Chiết khấu giấy to có giá của ngân hàng thương mại

Bài tập Nhóm tháng II – Luật Ngân hàng Nhóm 1 HS31B1LỜI NÓI ĐẦUHoạt động chiết khấu giấy tờ có giá là một trong những nghiệp vụ cấp tín dụng cổ điển của các ngân hang thương mại trên thế giớ, ra đời từ rất sớm và phát triển cho đến ngày nay. Nhưng ở nước ta, trong khoảng vài năm trở lại đây, hoạt động chiết khấu mới được pháp luật quan tâm và được triển khai trong thực tiễn hoạt động của các ngân hàng. Chiết khấu giấy tờ có giá là một khái niệm mới mẻ và lần đầu tiên được đề cập trong Luật các tổ chức tín dụng năm 1997. Việc ghi nhận hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá với tư cách là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng đã tạo ra cơ sở pháp lí ban đầu cho việc xác lập và thực hiện giao dịch này trên thực tế, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khi tham gia giao dịch. Để điều chỉnh môt cách chi tiết và hiệu quả hơn hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, các nhà làm luật để cụ thể hóa hoạt động này trong các văn bản luật và văn bản dưới luật. Đặc biệt với sự ra đời quy chế chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng đối với khách hang ban hành theo quyết định số 1325/2004-QĐ-NHNN ngày 15 tháng 10 năm 2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quy chế pháp lí dành cho nghiệp và chiết khấu rõ rang và cụ thể hơn. Tuy nhiên bên cành những điểm tích cực vẫn còn những điểm hạn chể nhất định cần khắc phục và hoàn thiện. Mặt khác, trong thực tiễn có rất nhiều học giả nghiên cứu hoạt động này dưới góc độ kinh tế học, chỉ đơn thuần tìm hiểu nó với tư cách là một nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng với những đặc thù mang tính chất kỹ thuất kinh tế, nhưng lại có rất ít các tài liệu nghiên cứu về bản chất pháp lí cũng như tính ưu việt của hoạt động này khiến cho các tổ chức tín dụng rất ít lựa chọn hình thức này để cấp tín dụng cho khách hàng. Do vậy, việc nghiên cứu để nắm vững và vận dụng một cách có hiệu quả những quy định pháp luật về hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá là rất cần thiết. Đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 1Bài tập Nhóm tháng II – Luật Ngân hàng Nhóm 1 HS31B1I. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1. Khái niệm chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụngChiết khấu giấy tờ có giá là một nghiệp vụ kinh doanh cổ điển của các ngân hành trên thế giới. Hoạt động này ra đời từ rất sớm và phát triển cho đến nay, gắn liền với lịch sử phát triển của các ngân hành thương mại. Trong giai đơạn đầu, hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá chỉ nhằm vào đối tượng duy nhất là thương phiếu. Vì thế, nói đến hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá trong giai đoạn này người ta thường hiểu rằng đó là việc chiết khấu các thương phiếu do các thương nhân phát hành. Về sau, do nhu cầu phát triển của hoạt động thương mại, các thương nhân còn phát hành nhiều loại giấy tờ có giá khác nữa ngoài thương phiếu như trái phiếu và tín phiếu doanh nghiệp, các chứng chỉ tiền gửi ngân hàng, sổ tiết kiệm… Sự gia tăng hoạt động thương mại đã kéo nhu cầu đa dạng hóa các loại giấy tờ có giá và do đó cũng góp phần mở rộng đối tượng giao dịch trong nghiệp vụ chiết khấu khác của ngân hàng.Ban đầu, nghiệp vụ chiết khấu của các ngân hàng chỉ được thực hiện đối với các thương phiếu (giấy nợ được lập từ quan hệ tín dụng thương mại-mua bán chịu hàng hóa giữa các thương nhân). Về sau, do nhu cầu gia tăng và đa dạng hóa các hoạt động thương mại, nhiều loại giấy tờ có giá cũng được phát hành bởi các chủ thể như chính phủ, các công ty hay các ngân hàng và hầu hết những giấy tờ có giá này cũng được các ngân hàng chấp nhận chiết khấu như một hình thức cấp tín dụng cho người sở hữu chúng. Bằng cách chiết khấu, các ngân hàng ứng trước tiền cho người sở hữu giấy tờ có giá để nhận về mình quyền sở hữu các giấy tờ có giá đó và đến hạn thì xuất trình chúng để đổi tiền của người mắc nợ theo giấy tờ có giá.Ở Việt Nam, nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá tuy mới được du nhập trong khoảng gần mười năm trở lại đây nhưng các nhà làm luật đã làm kịp thời thể chế hóa nghiệp vụ này bằng các quy định rất cụ thể trong pháp luật thực định. Trên thực tế, một số ngân hàng ở Việt nam cũng mới chỉ bắt đầu triển khai khi áp dụng nghiệp vụ này trong vài năm nay và kinh nghiệm thu được từ hoạt động này còn ở mức độ hạn chế.2. Đặc trưng của hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá. Nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng tuy có nhiều điểm tương đồng với các nghiệp vụ tín dụng khác bản than nó cũng hàm chứa những đặc trưng cơ bản sau đây:Thứ nhất, chiết khấu giấy tờ có giá luôn có bản chất là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn. Tính chất ngắn hạn của nghiệp vụ tín dụng náy thể hiện ở 2Bài tập Nhóm tháng II – Luật Ngân hàng Nhóm 1 HS31B1chỗ, khách hàng chỉ có thể đem chiết khấu ở ngân hàng những giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán dưới một năm. Quy định này nhằm tránh cho ngân hàng nhận chiết khấu những rủi ro quá lớn nếu họ chấp nhận chiết khấu những rủi ro quá lớn nếu họ chấp nhận chiết khấu cho cả nhưng giấy tờ có giá còn thời hạn thanh toán quá dài (trừ một năm trở lên) và do đó tránh cho nền kinh tế khỏi những biến cố không đáng có do sự đổ vỡ của các ngân hàng.Thứ hai, chiết khấu một loại cho vay trực tiếp đối với người sở hữu giấy tờ có giá nhưng lại là hình thức cho vay gián tiếp đối với người mắc nợ theo giấy tờ có giá. Thồng qua việc chiết khấu giấy tờ có giá, ngân hàng cung cấp một khoản vốn cho người sở hữu giấy tờ có giá, ngan hàng cung cấp cho một khoản vốn người sở hữu giấy tờ có giá trên cơ sở quan hệ tín dụng đã tồn tại trước đó giữa người sở hữu giấy tờ có giá với người mắc nợ theo giấy tờ có giá. Nếu một thương nhân biết rằng khoản nợ mình cho vay hay khoản bán chịu hàng hóa cho người khác có thể để dùng thu hồi lại sau đó bằng cách hiện tái-chiết khấu cho một ngân hàng thì chính thương nhân này cũng có thể dễ dàng chấp nhận cho vay hay người bán chịu hàng hóa cho người khác.Thứ ba, như đã nêu tại phần khái niệm, hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá là một hình thức vay dựa trên việc chuyển nhượng trái phiếu. Có cùng bản chất với hình thức chuyển nhượng khoản cho vay nghề nghiệp, khách hàng là chủ sở hữu một trái quyền có kỳ hạn và có thể yêu cầu ngân hàng cho vay một khoản tín dụng cho mình bằng cách chuyển nhượng trái phiếu đó cho ngân hàng, với điều kiện bị khâú trừ đi một phần lợi tức chiết khấu.Tuy nhiên, nghiệp vụ chiết khấu vẫn khác biệt với quan hệ chuyển nhượng các khoản cho vay nghề nghiệp ở chỗ, giao dịch chiết khấu đồi hỏi khách hàng phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu các chứng từ có giá cho ngân hàng theo thể thức chặt chẽ do luật định, trong khi đó giao dịch chuyển nhượng các khoản cho vay nghề nghiệp không bắt buộc khách hàng làm thủ tục này mà chỉ cần lập bảng kê các khoản nợ mà khách hàng có ý định chuyển nhượng cho ngân hàng và chuyển giao bảng kê khai đó cho ngân hàng là đủ. Còn ngân hàng sẽ có trách nhiệm trả tiền cho người chủ nợ mới là ngân hàng.Thứ tư, nhiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá có khác với nghiệp vụ tín dụng thấu chi ở chỗ, chiết khấu có độ an toàn cao hơn so với thấu chi và khách hàng được chiết khấu không phải là người mắc nợ chính của ngân hàng, trong khi khách hàng được thấu chi lại luôn đóng vai trò là người mắc nợ của ngân hàng, sau khi họ đã sử dụng số tiền trong tài khoản thanh toán 3Bài tập Nhóm tháng II – Luật Ngân hàng Nhóm 1 HS31B1vượt quá số dự kiến có theo sự đồng ý của ngân hàng, trong hạn mức thấu chi đã thỏa thuận.II. HỢP ĐỒNG CHIẾT KHẤU GIẤY TỜ CÓ GIÁ1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.Xét trên phương diện pháp lý, chiết khấu giấy tờ có giá ở tổ chức tín dụng là một giao dịch thương mại thể hiện mối quan hệ mua bán giấy tờ có giá mà hính thức pháp lý của quan hệ đó chính là một hợp đồng với tên gọi: hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.Mặc dù các văn bản pháp luật không qua định cụ thể thế nào là một hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá, nhưng xuất phát từ bản chất chung của một hợp đồng và những đặc trưng riêng của hoạt động chiết khấu, ta có thể định nghĩa chiết khấu giấy tờ có giá như sau: hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (người nhận chiết khấu) với tổ chức, cá nhân (người xin chiết khấu – khách hàng) theo đó tổ chức tín dụng thỏa thuận mua giấy tờ có giá của khách hàng trước kì hạn thanh toán, với điều kiện khấu trừ ngay một số tiền nhất định tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên mệnh giá của giấy tờ có giá được chiết khấu, trong thời gian chiết khấu.Từ định nghĩa trên ta thấy hợp đồng chiết khấu thể hiện những đặc điểm sau:Thứ nhất, về chủ thể tham gia kí kết hợp đồng: một bên bao giờ cũng là tổ chức tín dụng – bên nhận chiết khấu và bên kia là tổ chức, cá nhân – bên đề nghị chiết khấu, thỏa mãn những điều kiện nhất định do pháp luật quy định.Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng: đó là các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán được các bên thỏa thuận mua bán và ghi rõ trong hợp đồng. Hay nói cách khác, cái mà các bên trong hợp đồng muốn hướng tới chính là trái quyền (quyền đòi nợ) của người sở hữu các giấy tờ có giá đó đối với người thụ trái ( người phải trả ) khi giấy tờ có giá đến hạn thanh toán.Thứ ba, về hình thức pháp lý, hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá bao giờ cũng phải dược lập thành văn bản.Thứ tư, về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ, trong hợp đồng chiết khấu, nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu các giấy tờ có giá của khách hàng cho tổ chức tín dụng bao giờ cũng được thực hiện trước, sau đó, tổ chức tín dụng trả một số tiền cho khách hàng bằng tiền mặt hoặc chuyển sang tài khoản tiền gửi của họ. Kể từ thời điểm được chuyển giao quyền sở hữu đối 4Bài tập Nhóm tháng II – Luật Ngân hàng Nhóm 1 HS31B1với giấy tờ có giá, tổ chức tín dụng chính thức được thế vào vị trí của người có quyền - khách hàng để thực hiện quyền yêu cầu - quyền đòi tiền đối với người có nghĩa vụ phải thanh toán cho giấy tờ có giá khi nó đến hạn thanh toán. Tùy từng loại giấy tờ có giá mà xác định người phải trả tiền là ai (có thể là người phát hành, người chuyển nhượng hay người bảo lãnh…)2. Các loại hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.Căn cứ vào phương thức chiết khấu, có thể chia hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá thành hai loại: hợp đồng chiết khấu toàn bộ thời hạn và hợp dồng chiết khấu có thời hạn. Hợp đồng chiết khấu toàn bộ thời hạn là sự thỏa thuận của tổ chức tín dụng và khách hàng về việc mua hẳn các giấy tờ có giá. Như vậy, với loại hợp đồng này, khách hàng phải chuyển giao ngay quyền sở hữu các giấy tờ có giá đó khi được tổ chức tín dụng chấp nhận chiết khấu, kể từ thời điểm khách hàng hoàn thành thủ tục chuyển giao quyền sở hữu các giấy tờ có giá đó, tổ chức tín dụng là chủ sở hữu hợp pháp đối với các giấy tờ có giá và được hưởng toàn bộ quyền lợi phát sinh từ giấy tờ có giá đó. Tổ chức tín dụng có thể tái chiết khấu tại các tổ chức tín dụng khác hoặc tại Ngân hàng Trung ương vào bất cứ lúc nào trước khi các giấy tờ có giá đó đến hạn thanh toán mà không vi phạm các điều khoản của hợp đồng. Khi tiến hành trả tiền cho khách hàng, số tiền mà tổ chức tín dụng sẽ trả bằng mệnh giá ghi trên giấy tờ có giá trừ đi lãi chiết khấu và cả chi phí khác. Lãi chiết khấu sẽ được tính tương ứng với toàn bộ thời hạn còn lạ của giấy tờ có giá kể từ khi được tổ chức tín dụng chấp nhận chiết khấu cho đến ngày đáo hạn.Hợp đồng chiết khấu có thời hạn là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng với khách hàng về việc mua các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán và trong hợp đồng có điều khoản cam kết khách hàng sẽ mua lại giấy tờ có giá đã được chấp nhận chiết khấu trong một thời hạn nhất định trước khi nó đến hạn thanh toán, với giá cả do các bên thỏa thuận trước. Thời hạn này được coi là thời hạn chiết khấu.Theo Khoản 4 Điều 3, Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu, thời hạn chiết khấu là khoảng thời gian tính từ ngày giấy tờ có giá được tổ chức tín dụng nhận chiết khấu đến ngày khách hàng có nghĩa vụ thực hiện cam kết mua lại giấy tờ có giá đó. Như vậy, theo Điểm b, Khoản 2 Điều 8 Quy chế chiết khấu, tái chiết khấu, tổ chức tín dụng chỉ trở thành chủ sở hữu hợp pháp đối với các giấy tờ có giá khi hết thời hạn cam kết trong hợp đồng mà khách hàng không thực hiện việc mua lại các giấy tờ có giá đó. Với điều khoản cam kết mua lại, có thể hiểu rằng, nếu tổ chức tín dụng muốn chuyển giao quyền sở hữu các giấy tờ có giá đó trong thời hạn chiết khấu thì quyền 5Bài tập Nhóm tháng II – Luật Ngân hàng Nhóm 1 HS31B1ưu tiên mua sẽ thuộc về khách hàng, sau đó mới đến cá tổ chức tín dụng khác. Điều đó cũng có nghĩa là nếu trong thời hạn cam kết mua lại mà khách hàng không thực hiện việc mua lại thì họ sẽ mất quyền ưu tiên mua lại và khi đó, tổ chức tín dụng có quyền chuyển nhượng giáy tờ có giá đó cho bất kì ai mà mình mong muốn.Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với bản chất của hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá, theo đó, tổ chức tín dụng sẽ có quyền sở hữu các giấy tờ có giá ngay sau khi khách hàng hoàn thành thủ tục chuyển nhượng các giấy tờ có giá đó cho mình và hệ quả là tổ chức tín dụng sẽ có quyền định đoạt ( trong đó có quyền chuyển nhượng ) các giấy tờ có giá đó cho người khác.3. Chủ thể của hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá.Chiết khấu giấy tờ có giá ở tổ chức tín dụng thực chất là một quan hệ mua bán giấy tờ có giá, được thể hiện dười hình thức pháp lý là hợp đồng mua bán giấy tờ có giá với thành phẩn chủ thể bao gồm bên nhận chiết khấu và bên được chiết khấu.+ bên nhận chiết khấu.Là các tổ chức tín dụng thỏa mãn các diều kiện nhất định do pháp luật quy định. Để tham gia vào hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá, tổ chức tín dụng phải thỏa mãn những điều kiện pháp lý sau:Thứ nhất, tổ chức tín dụng muốn thực hiện hoạt động chiết khấu phải có giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng do Ngân hàng nhà nước cấp. Để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, tổ chức tín dụng phải thỏa mãn những điều kiện quy định tại Điều 22 và Điều 23 Luật các tổ chức tín dụng vì thực chất, hoạt động chiết khấu giấy tờ có giá là một trong những nội dung của hoạt động ngân hàng.Thứ hai, để được tiến hành kinh doanh, tổ chức tín dụng phải có giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh nghiệp vụ chiết khấu giấy tờ có giá vì tổ chức tín dụng cũng là một doanh nghiệp nên thuộc phạm vi áp dụng của Luật doanh nghiệp.Thứ ba, tổ chức tín dụng phải có điều lệ được Ngân hàng nhà nước chuẩn y. Bản điều lệ này chính là một trong những tài liệu pháp lý cơ bản phản ánh các yếu tố cấu thành năng lực pháp lý của tổ chức tín dụng khi hành nghề trên thương trường.Thứ tư, giống như bất cứ một doanh nghiệp nào khác, tổ chức tín dụng phải có người đại diện hợp pháp, đủ năng lực và thẩm quyền.6