Chế độ chiếm nô là gì Lịch sử 10

Xã hội chiếm hữu nô lệ xuất hiện ở phương Đông sớm nhất, khoảng 3000 năm trước công nguyên ở các nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều quốc gia khác, ở châu Âu xã hội này xuất hiện muộn hơn. Xã hội chiếm hữu nô lệ Hy Lạp ra đời khoảng thế kỷ thứ VIII trước công nguyên, ở La Mã vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên và kết thúc vào thế kỷ thứ V sau công nguyên khi đế quốc Tây La Mã sụp đổ.

Nô lệ được xem như là một tài sản, bị mua bán như hàng hóa vào thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Ảnh minh họa

Các giai cấp chính của xã hội chiếm hữu nô lệ

Xã hội chiếm hữu nô lệ chia thành ba giai cấp chính:

  • Thứ nhất, giai cấp chủ nô, quý tộc là giai cấp thống trị áp bức bóc lột vì chúng chiếm giữ được tư liệu sản xuất.
  • Thứ hai, giai cấp nông dân công xã nông thôn và tầng lớp thị dân thành thị, ở Hy Lạp, La Mã tầng lớp này được gọi là bình dân. Nông dân và, thị dân có tài sản, có gia đình riêng nhưng bị nhà nước chủ nô bóc lột, khi phá sản có thể rơi xuống địa vị nô lệ.
  • Thứ ba, giai cấp nô lệ, nguồn chủ yếu từ các bộ lạc bại trận trong chiến tranh, không cùng huyết thống với giai cấp chủ nô, bị kẻ chiến thắng tước đoạt tài sản, ruộng đất, còn bản thân bị biến thành nô lệ. Theo pháp luật của nhà nước chủ nô, nô lệ không phải là con người, chỉ là tài sản đặc biệt của chủ nô, tài sản biết nói. Chủ nô có thể giết, đánh đập đến tàn phế hoặc đem nô lệ ra chợ mua bán, đổi chác. Một cuốn sách cổ của Trung Quốc có ghi rằng, một nô lệ khỏe mạnh đổi được hai con ngựa tốt. Nô lệ bị cưỡng bức lao động khổ sai nặng nhọc không kể giờ giấc, họ không được hưởng phần nào kết quả lao động của mình.

Phân chia đẳng cấp

Ngoài phân chia xã hội thành giai cấp, kẻ thống trị còn phân chia xã hội thành các đẳng cấp. Giai cấp chủ nô thuộc đẳng cấp quý tộc cao quý, nông dân thị dân thuộc đẳng cấp dưới, nô lệ chỉ là tài sản của chủ nô nên không không được xếp vào đẳng cấp nào. Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, khái niệm nhân dân không có nô lệ.

Sự phân chia xã hội thành đẳng cấp nặng nề nhất là Ấn Độ [chế độ chủng tính Varna]. Sự phân chia xã hội thành đẳng cấp theo giải thích của giai cấp thống trị thì đó là theo ý muốn của thần thánh vĩnh viễn không thay đổi được. Thực ra đẳng cấp được phân chia để nhằm củng cố hơn nữa địa vị của giai cấp thống trị, nó cũng bắt nguồn như nguồn gốc giai cấp.

Các mô hình nhà nước thời kỳ chiếm hữu nô lệ

Trong xã hội nô lệ, khi cộng đồng thị tộc dựa trên quan hệ huyết thống tan rã thì ở Hy Lạp, La Mã hình thành cộng đồng bộ tộc, vì nhà nước cai trị dân cư theo khu vực hành chính và thêm nhiều yếu tố khác làm xáo trộn dân cư. Bộ tộc là cộng đồng người có sự thống nhất ban đầu về kinh tế, văn hóa và lãnh thổ, một cộng đồng cao hơn cộng đồng thị tộc.

Nhưng ở châu Á, khi công xã nguyên thủy tan rã, hình thành nhà nước đầu tiên thì dân tộc quốc gia cũng ra đời. Trong nhiều tác phẩm kinh điển của mình, chính C.Mác và Ph.Ăngghen ngoài luận chứng về một dân tộc quốc gia tư sản ở châu Âu thì các ông cũng cho rằng, có một dân tộc tiền tư bản và thời điểm ra đời dân tộc này khi mà nhà nước đầu tiên ra đời, khi mà công xã nguyên thủy tan rã.

Đặc trưng chung của nhà nước là cai trị dân cư theo khu vực hành chính và hình thành nên bộ máy quyền lực công cộng, có hai chức năng chính là đối nội và đối ngoại. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử ra đời khác nhau mà hình thức nhà nước châu Á và Hy Lạp – La Mã khác nhau. Ở các nước phương Đông, thiết chế chính trị của nhà nước chiếm hữu nô lệ là quân chủ chuyên chế tập quyền, trong khi đó Hy Lạp lại thiết lập nhà nước Cộng hòa dân chủ chủ nô, ở La Mã là nhà nước Cộng hòa quý tộc chủ nô. Trong thiết chế quân chủ chuyên chế tập quyền chỉ có nhà vua nắm quyền lực, ngai vàng là do kế vị và nắm quyền lực suốt đời. Trong thiết chế cộng hòa, quyền lực trong tay một tập thể, do một tập thể rộng lớn hơn bầu ra và nắm quyền có nhiệm kỳ. Đó là sự khác nhau căn bản giữa thiết chế cộng hòa và quân chủ. Dù thiết chế chính trị có khác nhau nhưng nhà nước nào cũng phải đầy đủ ba bộ phận cơ bản: bộ máy hành chính quan liêu đông đúc; đội ngũ trí thức, tăng lữ; những cơ quan sức mạnh gồm quân đội cảnh sát…

Nhà nước chủ nô đã đóng vai trò đắc lực phục vụ giai cấp và phục vụ xã hội. Vì thế, trong xã hội chiếm hữu nô lệ lực lượng sản xuất phát triển, văn hóa vật chất và phi vật chất đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Các quốc gia cổ đại Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp, La Mã trở thành những trung tâm của nền văn minh thế giới cổ đại, những nền văn minh này đã đặt nền tảng cho nền văn hóa về sau của các dân tộc này và ảnh hưởng lớn đến các dân tộc khác.

Chiến tranh

Xuất hiện chiến tranh với mục đích bóc lột, thống trị. Ảnh minh họa

Khi xã hội có giai cấp và nhà nước thì chiến tranh bây giờ mới đúng nghĩa là biện pháp vũ lực phục vụ cho công cuộc bành trướng quyền lực, mở rộng lãnh thổ, tức là chiến tranh đã phục vụ cho mục đích chính trị. Giai cấp thống trị chủ nô tham lam không chỉ bóc lột cư dân trong lãnh thổ của mình mà còn tiến hành các cuộc chiến tranh cướp đoạt đất đai xây dựng nên những đế quốc rộng lớn, thống trị, bóc lột các dân tộc khác.

Đó là những cuộc chiến tranh của các Pharaông Ai Cập xâm chiếm Cận Đông, Bắc Phi; chiến tranh của vương quốc Babylon chinh phục Lưỡng Hà; chiến tranh của đế quốc Ba Tư chinh phục Tiểu Á, Cận Đông; của đế quốc Maxêđônia xâm lược khu vực Địa Trung Hải và phương Đông; của Nhà nước La Mã để xây dựng nên một đế quốc rộng lớn từ Tây Âu đến Bắc Phi.

Xu hướng phân liệt và thống nhất trong một quốc gia cũng dẫn tới những cuộc chiến tranh tương tàn trong nội bộ. Nội chiến trong quốc gia cổ Ấn Độ giữa các tiểu vương quốc trong nhiều giai đoạn lịch sử. Cục diện Xuân thu Chiến quốc ở Trung Quốc suốt gần 500 năm trời để tranh giành quyền bá chủ gây nên núi xương sông máu. Nội chiến ở Hy Lạp cổ đại giữa các thành bang do Athens đứng đầụ với các thành bang do Xpác đứng đầu để tranh giành quyền lợi chính trị và kinh tế ở bán đảo. Các cuộc nội chiến đó có thể đưa đất nước tới thống nhất nhưng cũng có thể làm cho quốc gia suy yếu tạo điều kiện cho các thế lực bên ngoài nhòm ngó xâm lược.

Đấu tranh giai cấp

Mâu thuẫn cơ bản trong xã hội chiếm hữu nô lệ là mâu thuẫn giữa chủ nô và nô là dẫn tới cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, nô lệ khởi nghĩa chống lại nhà nựớc và giai cấp chủ nô. Khởi nghĩa của Xpactacuxơ lãnh đạo vào thế kỷ thứ I trước công nguyên đã làm rung chuyển đế quốc La Mã, đẩy chế độ đó tới không thể cai trị như cũ được nữa.

Đấu tranh của nô lệ chống chủ nô là một trong những động lực góp phần giải thể chế độ đó để bước sang một hình thái kinh tế xã hội cao hơn – hình thái kinh tế xã hội phong kiến.

Hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ không phải bắt buộc đối với tất cả các dân tộc, nhiều dân tộc đã bỏ qua chế độ này, từ công xã nguyên thủy thẳng tiến lên chế độ phong kiến. Vì khi công xã nguyên thủy của quốc gia đó tan rã thì các quốc gia chung quanh đã hình thành và phát triển chế độ phong kiến như lịch sử của Mông Cổ, Nhật Bản, Nga, của các tộc người Giécmanh, …

Nhà nước chủ nô xuất hiện đầu tiên trên thế giới là Nhà nước Ai Cập cổ đại xuất hiện vào khoảng bốn nghìn năm trước Công nguyên, Nhà nước Xume [Sumer] cổ đại [vùng vịnh Pecxich] xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Nhà nước Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại cũng xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân của chủ nô về tư liệu sản xuất và nô lệ. Xã hội chiếm hữu nô lệ có hai giai cấp cơ bản và có sự mâu thuẫn đối kháng là chủ nô và nô lệ. Nô lệ được coi là công cụ biết nói và là một thứ hàng hoá mà chủ nô có thể mua bán trên thị trường. Xét về bản chất thì nhà nước chủ nô là bộ máy chuyên chính của giai cấp chủ nô, là công cụ thiết lập và bảo vệ quyền lực của giai cấp chủ nô, đồng thời, là bộ máy trấn áp giai cấp nô lệ và những người lao động tự do trong xã hội. Bộ máy của nhà nước chủ nô chủ yếu là bộ máy quân sự và cảnh sát. Phần lớn, các nhà nước chủ nô chưa có sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước.

Ở các nước phương Đông, hình thức chính thể của nhà nước chủ nô phổ biến là hình thức quân chủ chuyên chế với quyền lực vô hạn của vua hay quốc vương, hoàng đế. Ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, hình thức nhà nước phong phú hơn. Ngoài hình thức quân chủ chuyên chế, ở La Mã còn tồn tại hình thức cộng hòa quý tộc, ở Aten [Hy Lạp] còn có hình thức cộng hòa dân chủ mà ở đây đại hội nhân dân được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Sự ra đời, quá trình phát triển của các kiểu nhà nước chủ nô theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênỉn

Ở phương Tây, quá trình biến đổi của xã hội dẫn đến sự ra đời của nhà nước chủ nô diễn ra tương đối nhanh chóng, sở hữu tư nhân phát triển mạnh mẽ, mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt. Cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ tồn tại hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, bên cạnh đó là lực lượng dân tự do [giới bình dân]. Nô lệ có địa vị vô cùng thấp kém, họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chết. Cơ sở kinh tế xã hội của nhà nước chủ nô là nhân tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước cũng như quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô.

Hiện nay, quan điểm về sự phân chia kiểu đối với các nhà nước phương Đông chưa có sự thống nhất. Ngay cả thời điểm khỏi đầu và thời điểm kết thúc của kiểu nhà nước đầu tiên ở khu vực này hiện cũng còn tranh luận. Các nhà nước phương Đông xuất hiện tương đối sớm so với các nhà nước phương Tây, trong điều kiện lực lượng sản xuất còn tương đối thấp kém, quá trình biến đổi của xã hội dẫn tới việc hình thành nhà nước khá chậm chạp và kéo dài. Nhà nước xuất hiện nhưng công xã nông thôn [công xã láng giềng], tàn tích của chế độ thị tộc vẫn còn tồn tại. Trong một thời gian dài, nhà nước tồn tại và phát triển trên cơ sở đan xen giữa chế độ công hữu còn điều kiện để phát triển khá vững chắc với chế độ tư hữu mới hình thành, chưa phát triển lắm. Quan hệ sản xuất chủ yếu trong xã hội là quan hệ giữa nhà nước với thành viên công xã nông thôn. Nhà nước là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất nhưng kẻ trực tiếp chiếm hữu ruộng đất là các công xã nông thôn, công xã thay mặt cho nhà nước quản lí ruộng đất và chia cho thành viên trong công xã canh tác để nộp thuế cho nhà nước. Ở những nước này, số lượng nô lệ không nhiều, vai trò của nô lệ trong nền kinh tế nhìn chung khá hạn chế, nô lệ chủ yếu để hầu hạ phục dịch trong các gia đình quý tộc, quan lại hoặc thực hiện những công việc chung của công xã và nhà nước. Địa vị của nô lệ không đến nỗi thấp kém như ở các nước phương Tây, nô lệ có thể có gia đình riêng, có khi còn được coi như thành viên trong gia đình. Bộ phận đông đảo nhất trong xã hội là thành viên công xã nông thôn, họ là những người tự do, được công xã định kì chia đều ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước để tự canh tác và nộp thuế cho nhà nước. Như vậy, mặc dù có thể xếp vào cùng một kiểu, nhưng các nhà nước ở phương Đông và phương Tây có khá nhiều điểm khác biệt. Có thể nói, chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương Đông nhìn chung chưa phát triển và mang nhiều đặc trưng của chế độ nô lệ gia trưởng.

Mặc dù có rất nhiều hạn chế, tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, không thể phủ nhận được ý nghĩa lịch sử của nhà nước chủ nô. Dù sao, sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước chủ nô cũng là bước tiến của lịch sử nhân loại, nó tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá... của các xã hội sau này. Đúng như Ph. Ăngghen đã chỉ rõ:

“Không có chế độ nô ỉệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; không có che độ nô lệ thì không có Đe chế La Mã. Mà không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và Đe chế La Mã thì không có châu Âu hiện đại. Chúng ta không bao giờ được quên rằng tiền đề của toàn bộ sự phát triển kinh tế, chỉnh trị và trí tuệ của chủng ta là một trạng thái trong đó chế độ nỏ lệ cũng hoàn toàn cần thiết giống như nó được tất cả mọi người thừa nhận ”.

Trong suốt hàng nghìn năm tồn tại, các nhà nước chủ nô luôn tiến hành các cuộc chiến ữanh liên miên, chinh phạt, thôn tính lẫn nhau dẫn đến nhiều nhà nước bị xoá bỏ, thay vào đó là sự lớn mạnh của một số nhà nước khác. Tuy nhiên, nhà nước chủ nô tồn tại và phát triển trong điều kiện đối kháng gay gắt giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ cho nên nhất định nó phải bị diệt vong, nhường chỗ cho một kiểu nhà nước mới từng bước hình thành, nhà nước phong kiến.

Luật Minh Khuê [sưu tầm & biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề