các tế bào sống phát triển đầu tiên. Nguồn gốc của virus không rõ ràng vì chúng không tạo thành hóa thạch. Cho nên, các nhà khoa học đã sử dụng kỹ thuật phân tử để so sánh DNA hoặc RNA của virus và đây cũng là phương tiện hữu ích để điều tra cách chúng phát sinh.

Ngoài ra, vật liệu di truyền của virus đôi khi có thể tích hợp vào tế bào sinh vật chủ, nhờ đó chúng có thể được truyền theo chiều dọc, chẳng hạn như truyền cho con cái của vật chủ trong nhiều thế hệ. Những điều này cung cấp một nguồn thông tin vô cùng quý giá cho các nhà cổ sinh vật học đã truy tìm lại các virus cổ xưa và đã tồn tại từ hàng triệu năm trước.

Có ba giả thuyết chính nhằm giải thích sự hình thành của virus:

Virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ ký sinh trên các tế bào lớn hơn. Theo thời gian, các gen không được yêu cầu bởi ký sinh trùng của chúng sẽ bị mất đi. Vi khuẩn rất nhỏ như rickettsia và chlamydia là những tế bào sống, giống như virus và chỉ sinh sản bên trong tế bào vật chủ. Giả thuyết nào cho thấy sự phụ thuộc của ký sinh trùng có khả năng gây ra sự mất gen cho phép sống sót ở bên ngoài một tế bào. Đây cũng có thể được gọi là giả thuyết thoái hóa hoặc giả thuyết giảm.

  • Giả thuyết nguồn gốc tế bào:

Một số virus có thể đã tiến hóa từ DNA hoặc RNA và thoát ra khỏi gen của một sinh vật lớn hơn. DNA thoát ra có thể đến từ các plasmids ( là các mảnh DNA trần có thể di chuyển giữa các tế bào), hoặc transposons (các phân tử DNA sao chép và di chuyển đến các vị trí khác nhau trong gen của tế bào). Từng được gọi là “gen nhảy” transposon là ví dụ về các yếu tố di truyền và có thể là nguồn gốc của một số virus. Chúng được phát hiện trên ngô bởi Barbara McClintock vào năm 1950.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

RNA của virus

  • Giả thuyết đồng tiến hóa:

Đây được gọi là giả thuyết đầu tiên về virus, và cho rằng virus có thể đã tiến hóa từ các phân tử phức tạp của protein và acid nucleic cùng lúc với tế bào xuất hiện lần đầu tiên trên Trái Đất. Và nó sẽ phụ thuộc vào sự sống của tế bào trong hàng tỷ năm.

Viroids là các phân tử RNA không được phân loại là virus vì chúng thiếu lớp vỏ protein. Chúng có những đặc điểm chung cho một số loại virus và thường được gọi là tác nhân phụ. Viroids là mầm bệnh quan trọng của thực vật. Chúng không mã hóa protein nhưng tương tác với tế bào vật chủ và sử dụng bộ máy của vật chủ để sao chép.

Virus viêm gan delta của người có bộ gen RNA tương tự viroid nhưng có vỏ protein và có nguồn gốc từ virus viêm gan B đồng thời cũng không thể tự sản xuất. Do đó, nó là một virus bị lỗi. Mặc dù bộ gen của virus viêm gan delta có thể được sao chép độc lập một lần trong tế bào vật chủ, nhưng nó vẫn cần có sự trợ giúp của virus viêm gan B để cung cấp một lớp vỏ protein để nó có thể truyền đến các tế bào mới. Vì vậy, những loại virus này phụ thuộc vào sự hiện diện của các loại virus khác trong tế bào chủ, được gọi là vệ tinh và có thể đại diện cho các trung gian tiến hóa của viroid và virus.

Trước đây, có những vấn đề với tất cả những giả thuyết này: giả thuyết hồi quy không giải thích được tại sao ngay cả những ký sinh trùng tế bào nhỏ nhất cũng không giống với virus. Giả thuyết nguồn gốc tế bào cũng không giải thích được viên nang phức tạp và cấu trúc khác trên các hạt virus. Giả thuyết đầu tiên về virus đã chống lại định nghĩa về virus ở chỗ chúng yêu cầu tế bào vật chủ. Virus hiện được công nhận là cổ xưa và có nguồn gốc từ trước sự phân kỳ của sự sống.

Bằng chứng về thế giới tổ tiên của tế bào RNA và phân tích máy tính về trình tự DNA của virus và vật chủ đang giúp hiểu rõ hơn về mối quan hệ tiến hoá giữa các loại virus khác nhau, và có thể xác định tổ tiên của virus hiện đại. Dường như tất cả các loại virus hiện được biết đến đều có chung một tổ tiên và virus có thể đã phát sinh nhiều lần trong quá khứ bởi một hoặc nhiều cơ chế.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Virus viêm gan B

Đến cuối thế kỷ 19, quan niệm rằng các vi sinh vật đặc biệt là vi khuẩn có thể gây bệnh đã được thiết lập tốt. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đang tìm kiếm một căn bệnh đáng lo ngại trong thuốc lá - có phần khó hiểu về nguyên nhân của nó.

Trong một bài viết nghiên cứu năm 1886 có tự đề là “Liên quan đến bệnh khảm của thuốc lá” của nhà hoá học người Đức Adolf Mayer, đã công bố phát hiện rằng khi ông nghiền nát những chiếc lá bị nhiễm bệnh và tiêm nước độc hại vào tĩnh mạch của chiếc lá khoẻ mạnh, điều đó sẽ dẫn gây ra các đốm và đổi màu trên lá.

Mayer phỏng đoán chính xác rằng điều gây ra bệnh khảm thuốc lá bắt đầu từ trong nước ép lá. Tuy nhiên, kết quả cụ thể hơn đã không đúng với phỏng đoán của ông. Mayer cảm thấy chắc chắn rằng điều mà gây ra căn bệnh này đều có nguồn gốc từ vi khuẩn, nhưng ông không thể phân lập được tác nhân gây bệnh hoặc xác định nó dưới kính hiển vi.

Năm 1898, khi dự hiện diện của virus được thừa nhận, nhà khoa học người Hà Lan Martinus Beijerinck đã cho rằng nguyên nhân gây bệnh khảm thuốc lá không phải là vi khuẩn mà là một loại virus sống trong chất lỏng. Và các thí nghiệm sau đó của ông cũng đã chỉ ra sự tồn tại của virus.

Đến năm 1931 một kính hiển vi điện tử được phát triển bởi nhà khoa học người Đức Ernst Ruska và Max Knoll. Những hình ảnh đầu tiên về virus khảm thuốc lá đã được chủ bởi Ruska vào năm 1939. Do đó, việc phát hiện virus đã được xuất hiện.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đăng ký lịch trực tuyến TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn!

Nguồn tham khảo: medicalnewstoday.com; livescience.com

Sự khác nhau giữa vi khuẩn và virus

XEM THÊM:

ADN đóng vai trò quan trọng trong sinh học di truyền. Phân tử này mang đặc tính đặc trưng cho từng loài và cho từng cá thể. Kiến thức về công thức ADN và cấu tạo hóa học của ADN cùng các thông tin khác liên quan sẽ giúp bạn hình dung về phân tử đặc trưng của sinh vật này. Tham khảo bài viết dưới đây để biết chi tiết nhất về ADN

Ai là người đầu tiên phát hiện ra ADN?

Friedrich Miescher, một nhà hóa sinh người Thụy Điển đã phát hiện ra sự tồn tại của ADN khi nghiên cứu vết mủ trên băng cứu thương đã được sử dụng. Cấu trúc ADN được cho là một vật chất mà nhà hóa sinh này chưa bao giờ tiếp xúc thông qua kính hiển vi. Vì vậy, ban đầu Friedrich Miescher gọi cấu trúc nào là nuclein vì nó xuất hiện trong nuclei (nhân) tế bào.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Friedrich Miescher người đầu tiên tìm ra sự tồn tại của ADN

Trong quá trình nghiên cứu, người đàn ông này đã bắt đầu đặt mối nghi ngờ sự tương quan giữa các nuclein với sự di truyền của động vật. Tuy nhiên, nghi vấn ấy sau hàng thập kỳ mới được giải đáp thông qua những dẫn chứng của Thomas Hunt Morgan dựa vào nghiên cứu trên ruồi giấm và tìm ra nhiễm sắc thể cùng vai trò với di truyền học.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Thomas Hunt Morgan người tìm ra nhiễm sắc thể

Tuy vây, dù Thomas Hunt Morgan được trao giải Nobel cho nghiên cứu về nhiễm sắc thể, nhiều nghi ngờ đặt ra với sự tồn tại của gen, thứ được Morgan cho là nằm trong các nhiễm sắc thể mà ông nghiên cứu. Mãi đến năm 1944, khi Oswald Avery đưa ra những bằng chứng về gen và ADN, khái niệm này mới bắt đầu được tin tưởng trong giới khoa học và công chúng.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Oswalk Avery đưa ra bằng chứng về sự tồn tại của gen

Năm 1953, Francis Harry và James D. Watson công bố cấu trúc của ADN thông qua nghiên cứu nhiễu xạ tia X. Hai nhà khoa học đã chỉ ra dạng xoắn ốc của phân tử ADN. Đồng thời, nghiên cứu này đã cho thấy thành phần của ADN được tạo ra từ bốn nhân tố hóa học khác nhau. Trình tự cấu trúc của phân tử ADN đa dạng. Nhờ đó, công trình này đã được giải Nobel về sinh lý và y khoa.

Cấu tạo hóa học của ADN

ADN (Axit deoxyribonucleic) là một loại axit nucleic mang tính chất của một đại phân tử. 5 nguyên tố cấu tạo nên phân tử này gồm C, H, O, N, P. Với cấu tạo đa phân, trong đó các đơn phân là nucleotit. Thành phần chính của ADN gồm:

  • Gốc bazơ nitơ (A, T, G, X)
  • Gốc đường deoxiribozo (C5H10O4)
  • Gốc Axit photphoric (H3PO4)

Các bazơ nitơ A, T, G, X lần lượt là Adenin, Timin, Xitozin, Guanin. Trong đó, kích thước phân tử A, G lớn hơn so với kích thước của T, X. Sự liên kết trong phân tử ADN được thực hiện thông qua bazơ nitơ liên kết với C5H10O4 tại vị trí C thứ nhất. Gốc H3PO4 liên kết với C thứ 5, từ đó tạo thành cấu trúc của một đơn phân nucleotit trong ADN.

Do các nucleotit của ADN đều có sự giống nhau ở gốc đường deoxiribozo và Axit photphoric. Vì vậy, tên của các đơn phân ADN được đặt theo tên các gốc bazơ nitơ.

Các phân tử ADN được cấu tạo từ hàng vạn, hàng triệu đơn phân, đó cũng là lý do đây được gọi là đại phân tử. Với trình tự, sắp xếp và số lượng nucleotit khác nhau, ADN mang tính chất đặc thù và đặc trưng cho các loài sinh vật khác.

Để tạo mạch phân tử ADN, các nucleotit gắn với nhau thông qua gốc photphat liên kết nhóm -OH gắn liền với Nucleotit của C thứ 3. Đây chính là liên kết photphodieste do nhóm H3PO4 đã tạo liên kết este trong chính đơn phân nucleotit của nó, đồng thời, tạo este trong phân tử liền kề tại vị trí C thứ 2.

Cấu trúc ADN

Thông thường, ADN mang cấu trúc mạch kép. Một số trường hợp ngoại lệ, ADN có mạch đơn (như virus). Với cấu trúc mạch kép, ADN xoắn và chạy song song quanh trục ngược chiều kim đồng hồ (từ trái sang phải). Trong đó, mỗi vòng xoắn của ADN bao gồm 10 cặp Nu, độ dài 34A (tương ứng 3.4nm và đường kính 20A (tương ứng với 2nm).

Như đã giới thiệu ở trên, giữa các mạch đơn của ADN được liên kết với nhau thông qua liên kết hóa trị giữa H3PO4 (axit photphoric) với C thứ 5 của nucleotit tiếp theo. Mối liên kết này đã tạo ra bộ khung với các đơn vị đường phosphate được lặp đi lặp lại.

Giữa hai mạch đơn trong phân tử ADN được liên kết với nhau thông qua liên kết hidro được thực hiện bằng nguyên tắc bổ sung. Cụ thể T liên kết với A bằng 2 liên kết hydro, X liên kết với G bằng 3 liên kết hydro, và ngược lại.

Với nguyên tắc này, khi biết thứ tự của một mạch đơn, người ta sẽ xác định được trình tự sắp xếp của các mạch còn lại. Ngoài ra, mỗi loài khác nhau se có tỷ lệ A+T/G+X khác nhau và đặc trưng cho từng loài.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Mô hình cấu trúc của đại phân tử ADN

Tính chất và chức năng của ADN

Với công thức ADN và cấu tạo hóa học của ADN như trên đã khiến cho phân tử này vừa có tính đa dạng, vừa mang tính đặc thù. Với cấu trúc phân tử riêng, mỗi loại có sự khác nhau về số lượng, trật tự, thành phần của nuclêôtit. ADN là cơ sở để hình thành sự đa dạng của các loài sinh vật và mỗi loài đều có nét đặc trưng riêng.

Ngoài ra, chức năng lưu trữ và chứa đựng thông tin di truyền của phân tử này đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trình tự các nucleotit trên mạch đơn của ADN chính là thông tin di truyền cho các thế hệ sau. Trình tự này sẽ quyết định trình tự các đơn phân trên mạch của ARN và từ đó quyết định trình tự Axit Amin trong protein.

Xem thêm : Tính Chất và Chức Năng của ADN

Nhân đôi ADN

Quá trình ADN nhân đôi diễn ra ngay trước khi tế bào bước vào giai đoạn phân chia. Đây là bước đóng vai trò quan trọng trong truyền đạt thông tin di truyền qua nhiều thế hệ. Kết quả của quá trình nhân đôi, một ADN mẹ tạo ra hai ADN con giống nhau và giống hệt cấu trúc của ADN mẹ ban đầu.

Các nguyên tắc khi nhân đôi ADN

Với sinh vật nhân thực, quá trình này diễn ra ở trong nhân tế bào. Đối với sinh nhân sơ, quá trình nhân đôi ADN diễn ra ngoài tế bào chất. Các nguyên tắc được áp dụng khi bắt đầu quá trình nhân đôi gồm nguyên tắc bổ sung, nguyên tắc bán bảo toàn và nguyên tắc nửa gián đoạn.

Nguyên tắc bổ sung được hiểu là khi hình thành mạch mới của ADN con, dựa trên sự bổ sung giữa các nucleotit A – T, G – X. Từ đó, hình thành nên ADN mới. Nguyên tắc bán bảo toàn là việc giữ nguyên một ADN của mẹ và từ đó tạo nên ADN con mới. Nguyên tắc nửa gián đoạn là việc một mạch được tổng hợp liên tục, mạch kia được thực hiện theo từng đoạn ngắn và nối với nhau.

Với những nguyên tắc trên, thông tin di truyền trên ADN mẹ được truyền đạt nguyên vẹn qua thế hệ sau. Vì vậy, quá trình nhân đôi đóng vai trò quan trọng trong việc giữ vững công thức ADN, cấu tạo hóa học của ADN mẹ di truyền cho con.

Thành phần tham gia nhân đôi ADN

Trong quá trình nhân đôi ADN, các thành phần tham gia gồm: 2 mạch đơn của ADN mẹ, các nucleotit ngoài môi trường để tổng hợp nên mạch mới, các ribonucleotit (A, U, G, X) để tạo thành đoạn mồi, hệ thống enzym tham gia vào quá trình. Các hệ enzym đa dạng, mỗi loại đóng một vai trò và chức năng riêng trong quá trình nhân đôi cấu tạo hóa học của ADN ở phân tử mẹ.

Enzym Gyrase đóng vai trò quan trọng trong việc tháo xoắn phân tử ADN https://ars.els-cdn.com/content/image/1-s2.0-S1359644616304226-gr1.jpg
Cụ thể, Gyrase và Helicase là hai enzym đóng vai trò tháo xoắn và cắt liên kết hydro giữa các mạch đơn trong phân tử mẹ. ARN polimeraza có nhiệm vụ tổng hợp đoạn mồi bổ sung cho khuôn. ADN polimeraza là enzym có chức năng gắn các nucleotit ngoài môi trường với khuôn từ mạch đơn của mẹ để tạo ra ADN mới. Ligaza là enzym nối các đoạn Okazaki liền mạch.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Enzym Helicase cắt liên kết Hidro giữa hai mạch đơn

Enzym Helicase cắt liên kết Hidro giữa hai mạch đơn

Quá trình ADN nhân đôi

Có thể tóm gọn quá trình nhân đôi ADN thành 3 bước:

  • Bước 1: Tháo xoắn thông qua enzym Gyrase, enzym Helicase cắt các liên kết Hydro. . Lúc này, 2 mạch đơn của phân tử ADN mẹ tách ra tạo thành chạc chữ Y. Trong đó, có một mạch chạy theo chiều 3’ – 5’, mạch còn lại chạy theo chiều 5’ – 3’.
  • Bước 2. Thực hiện tổng hợp mạch ADN mới. Enzym ADN polimeraza liên kết các nuclêôtit ngoài môi trường với mạch khuôn theo nguyên tắc bổ sung. Quá trình tổng hợp thực hiện theo chiều 5’ – 3’. Do đó, mạch 3’ – 5’, việc tổng hợp ADN được thực hiện liên tục. Với mạch 5’ – 3’, việc tổng hợp phải thực hiện qua các đoạn ngắn Okazaki. Việc tổng hợp được thực hiện ngược chiều tháo xoắn. Sau đó, các đoạn này được nối với nhau thông qua Ligaza. Nguyên tắc nửa gián đoạn được áp dụng khi tổng hợp nucleotit cho mạch đơn này.
  • Bước 3. Việc đóng xoắn được thực hiện ngay khi 2 mạch đơn mới được tổng hợp xong. Hai ADN mới được hình thành từ phân tử ADN mẹ ban đầu.

Ứng dụng về công nghệ ADN trong đời sống hiện nay

Với công nghệ như hiện nay, việc xét nghiệm và phân tích ADN được nhiều người biết đến và áp dụng. Các ứng dụng về công nghệ ADN có thể xác định những vấn đề sau

Huyết thống của các mẫu xét nghiệm

Dựa vào công thức ADN, cấu tạo hóa học của ADN người ta có thể kết luận các mẫu xét nghiệm được so sánh đối chiếu có quan hệ huyết thống hay không. Với quy luật di truyền và nguyên tắc ADN như ở trên, bạn có thể hình dung, con sẽ nhận được một nửa hệ gen từ người cha và nửa còn lại từ người mẹ.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Dựa vào xét nghiệm ADN phân tích huyết thống

Vì vậy, dựa trên phân tích cấu trúc ADN của hai mẫu so sánh, có thể phân tích chính xác 100% hai mẫu này có quan hệ cha/mẹ và con cái hay không. Người ta gọi đây là xét nghiệm huyết thống trực hệ.

Với xét nghiệm huyết thống không trực hệ, bạn có thể xác định được các mối quan hệ huyết thống theo một số trường hợp sau:

  • Xét nghiệm huyết thống theo nhiễm sắc thể Y (dòng nội): Quy luật di truyền cho chúng ta biết nam giới trong họ nội sẽ có nhiễm sắc thể Y giống nhau. Sự trùng khớp có thể chính xác lên đến 25 thế hệ. Vì vậy, mối quan hệ có thể xác định có thể ví dụ gồm anh – em trai (cùng bố), ông nội – cháu trai, cháu (bác) – cháu trai,….
  • Xét nghiệm huyết thống theo nhiễm sắc thể X, tương tự như cách hiểu ở trên, các mối quan hệ có thể xác định huyết thống giữa chị em(cùng bố), bà nội và cháu gái.
  • Xét nghiệm huyết thống theo dòng mẹ. Cụ thể, người mẹ sẽ di truyền đặc điểm ty thể cho tất cả người con (kể cả nam và nữ), những người con gái của mẹ sẽ tiếp tục di truyền ty thể cho con của họ ở đời sau. Như vậy, với cách xét nghiệm này, có thể tìm ra các mối quan hệ gồm: anh/chị – em (cùng mẹ), bà ngoại – cháu, dì – cháu;….

Xác định tình trạng sức khỏe

Thông qua ADN chúng ta có thể xác định tình trạng sức khỏe thông qua cấu trúc gen. Các bệnh được thể hiện qua ADN là các bệnh di truyền. Một số bệnh có nguy cơ di truyền sang đời con cao như ung thư dạ dày, ung thư vú, thiếu máu huyết tan, nhược cơ,…

Thông qua xét nghiệm ADN chúng ta có thể nắm được khả năng mắc những bệnh này qua biểu đồ gen của con người. Angelina Jolie là một ví dụ khi chia sẻ rằng sau xét nghiệm ADN có đã biết mình có khả năng cao mắc bệnh ung thư vú do trong hệ thống gen của cô có tồn tại gen BRCA1.

Nếu thai phụ đang mang thai, xét nghiệm ADN cũng chính là cơ hội để phát hiện những triệu chứng bất thường của thai nhi. Một số hội chứng như Down, trisomy 18 có thể được sàng lọc di truyền trước khi sinh. Đối với trẻ sơ sinh nếu được thực hiện xét nghiệm ADN cũng giúp phát hiện các bệnh suy giáp bẩm sinh, hồng cầu lưỡi liềm sớm nhất, như vậy hỗ trợ việc chăm sóc bé hiệu quả.

Đọc thêm: Xét nghiệm tiền sản không xâm lấn NIPT

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN

Xét nghiệm ADN tiền sản để theo dõi tình hình sức khỏe thai nhi

Công thức ADN và cấu tạo hóa học của ADN là hai thông tin cơ bản nhất khi tìm hiểu về đại phân tử này. ADN mang nhiều ý nghĩa đặc biệt trong thông tin di truyền. Vì vậy, xét nghiệm ADN có những tác dụng nhất định trong cuộc sống con người. Hi vọng những kiến thức trên đây giúp bạn có những hình dung chung nhất về loại phân tử đặc biệt này.

Căn cứ vào đầu mà các nhà khoa học phân loại và đặt tên cho ARN