Cuối thế kỷ 19 trung Quốc và nhật bản đã thực hiện những cuộc cải cách nào

Answers [ ]

  1. 1

    Ở Trung Quốc có Cách Mạng Tân Hợi

    Ở Nhật có cải cách Minh Trị [Duy Tân Minh Trị nghe cho nó hay :V ]

    2

    Cải cách ở TQ thất bại vì :

    -Vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của phái thủ cựu,đứng đầu là Từ Hi Thái Hậu

    -Vua Quang Tự chỉ là bù nhìn,không có quyền lực thực sự

    -Phong trào chỉ phát triển chủ yếu ở tầng lớp quan lại,sĩ phu có tư tưởng tiến bộ,không nhận được sự ủng hộ của đông đảo nhân dân

    -Kinh tế tư bản chủ nghĩa ở TQ kém phát triển

    Nhật Bản thành công vì:

    -Người tiến hành cải cách Minh Trị,nắm trong tay quyền lực tuyệt đối và là người có tư tưởng duy tân tiến bộ

    -Được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng nhân dân,đặc biệt là tầng lớp samurai

    -Trước khi tiến hành cải cách,kinh tế tư bản chủ nghĩa ở Nhật Bản tương đối phát triển mạnh

Mục lục

Tên gọiSửa đổi

Tại Trung QuốcSửa đổi

Ở Trung Quốc, cuộc chiến được biết đến nhiều nhất với tên gọi "Chiến tranh kháng Nhật" [giản thể: 抗日战争; phồn thể: 抗日戰爭], rút gọn thành "Kháng Nhật" [tiếng Trung: 抗日] hoặc "Kháng chiến" [giản thể: 抗战; phồn thể: 抗戰]. Nó còn có tên gọi khác là "Kháng chiến tám năm" [giản thể: 八年抗战; phồn thể: 八年抗戰]. Tuy nhiên vào năm 2017, Bộ Giáo dục Trung Quốc ban hành một chỉ thị đặt tên cho cuộc chiến trong sách giáo khoa là "Kháng chiến mười bốn năm" [giản thể: 十四年抗战; phồn thể: 十四年抗戰] để phản ánh cuộc xung đột trước đó với Nhật Bản từ năm 1931.[27][28] Cuộc kháng chiến này cũng được coi như một phần của "Chiến tranh chống phát xít toàn cầu", theo cách mà Đảng Cộng sản Trung Quốc và chính phủ CHND Trung Hoa nhìn nhận về Chiến tranh thế giới thứ hai.[29][30]

Tại Nhật BảnSửa đổi

Ngày nay tại Nhật Bản, tên gọi phổ biến nhất của cuộc chiến là "Chiến tranh Nhật – Trung" [日中戦爭, Nitchū Sensō?] do tính khách quan của nó. Khi cuộc xâm lược vào Trung Quốc bản thổ bắt đầu vào tháng 7 năm 1937 gần Bắc Kinh, chính phủ Nhật Bản gọi nó là "Sự biến Hoa Bắc" [tiếng Nhật: 北支事變 / 華北 事變, Rōmaji: Hokushi Jihen / Kahoku Jihen] và khi Trận Thượng Hải nổ ra vào tháng sau, nó đã đổi tên thành "Sự biến Trung Quốc" [支那事變, Shina Jihen?].[31]

Nhật Bản dùng từ "sự biến" [事變, jihen?] vì cả hai quốc gia đều không có tuyên chiến chính thức. Theo quan điểm của Nhật Bản thì việc thu hẹp tên gọi xung đột có lợi trong chuyện ngăn chặn sự can thiệp từ các quốc gia khác, nhất là Liên hiệp Anh và Hoa Kỳ vì họ là nguồn cung cấp dầu mỏ và thép chính cho đất nước. Một động thái chính thức của xung đột có thể dẫn đến việc Mỹ cấm vận theo Đạo luật Trung lập trong những năm 1930.[32][33] Ngoài ra, do tình trạng chính trị bất ổn của Trung Quốc, Nhật Bản thường tuyên bố Trung Quốc không còn là thực thể chính trị dễ nhận biết để có thể tuyên chiến.[34]

Theo chính sách tuyên truyền của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc xâm lược Trung Quốc được xem như một cuộc "Thánh chiến" [聖戦[聖戰], seisen?]. Đó là bước đầu tiên của khẩu hiệu "Bát hoành nhất vũ" [八紘一宇, Hakkō ichiu?, tám dây buộc dưới một mái hiên] do Thủ tướng Nhật Bản Konoe Fumimaro tuyên bố vào ngày 8 tháng 1 năm 1940.[35] Khi cả hai bên chính thức tuyên chiến vào tháng 12 năm 1941, tên cuộc chiến được thay bằng "Chiến tranh Đại Đông Á" [大東亞戰爭, Daitōa Sensō?].[36]

Mặc dù chính phủ Nhật Bản vẫn sử dụng thuật ngữ "Sự biến Trung Quốc" [Shina Jihen] trong nhiều tài liệu chính thức,[37] phía Trung Quốc coi từ "Shina" là xúc phạm. Do đó, truyền thông Nhật Bản thường gọi cuộc chiến bằng tên khác như "Sự kiện Nhật – Hoa" [日支事變[日華事變], Nikka Jiken/Nisshi Jiken?].

Cái tên "Chiến tranh Trung – Nhật lần thứ hai" không được sử dụng phổ biến ở Nhật vì cuộc chiến với nhà Thanh vào năm 1894 mang tên "Chiến tranh Nhật – Thanh" [日清戦争, Nisshin Sensō?] chứ không phải là Chiến tranh Trung – Nhật lần thứ nhất.[36]

Bối cảnh lịch sửSửa đổi

Nguồn gốc của chiến tranh Trung – Nhật có thể là Chiến tranh Thanh – Nhật diễn ra trong hai năm 1894–1895, khi Trung Quốc dưới triều Thanh bị Nhật Bản đánh bại phải nhường Đài Loan và công nhận Triều Tiên độc lập qua Hiệp ước Shimonoseki [Mã Quan]. Nhật Bản cũng sáp nhập quần đảo Điếu Ngư / Senkaku vào đầu năm 1895 khi kết thúc chiến tranh trong thắng lợi [Nhật Bản tuyên bố quần đảo không có người sinh sống vào năm 1895].[38][39][40] Triều Thanh đang trong buổi hoàng hôn sụp đổ bởi các cuộc khởi nghĩa bên trong và chủ nghĩa đế quốc bên ngoài, trong lúc Nhật Bản đã trở thành một cường quốc sau công cuộc Minh Trị Duy tân.[41] Khi sức mạnh quốc gia tăng lên thì Nhật Bản trở nên ủng hộ chủ nghĩa đế quốc, chủ trương bành trướng lãnh thổ, đánh chiếm thuộc địa tại châu Á để có thêm nguồn tài nguyên phục vụ kinh tế trong nước.

Trung Hoa Dân quốcSửa đổi

Trung Hoa Dân quốc được thành lập năm 1912 sau cuộc cách mạng Tân Hợi lật đổ hoàng triều Trung Quốc cuối cùng, triều đại nhà Thanh. Nước Cộng hòa non trẻ thậm chí còn trở nên suy yếu hơn bởi sự xung đột của các quân phiệt. Một vài sứ quân thậm chí còn liên kết với nước ngoài nhằm nỗ lực quét sạch các đối thủ khác. Ví dụ, quân phiệt Trương Tác Lâm của Mãn Châu hợp tác rộng rãi với Nhật để nhận viện trợ quân sự và kinh tế.[42]

Cho tới đầu thập niên 1930, Trung Quốc trên thực tế bị chia thành 5 vùng kiểm soát bởi các tướng quân phiệt[43][44] Phe Quốc dân đảng kiểm soát khu vực xung quanh Nam Kinh và Thượng Hải, trong khi phe Quảng Tây kiểm soát Hồ Bắc, Hồ Nam và Quảng Tây. Tây Bắc quân của Phùng Ngọc Tường tiếp tục kiểm soát Thiểm Tây, Hà Nam và một phần của Sơn Đông và Trực Lệ, trong khi Diêm Tích Sơn kiểm soát Sơn Tây, Bắc Kinh và khu vực xung quanh Thiên Tân.[43] Trương Học Lương tiếp tục kiểm soát Mãn Châu như một quốc gia gần như độc lập. Các quân phiệt địa phương ở Tứ Xuyên, Vân Nam và Quý Châu vẫn tiếp tục cát cứ.[43][45] Trung Quốc đất rộng dân đông, giàu tài nguyên nhưng lại đang bị suy yếu và chia cắt, là mục tiêu hấp dẫn mà Nhật Bản nhắm đến.

21 yêu sáchSửa đổi

Năm 1915, Nhật đưa ra 21 yêu sách nhằm tăng cường quyền lợi chính trị và thương mại ở Trung Quốc được Viên Thế Khải chấp thuận.[46] Tiếp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nhật giành lấy khu vực ảnh hưởng của Đế quốc Đức ở Sơn Đông,[47] dẫn đến các phong trào biểu tình chống Nhật và biểu tình quần chúng trên khắp Trung Quốc. Trung Quốc dưới thời chính phủ Bắc Dương còn bị chia cắt không thể chống lại sự xâm nhập của nước ngoài cho đến Chiến tranh Bắc phạt năm 1926 – 1928, do Trung Quốc Quốc dân đảng đối lập ở Quảng Châu tiến hành với sự giúp đỡ hạn chế của Liên Xô.[48]

Sự biến Tế NamSửa đổi

Bài chi tiết: Sự biến Tế Nam

Quốc dân Cách mệnh Quân do Trung Hoa Quốc dân Đảng thành lập đã tràn qua miền nam và miền trung Trung Quốc cho đến khi bị chặn lại ở Sơn Đông, nơi các cuộc đối đầu với quân đồn trú Nhật leo thang thành xung đột vũ trang. Xung đột này thường được gọi là Sự biến Tế Nam năm 1928. Trong khoảng thời gian đó, quân Nhật đã giết một số quan chức và pháo kích Tế Nam. Khoảng 2.000 đến 11.000 thường dân Trung Quốc và Nhật Bản thiệt mạng trong cuộc xung đột này. Mối quan hệ giữa chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc và Nhật Bản trở nên tồi tệ nghiêm trọng do hậu quả của sự biến Tế Nam.[49][50]

Xung đột Trung – XôSửa đổi

Bài chi tiết: Xung đột Trung-Xô 1929

Xung đột từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1929 ở tuyến đường sắt phía đông Trung Quốc càng làm gia tăng căng thẳng ở vùng đông bắc, dẫn đến Sự kiện Phụng Thiên và cuối cùng là Chiến tranh Trung – Nhật. Chiến thắng của Hồng quân Liên Xô trước lực lượng của Trương Học Lương không chỉ khẳng định lại quyền kiểm soát của Liên Xô đối với tuyến đường sắt ở Mãn Châu mà còn bộc lộ điểm yếu của quân đội Trung Quốc, điều mà Đạo quân Quan Đông của Nhật nhanh chóng nhận ra.[51]

Màn thể hiện của Hồng quân Liên Xô cũng khiến quân Nhật choáng váng. Mãn Châu là trọng tâm trong chính sách Đại Đông Á của Nhật Bản. Chiến thắng năm 1929 của Hồng quân Liên Xô đã làm lung lay tận gốc chính sách đó và làm vấn đề Mãn Châu tái diễn. Đến năm 1930, Đạo quân Quan Đông nhận ra là họ sẽ đối mặt với Hồng quân đang dần mạnh lên. Giờ hành động ngày một đến gần buộc kế hoạch chinh phục vùng Đông Bắc của Nhật Bản được đẩy nhanh.[52]

Đảng Cộng sản Trung QuốcSửa đổi

Năm 1926, liên minh Tưởng Giới Thạch - Đảng cộng sản tìm cách thống nhất Trung Quốc. Nhưng tháng 4 năm 1927, Tưởng Giới Thạch bất ngờ tấn công nhằm tiêu diệt Đảng cộng sản, giết hại hàng ngàn người với sự giúp sức từ các băng đảng ở Thượng Hải. Cuộc tàn sát đã khơi mào một cuộc nội chiến với Đảng cộng sản.

Năm 1930, Trung Nguyên Đại chiến nổ ra khắp Trung Quốc với sự tham chiến giữa các tướng quân phiệt từng chiến đấu trong liên minh với Quốc dân Đảng, và Chính phủ Nam Kinh dưới thời Tưởng. Đảng Cộng sản Trung Quốc trước đây đã công khai chiến đấu chống lại chính quyền Nam Kinh sau vụ thảm sát Thượng Hải năm 1927 và tiếp tục phát triển lực lượng trong cuộc nội chiến này.[53] Chính phủ Quốc dân đảng ở Nam Kinh quyết định tập trung toàn lực trấn áp Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua các Chiến dịch bao vây, theo chủ trương “bình định nội bộ trước, sau đó mới kháng cự bên ngoài” [tiếng Trung: 攘外 必先 安 內, nhương ngoại tất tiên yên nội].[54]

Nhật xâm lược Mãn Châu và Hoa BắcSửa đổi

Bài chi tiết: Nhật Bản xâm lược Mãn Châu và Bắc phạt
Phát phương tiện
Khởi đầu chiến tranh
Quân đội Nhật Bản tiến vào Thẩm Dương trong Sự kiện Phụng Thiên

Nhật Bản có tham vọng xâm lược Mãn Châu từ lâu. Ngành công nghiệp Nhật Bản đang rất cần nguồn tài nguyên thiên nhiên lớn, và dân số 30 triệu người của Mãn Châu hứa hẹn sẽ là thị trường tuyệt vời cho xuất khẩu hàng hóa của Nhật Bản trong bối cảnh phương Tây đánh thuế hàng hóa cao dưới tác động của cuộc Đại khủng hoảng. Mặt khác, một trong những mục tiêu chính của quân Nhật là tiếp cận được sông Armur, giáp với Mãn Châu về phía bắc làm đường ranh giới tự nhiên.[55] Lục quân Đế quốc Nhật Bản bắt đầu chiếm đóng một phần đất nước sau sự kiện Phụng Thiên.[56][57] Vào tháng 2 năm 1932, nhà nước bù nhìn Mãn Châu quốc của Phổ Nghi, vị hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc được thành lập.[54][58] Quân đội Trung Quốc không đủ mạnh để chống lại Nhật Bản nêu đã cầu viện Hội Quốc Liên. Theo báo cáo Lytton thì quân Nhật đã xâm nhập vào Mãn Châu nên Nhật bị gây áp lực buộc phải rút lui khỏi Hội Quốc Liên. Tuy nhiên, không có quốc gia nào phát động chiến dịch chống lại Nhật Bản vào thời điểm đó trên tinh thần của chính sách hòa giải.[59][60]

Vào ngày 28 tháng 1 năm 1932, quân đội Trung Quốc và Nhật Bản đã chiến đấu quyết liệt để tranh giành quyền kiểm soát thành phố Thượng Hải.[61] Cuộc đụng độ cuối cùng kết thúc bằng việc phi quân sự hóa, cấm Trung Quốc dàn quân ở thành phố. Tại Mãn Châu quốc có diễn ra một chiến dịch nhằm đánh bại Quân tình nguyện kháng Nhật, một tổ chức lập ra từ sự phẫn nộ lan rộng với chính sách không kháng chiến chống Nhật của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc[62]

Sự bành trướng lãnh thổ của Đế quốc Nhật Bản

Năm 1933, quân Nhật tấn công vùng Vạn Lý Trường Thành. Thỏa thuận Đường Cô sau đó được lập ra trao cho Nhật quyền kiểm soát tỉnh Nhiệt Hà cũng như một khu phi quân sự giữa Vạn Lý Trường Thành và khu vực Bắc Kinh-Thiên Tân.[63]

Nhật Bản ngày càng khai thác các xung đột nội bộ của Trung Quốc để làm giảm sức mạnh của các đối thủ yếu thế hơn. Sau nhiều năm Bắc phạt, quyền lực chính trị của chính phủ Quốc dân đảng chỉ giới hạn ở khu vực đồng bằng Trường Giang. Các khu vực khác của Trung Quốc về cơ bản nằm trong tay các quân phiệt địa phương của Trung Quốc.[43][45] Nhật Bản tìm kiếm sự hợp tác từ nhiều Hán gian và giúp họ thiết lập nên chính phủ thân Nhật. Chính sách này được gọi là Đặc thù hóa Hoa Bắc [tiếng Trung: 華北 特殊化; bính âm: huáběitèshūhùa, Hoa Bắc đặc thù hóa] hay thường được gọi là Phong trào Tự trị Hoa Bắc. Các tỉnh phía bắc bị ảnh hưởng bởi chính sách này là Sát Cáp Nhĩ, Tuy Viễn, Hà Bắc, Sơn Tây và Sơn Đông.[64]

Chính sách này của Nhật có hiệu quả nhất ở khu vực mà ngày nay là Nội Mông và Hà Bắc. Năm 1935, dưới áp lực của Nhật Bản, Trung Quốc đã ký Hiệp định Hà–Umezu, trong đó cấm Quốc dân Đảng tiến hành hoạt động ở Hà Bắc.[54] Cùng năm, Hiệp định Tần–Doihara được ký kết trục xuất quân Quốc dân đảng khỏi Sát Cáp Nhĩ. Do đó, vào cuối năm 1935, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc về cơ bản đã từ bỏ miền bắc Trung Quốc. Thay vào đó, Hội đồng Tự trị Đông Hà Bắc do Nhật Bản hậu thuẫn và Hội đồng Chính trị Hà Bắc–Sát Cáp Nhĩ được thành lập.[65] Tại vùng đất trống của Sát Cáp Nhĩ, Chính phủ Quân sự Mông Cổ được thành lập vào ngày 12 tháng 5 năm 1936.[66] Nhật Bản đã cung cấp tất cả các viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết. Sau đó, các lực lượng tình nguyện Trung Quốc tiếp tục chống lại sự xâm lược của Nhật Bản ở Mãn Châu, Sát Cáp Nhĩ và Tuy Viễn.[67]

Xung đột lan rộngSửa đổi

Nhật xâm lược miền bắc Trung QuốcSửa đổi

Bài chi tiết: Sự biến Lư Câu Kiều
Đại nguyên soái Tưởng Giới Thạch tuyên bố Quốc dân đảng kháng Nhật tại Lộc Sơn vào ngày 10 tháng 7 năm 1937, ba ngày sau Sự biến Lư Câu Kiều.

Đêm 7 tháng 7 năm 1939, quân đội Nhật Bản và Trung Quốc giao chiến ở khu vực gần cầu Macco Polo [hay còn gọi là Lư Câu], khu vực tuyến đường quan trọng dẫn đến Bắc Kinh. Từ những trận giao tranh lộn xộn, nhỏ lẻ đã leo thang thành cuộc chiến tranh toàn diện khiến cả Bắc Kinh và thành phố cảng Thiên Tân rơi vào tay quân Nhật [từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1937].[68][69]

Nhật Bản thông qua “Kế hoạch động viên”, yêu cầu Trung Quốc rút quân khỏi tỉnh Hà Bắc. Ngày 26/7, quân Nhật chiếm Lang Phòng [Hà Bắc], nằm giữa Bắc Bình và Thiên Tân. Ngày 27, quân Nhật tiến đến 4 vùng ven đô Bắc Bình. Ngày 28, đánh lớn tại Nam Uyển [Bắc Bình], Phó tư lệnh quân đoàn 29 Đông Lân Các, và Sư đoàn trưởng Triệu Đăng Vũ tử trận. Ngày 30, Bắc Bình bị hãm, hai thành phố lớn nhất Hoa Bắc đều vào tay Nhật, quân đoàn 29 Quốc dân đảng phải rút lui đến tuyến Bảo Định.

Vào ngày 29 tháng 7, khoảng 5.000 quân của Quân đoàn 1 và 2 của Quân đoàn Đông Hồ Bắc đã bị tiêu diệt do chống lại quân đồn trú Nhật.[70] Ngoài quân nhân Nhật Bản thì có khoảng 260 thường dân sống ở Thông Châu theo Hiệp ước Tân Sửu năm 1901[71] đã bị giết trong cuộc nổi dậy [chủ yếu là người Nhật, bao gồm cả lực lượng cảnh sát và một số người là dân Triều Tiên].[72] Quân Trung Quốc sau đó phóng hỏa và đốt cả thành phố. Chỉ có khoảng 60 thường dân Nhật Bản sống sót, sau này trở thành chứng nhân cung cấp cho các nhà báo và nhà sử học nguồn tư liệu. Tính chất bạo lực của cuộc binh biến ở Thông Châu nhằm vào thường dân Nhật Bản đã khiến dư luận nước này dậy sóng.[73]

2 ngày sau khi Bắc Bình thất thủ, Tưởng Giới Thạch gửi thư cho toàn quốc nói rằng phải "kháng chiến đến cùng, liều chết với Nụy khấu" [giặc Nhật]. Các quân phiệt trọng yếu như Bạch Sùng Hy tại Quảng Tây, Diêm Tích Sơn tại Sơn Tây, Lưu Tương tại Tứ Xuyên, Long Vân tại Vân Nam và cả Đảng cộng sản, dù trước đó không phục tùng Tưởng nhưng đều đến dự hội nghị tại Nam Kinh, thống nhất cử Tưởng Giới Thạch làm Tổng tư lệnh kháng chiến toàn quốc.

Sau khi chiếm được Bắc Bình, quân Nhật đánh Nam Khẩu [Hà Bắc]; lại từ Sát Cáp Nhĩ đánh xuống Trương Gia Khẩu [Hà Bắc]. Cuối tháng 8, Nam Khẩu và Trương Gia Khẩu đều mất. Quân Nhật tiến đánh Đại Đồng [Sơn Tây]. Vào ngày 25/9, một sư đoàn Bát lộ quân của Đảng Cộng sản, dưới quyền Lâm Bưu đã phối hợp với quân phiệt vùng Sơn Tây là Diêm Tích Sơn, phục kích tại ải Bình Hình [Sơn Tây], tiêu diệt vài trăm quân Nhật. Đây là chiến thắng đầu tiên của Trung Quốc tại chiến trường Hoa Bắc.

Tháng 9, quân Nhật chiếm Bảo Định [Hà Bắc], tháng 10 chiếm Thạch Gia Trang [Hà Bắc], tháng 11 chiếm An Dương [tỉnh Hà Nam]. Một cánh quân theo đường sắt Tân Phố [Thiên Tân – Phố Khẩu] tiến xuống nam chiếm Đức Châu và Tế Nam [tỉnh Sơn Đông], thành phố Thanh Đảo cũng mất.

Tháng 11, quân Nhật đánh chiếm tỉnh Tuy Viễn, 140.000 quân Nhật [trang bị 350 pháo, 150 xe tăng và 300 máy bay] kéo xuống phương nam đánh thành phố Thái Nguyên [Sơn Tây]. 280.000 quân Trung Hoa [52 sư đoàn] đánh chặn tại Hân Khẩu phía bắc tỉnh Sơn Tây. Đây là trận đánh lớn phối hợp Quốc - Cộng chống Nhật, chỉ huy gồm Diêm Tích Sơn, Vệ Lập Hoàng, Chu Đức. Quân Trung Quốc thương vong khoảng 100.000. Phía Nhật có 20.000 chết, hơn 10.000 bị thương, mất hàng chục xe tăng và ít nhất 24 máy bay. Rồi quân Nhật từ Nương Tử quan [Sơn Tây] đánh chiếm thành phố Thái Nguyên.

Trận Thượng HảiSửa đổi

Bài chi tiết: Trận Thượng Hải [1937]
Nhật Bản đổ bộ gần Thượng Hải vào tháng 11 năm 1937

Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc ở Tokyo bằng lòng với lợi ích thu được ở miền bắc Trung Quốc sau Sự biến Lư Câu Kiều, bước đầu cho thấy sự miễn cưỡng trong việc leo thang xung đột thành một cuộc chiến tranh toàn diện. Tuy nhiên, Quốc dân Đảng lại cho rằng động thái gây hấn của quân Nhật đã lên tới "cực điểm". Tưởng Giới Thạch nhanh chóng huy động quân đội và không quân của chính quyền trung ương, đặt họ dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông, đồng thời bao vây phố người Nhật ở Khu định cư quốc tế Thượng Hải, nơi 30,000 thường dân Nhật sinh sống cùng 30,000 quân vào ngày 12 tháng 8 năm 1937.[74]

Chúng ta không thể chịu đựng được nữa, chúng ta sẽ không nhân nhượng. Cả dân tộc phải đứng lên và chiến đấu chống lại lũ quân Nhật cướp nước cho đến khi tiêu diệt được chúng và bảo vệ cuộc sống của chúng ta.

— Tưởng Giới Thạch[74]
Một tổ súng máy của binh lính Trung Quốc ở Thượng Hải

Quân Nhật ở Thượng Hải không nhiều nên quân Trung Quốc quyết định tấn công tại đây để gây sự chú ý trên trường quốc tế. Vào cuối tháng 7 đầu tháng 8, Trung Quốc tăng quân tại Thượng Hải, và lập kế hoạch chặn khúc sông hẹp tại Giang Âm [Giang Tô] để bắt tàu bè Nhật Bản trên sông Trường Giang. Nhưng Bí thư viện hành chính Hoàng Lăng bị Nhật Bản mua chuộc đã tiết lộ bí mật, nên tàu thuyền cùng Nhật kiều tại Hán Khẩu đã thoát được.

Cuộc chiến tại Thượng Hải có thể chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 - từ ngày 13 đến ngày 22/8, quân Trung Hoa cố gắng đánh tan quân Nhật tại Thượng Hải, nhưng quân Nhật có công sự phòng thủ chắc, lại có không quân và pháo binh tại chiến hạm yểm trợ nên cố thủ được. Giai đoạn 2, từ 23/8 đến 26/10, quân Nhật đổ bộ thêm tại bờ biển tỉnh Giang Tô, quân hai bên chiến đấu ác liệt tranh nhau từng ngôi nhà giống như trận Stalingrad trong chiến tranh Xô - Đức, quân Nhật dần thắng thế. Giai đoạn cuối, từ 27/10 đến đầu tháng 11, quân Trung Hoa rút lui vì sắp bị quân Nhật tấn công cạnh sườn, rồi quân Nhật đuổi theo cho đến tận thành phố Nam Kinh.

Ngày 13 tháng 8 năm 1937, binh lính Quốc dân đảng và máy bay chiến đấu tấn công các vị trí của Thủy quân lục chiến Nhật Bản ở Thượng Hải, mở màn cho cuộc chiến. Khi bắt đầu trận chiến, quân Quốc dân đảng vào khoảng 5 sư đoàn - 70.000 quân, trong khi lực lượng Nhật Bản có khoảng 6.300 lính thủy đánh bộ[75]. Vào ngày 14 tháng 8, máy bay của Quốc dân đảng vô tình thả bom vào Khu định cư quốc tế Thượng Hải, khiến hơn 3.000 thường dân thiệt mạng.[76]

Trong ba ngày từ 14 đến 16 tháng 8 năm 1937, Hải quân Đế quốc Nhật Bản cho xuất kích nhiều máy bay ném bom hạng nặng tầm trung G3M và các loại máy bay của tàu sân bay với kỳ vọng tiêu diệt Không quân Trung Quốc. Tuy nhiên, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã vấp phải sự kháng cự bất ngờ từ các phi đội tiêm kích phòng thủ Curtiss Hawk II / Hawk III và P-26/281 Peashooter của Trung Quốc, khiến quân Nhật chịu tổn thất nặng nề [50%] [ngày 14 tháng 8 sau này được Quốc dân Đảng kỉ niệm là Ngày Không quân Trung Quốc].[77][78]

Binh lính Nhật Bản trong đống đổ nát ở Thượng Hải

Vùng trời Trung Quốc đã trở thành khu vực thử nghiệm các thiết kế máy bay chiến đấu hai tầng cánh và một tầng cánh tiên tiến thế hệ mới. Việc đưa máy bay chiến đấu A5M tiên tiến vào chiến trường Thượng Hải–Nam Kinh kể từ ngày 18 tháng 9 năm 1937 đã giúp quân Nhật đạt được ưu thế trên không nhất định.[79][80] Tuy nhiên, có một số ít phi công kỳ cựu của Trung Quốc cũng như người Mỹ gốc Hoa chứng minh được rằng ngay cả khi sử dụng máy bay hai cánh cũ kĩ và chậm chạp,[81][82] họ vẫn có khả năng chống lại những chiếc A5M bóng bẩy trong các trận dogfight, đồng thời chứng tỏ rằng việc chiến đấu với Không quân Trung Quốc là cuộc chiến tranh tiêu hao.[83][84] Vào ngày 23 tháng 8, Không quân Trung Quốc tấn công cuộc đổ bộ của quân Nhật cùng với máy bay cường kích Hawk III và máy bay hộ tống tiêm kích P-26/281 tại Ngô Tùng Khẩu ở phía bắc Thượng Hải. Nhật Bản đã đánh chặn hầu hết cuộc tấn công bằng máy bay chiến đấu A2N và A4N xuất kích từ tàu sân bay Hosho và Ryujo, bắn hạ một số máy bay Trung Quốc nhưng mất một chiếc A4N trong trận không chiến với Trung úy Hoàng Tân Thụy trên máy bay P-26/281. Quân tiếp viện Nhật Bản đã thành công trong việc đổ bộ lên phía bắc Thượng Hải.[85][86]

Trung tuần tháng 9, quân Trung Quốc rút ra trận địa dự bị thứ nhất tại Bảo Sơn [phía bắc Thượng Hải]; lúc bấy giờ quân Nhật có khoảng 10 vạn, quân Trung Hoa khoảng trên 30 vạn. Hạ tuần tháng 9, quân Trung Hoa lại rút đến trận địa dự bị thứ hai tại La Điếm, gần kề Bảo Sơn. Tháng 10 quân Nhật tăng đến trên 20 vạn, quân Trung Hoa đến 50 vạn, ngoài quân trung ương còn có quân phiệt các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Hồ Nam cử quân đến tham gia chiến đấu. Trận chiến rất ác liệt, hai bên giành nhau từng ngôi nhà. Ngày 26/10, các trận địa chủ yếu đều bị chiếm, quân Trung Hoa rút sang phía tây Thượng Hải. Một số tướng lĩnh như Lý Tông Nhân đề nghị rút lui về giữ Nam Kinh, nhưng Tưởng vẫn ra lệnh quân đội cố bám giữ Thượng Hải, vì cường quốc 9 nước đang họp tại Bruxelles [Bỉ], Tưởng mong gây ảnh hưởng để các nước phương Tây tham gia vào cuộc chiến. Nhưng đến ngày 9/11, quân Trung Hoa phải rút toàn bộ sang phía tây.

Lục quân Đế quốc Nhật Bản cuối cùng đã điều hơn 200.000 quân, cùng với nhiều tàu hải quân và máy bay để chiếm thành phố. Sau hơn ba tháng chiến đấu căng thẳng, thương vong của họ vượt xa dự kiến ban đầu.[87] Vào ngày 26 tháng 10, Quân đội Nhật Bản chiếm được Đại Xưởng, cứ điểm quan trọng ở Thượng Hải[88] và vào ngày 5 tháng 11, quân tiếp viện của Nhật Bản đổ bộ từ Vịnh Hàng Châu.[89] Cuối cùng, vào ngày 9 tháng 11, Quốc dân Cách mệnh quân phải rút toàn bộ quân.[88]

Thảm sát Nam KinhSửa đổi

Bài chi tiết: Trận Nam Kinh và Thảm sát Nam Kinh
Đại sứ quán Liên Xô ở Nam Kinh bị đốt phá ngày 1 tháng 1 năm 1938.
Một tù binh Trung Quốc sắp bị một sĩ quan Nhật Bản chặt đầu bằng shin gunto

Sau khi giành chiến thắng nhọc nhằn tại Thượng Hải, Lục quân Đế quốc Nhật Bản đã chiếm được thủ phủ Nam Kinh của Quốc dân Đảng [tháng 12 năm 1937] và Bắc Sơn Tây [từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1937]. Chiến dịch này có sự tham gia của khoảng 350.000 lính Nhật và quân số Trung Quốc nhiều hơn đáng kể.[90]

Ngày 20/11/1937, Quốc dân đảng bắt đầu dời chính phủ từ Nam Kinh đến Trùng Khánh [Tứ Xuyên], đồng thời ra tuyên bố khen ngợi 3 tháng chiến đấu tại Thượng Hải. Nhưng sau trận Thượng Hải, quân đội Quốc dân đảng tổn thất đến 6/10, không có cách gì ngăn chặn quân Nhật. Các phòng tuyến dự bị từ sông Trường Giang đến Tô Châu [Giang Tô], Gia Hưng [Chiết Giang] đến Vô Tích, Giang Âm [Giang Tô] đều thất thủ. Ngày 13/12, thủ đô Nam Kinh bị Nhật chiếm; ngày 24 mất tiếp Hàng Châu [Chiết Giang].

Các nhà sử học ước tính rằng từ ngày 13 tháng 12 năm 1937 đến cuối tháng 1 năm 1938, lực lượng Nhật Bản đã giết hoặc làm bị thương khoảng 40.000 đến 300.000 người Trung Quốc [chủ yếu là dân thường][91] trong đợt "Thảm sát Nam Kinh" [hay còn được gọi là "Cưỡng hiếp Nam Kinh"] sau khi Nam Kinh thất thủ.[92] Tuy nhiên, nhà sử học David Askew thuộc Đại học Ritsumeikan của Nhật Bản lập luận rằng ít hơn 32.000 dân thường và binh lính đã chết và không quá 250.000 dân thường có thể ở lại Nam Kinh. Phần lớn trong số họ đã trú ẩn trong Khu an toàn Nam Kinh, khu vực an toàn do nước ngoài thành lập, dẫn đầu là John Rabe, quan chức Đảng Quốc xã.[93]

Năm 2005, một cuốn sách giáo khoa lịch sử do Hiệp hội Cải cách Sách giáo khoa Lịch sử Nhật Bản biên soạn, được chính phủ phê duyệt vào năm 2001, đã gây ra sự phản đối kịch liệt ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Nó gọi Vụ thảm sát Nam Kinh và các hành động tàn bạo khác như vụ thảm sát ở Manila là một "sự biến", che đậy vấn đề phụ nữ giải khuây và chỉ đề cập ngắn gọn đến cái chết của binh lính và thường dân Trung Quốc ở Nam Kinh.[94] Bản sao phiên bản năm 2005 của sách giáo khoa trung học cơ sở có tiêu đề Sách giáo khoa Lịch sử Mới không thấy đề cập đến vụ "Thảm sát Nam Kinh" hay "Sự biến Nam Kinh". Quyển sách chỉ có một câu duy nhất đề cập đến sự kiện này là: "Họ [quân Nhật] đã chiếm thành phố đó vào tháng 12".[95] Tính đến năm 2015, một số nhà sử học cánh hữu Nhật Bản phủ nhận rằng vụ thảm sát từng xảy ra và đã vận động thành công để sửa đổi và loại trừ thông tin ra khỏi sách giáo khoa Nhật Bản.[94]

Nhật Bản tiến công năm 1938Sửa đổi

Xe bọc thép hạng nặng Type 92 gần Nam Kinh năm 1941

Vào đầu năm 1938, giới lãnh đạo ở Tokyo vẫn hy vọng hạn chế phạm vi xung đột để chiếm các khu vực xung quanh Thượng Hải, Nam Kinh và phần lớn miền bắc Trung Quốc. Họ nghĩ rằng điều này sẽ bảo toàn sức mạnh cho một cuộc đối đầu có thể xảy ra với Liên Xô nhưng hiện tại, chính phủ Nhật Bản và Bộ Tổng Tư lệnh đã mất quyền kiểm soát thực sự đối với quân đội Nhật Bản ở Trung Quốc. Sau khi giành được nhiều thắng lợi, các tướng lĩnh Nhật Bản đã leo thang với Trận Từ Châu nhằm tìm cách quét sạch sự kháng cự của quân Trung Quốc nhưng lại thất bại trong trận Đài Nhi Trang [từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1938]. Chiến dịch Từ Châu có 600.000 quân Trung Hoa do Lý Tông Nhân chỉ huy, thương vong 100.000. Phía Nhật do Hata Shunroku [Tự Nội Thọ Nhất] chỉ huy, quân số 240.000, thương vong khoảng 30.000. Ngày 7/4, quân Nhật phải rút. Quân Nhật đổi hướng tấn công tại vùng giáp giới các tỉnh Sơn Đông, Hà Nam. Tháng 5, quân Trung Hoa rút khỏi Từ Châu, rồi chuyển quân sang phía Đông Hà Nam.

Sau đó, Bộ Tổng Tư lệnh Nhật thay đổi chiến lược và triển khai gần như tất cả các đội quân hiện có ở Trung Quốc để tấn công thành phố Vũ Hán, nơi đã trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và quân sự của Trung Quốc, với hi vọng là tiêu diệt sức mạnh chiến đấu của Quốc dân Cách mệnh quân và buộc chính phủ Quốc dân Đảng phải đàm phán hòa bình.[96]

Từ tháng 2/1938, máy bay Nhật oanh kích Vũ Hán; tháng 6, hải quân Nhật ngược sông Trường Giang chiếm An Khánh, rồi phối hợp với lục quân chiếm các đồn ải quan trọng tại tỉnh Giang Tây. Ngày 25/7 chiếm Cửu Giang [Giang Tây], bắt đầu giao chiến ở vùng xung quanh Vũ Hán. Quân Nhật chia làm 3 đường tiến đánh: một đạo theo đường sông Trường Giang đánh Nam Xương, trung tuần tháng 10 đánh phía nam tỉnh Hồ Bắc. Một đạo quân từ Hà Nam đánh thẳng xuống, lại một đạo quân khác đi vòng đến Hán Khẩu; binh lực có đến trên 12 sư đoàn, 3 mặt bao vây Vũ Hán. Trung Quốc bèn đánh sau lưng quân Nhật, rồi bắt đầu rút, ngày 25/10 thì rút xong. Cuộc chiến Vũ Hán kéo dài trong 4 tháng, là trận đại chiến thứ 4 sau Thượng Hải, Sơn Tây, Từ Châu. Quân Nhật đã huy động 350 - 400 nghìn quân, 120 tàu chiến và trên 500 máy bay, bị thương vong khoảng 70 - 100 nghìn quân, mất hơn 100 máy bay. Quân Trung Hoa huy động tới gần 1 triệu quân, thương vong khoảng 256.000 người.

Vào ngày 6 tháng 6, quân Nhật chiếm Khai Phong, thủ phủ của Hà Nam và đe dọa chiếm Trịnh Châu, ngã ba của đường sắt Bình Hán và Long Hải. Để chặn bước tiến của quân Nhật ở miền tây và nam Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch theo gợi ý của Trần Quả Phu đã ra lệnh phá các con đê trên sông Hoàng Hà gần Trịnh Châu. Kế hoạch là phá vỡ đê ở Chu Khẩu nhưng do gặp một số khó khăn nhất định nên quyết định là phá đê Hoa Viên Khẩu ở bờ nam vào ngày 5 tháng 6 và ngày 7 tháng 6, khiến nước lũ tràn qua đông Hà Nam, trung An Huy và bắc trung Giang Tô. Lũ lụt bao phủ và phá hủy hàng ngàn cây số vuông đất nông nghiệp và dời cửa sông Hoàng Hà hàng trăm dặm về phía nam. Hàng nghìn ngôi làng bị ngập lụt hoặc bị phá hủy và hàng triệu người dân buộc phải sơ tán khỏi nhà của họ. Ước tính khoảng 400.000 người bao gồm cả lính Nhật chết đuối và thêm 10 triệu người trở thành người tị nạn. Mặc dù vậy, Nhật Bản vẫn chiếm được Vũ Hán vào ngày 27 tháng 10 năm 1938, buộc Quốc dân Đảng phải rút về Trùng Khánh. Tuy nhiên, Tưởng Giới Thạch vẫn từ chối đàm phán, nói rằng ông sẽ chỉ xem xét thương lượng nếu Nhật Bản đồng ý rút về biên giới của năm 1937 trở về trước.[97]

Sau những trận giao tranh ác liệt, quân Quốc dân đảng rút vào nội địa xa hơn, đến Trùng Khánh. Trong khi trên đường đến Trùng Khánh, quân đội Quốc dân đảng đã tạo ra "ngọn lửa Trường Sa", như một phần của chính sách tiêu thổ kháng chiến. Đám cháy đã phá hủy phần lớn thành phố, giết chết 20.000 thường và hàng trăm nghìn người mất nhà cửa. Do một lỗi tổ chức [đã được xác nhận], đám cháy đã bắt đầu mà không có bất kỳ cảnh báo nào cho người dân thành phố. Quốc dân đảng cuối cùng đã đổ lỗi cho ba chỉ huy địa phương về vụ hỏa hoạn và hành quyết họ. Các tờ báo trên khắp Trung Quốc đổ lỗi vụ hỏa hoạn là do những người theo chủ nghĩa đốt phá [không thuộc Quốc Dân Đảng], nhưng ngọn lửa đã góp phần làm mất sự ủng hộ trên toàn quốc đối với Quốc Dân Đảng.[98]

Khi tổn thất và chi phí cho chiến tranh của quân Nhật tăng lên, Bộ Tổng Tư lệnh Đế quốc ở Tokyo quyết định tiến hành các cuộc không kích trả đũa nhằm vào Trùng Khánh và các thành phố lớn khác do Trung Quốc quản lý khiến hàng triệu người thiệt mạng, bị thương hoặc mất nhà cửa.[99] Từ tháng 5 năm 1938 đến tháng 6 năm 1941, Không quân Nhật Bản đã thực hiện 218 cuộc không kích vào các thành phố, giết chết tổng cộng 12.000 người. Ở Trùng Khánh, các cuộc tấn công được báo hiệu bằng còi nhưng ở những khu định cư khác thì báo hiệu bằng bóng bay mắc lên cột điện.[100] Người Trùng Khánh đã đào những khu hầm tránh bom, nhưng vào tháng 6/1941, phát sinh tai nạn sập đường hầm làm chết 2 vạn người.

Tại miền nam, Nhật Bản oanh kích Quảng Châu rồi ngày 12/10, 4 vạn quân Nhật đổ bộ tại Đại Á loan, ngày 21/10 chiếm Quảng Châu.

Quân Nhật từng tuyên bố sẽ chiến thắng trong 3 tháng, nhưng hiện tại đã 15 tháng mà chiến sự vẫn ác liệt. Nhật Bản đã chiếm nhiều vùng, phía bắc từ tỉnh Sát Cáp Nhĩ, phía nam tới Quảng Đông, đông đến Thượng Hải, tây đến Vũ Hán, các tỉnh đông nam và hạ lưu sông Trường Giang, là những khu vực kinh tế chủ lực của Trung Quốc. Nhưng quân Nhật chỉ có thể kiểm soát các đô thị, đường lưu thông huyết mạch thuỷ bộ, chứ không đủ quân để kiểm soát được vùng nông thôn rộng lớn. Trung Quốc vẫn giữ được các tỉnh miền tây nam, tây bắc; cùng đại bộ phận vùng nông thôn. Sau khi quân chủ lực Trung Quốc rút đi, một bộ phận vẫn lưu lại vùng sau lưng địch, tổ chức đánh quấy rối. Tại Sơn Tây, Diêm Tích Sơn tổ chức “Quân dân đại đồng minh”; Bát lộ quân thì hoạt động mạnh tại miền đông bắc. Tại Giang Tô - An Huy, quân du kích cùng Tân Tứ quân không ngừng uy hiếp lưu thông trên sông Trường Giang.

Trung Quốc phản công và bế tắcSửa đổi

Bản đồ thể hiện mức độ chiếm đóng của Nhật Bản năm 1941 [màu đỏ]
Sự chiếm đóng của Nhật Bản [màu đỏ] ở miền đông Trung Quốc lúc gần kết thúc chiến tranh và khu vực căn cứ của Đảng Cộng sản [sọc]

Năm 1939, cuộc chiến bước sang một giai đoạn mới sau những thất bại chưa từng có của quân Nhật trong trận Tùy Huyện–Tảo Dương, trận Nam Quảng Tây, trận Trường Sa và trận Tảo Dương-Nghi Xương.

Trong Trận Trường Sa [1939], tháng 9/1939, Nhật Bản mở chiến dịch nhằm vào thành phố Trường Sa với 100.000 quân, 12 tàu chiến và hơn 100 máy bay. Quân Trung Quốc có 240.000 người, chia làm 30 sư đoàn. Quân Trung Quốc phòng thủ Trường Sa ngoài lợi thế về mặt số lượng, còn có vị tư lệnh là tướng Tiết Nhạc [Xue Yue], người nổi tiếng là dũng cảm và được lòng các binh sĩ dưới quyền. Trận Trường Sa khiến quân Trung Quốc tổn thất 44.000 người, nhưng lực lượng Nhật Bản đã phải rút lui, Trung Quốc giữ vững tuyến đường sắt chiến lược. Đây cũng là lần đầu tiên Nhật Bản tổn thất một số lượng quân tương đương Trung Quốc [hơn 40.000 người], tương đương gần một nửa lực lượng tham chiến.

Kết quả thuận lợi đã khuyến khích giới lãnh đạo quân đội Trung Quốc mở cuộc phản công quy mô lớn đầu tiên vào cuối năm 1939. Tuy nhiên, do năng lực công nghiệp quân sự thấp và thiếu kinh nghiệm trong chiến tranh hiện đại nên quân đội Trung Quốc bị đánh bại. Nhà sử học Rudolph Joseph Rummel gọi cuộc phản công là một thất bại trực tiếp.[101] Sau đó, Tưởng không thể mạo hiểm thêm bất kỳ chiến dịch tấn công tổng lực nào nữa do tình trạng quân đội huấn luyện sơ sài, trang bị kém và vô tổ chức cũng như đường lối lãnh đạo bị Quốc dân đảng và các quân phiệt tại Trung Quốc nói chung phản đối. Ông đã mất đi những binh lính tốt nhất của mình trong trận Thượng Hải và hiện phải lệ thuộc vào chính các tướng lĩnh quân phiệt của mình, những người đang có quyền tự trị cao khỏi chính quyền trung ương Quốc dân Đảng.

Uông Tinh Vệ và các sĩ quan của Hòa bình Kiến quốc Quân

Sau năm 1940, quân Nhật gặp những khó khăn to lớn trong việc quản lý và bố trị lực lượng đồn trú tại các vùng lãnh thổ do họ nắm giữ. Họ cố gắng giải quyết vấn đề bằng cách thực hiện chiến lược thành lập các chính phủ bù nhìn thân Nhật phục vụ cho lợi ích của quân Nhật trên các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng. Sau khi chiếm cứ Bắc Bình, Thiên Tân, Thái Nguyên, tháng 12/1937 Nhật cho lập “Trung Hoa dân quốc lâm thời chính phủ”, dùng Vương Khắc Mẫn làm bù nhìn; trên danh nghĩa là quản trị vùng Hoa Bắc, trên thực tế là vơ vét của cải để thực hiện chính sách “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” cho quân Nhật. Vào tháng 3/1938, Nhật thành lập tại Nam Kinh “Duy tân chính phủ” do Lương Hồng Chí làm bù nhìn, trên danh nghĩa cai trị miền Hoa Đông. Đáng chú ý nhất là Chính phủ Nam Kinh Quốc dân Đảng thành lập 29/3/1940 do Uông Tinh Vệ, cựu Thủ tướng Quốc dân Đảng cầm đầu.[102] Tuy nhiên, do quân Nhật đã gây ra nhiều tội ác chiến tranh[103] cũng như không ủy thác bất cứ quyền lực thực tế nào cho chính phủ bù nhìn nên các lãnh đạo bù nhìn người Trung Quốc nhanh chóng mất lòng tin và không tác động gì nhiều đến tình hình chung ở Trung Quốc.[54][104] Thành công duy nhất mà Nhật Bản đạt được là thành lập nên Hòa bình Kiến quốc Quân để giữ gìn trật tự trị an trong các khu vực chiếm đóng.[105] Ngày 10/11/1944, Uông mất vì bệnh tại Nhật, rồi đem về chôn bên cạnh mộ Tôn Trung Sơn, tại Trung Sơn Lăng, Nam Kinh [sau khi Nhật đầu hàng, mộ của Uông bị phá huỷ vào năm 1946, thi thể bị thiêu trụi vì tội làm Hán gian].

Về phía Đảng Cộng sản, từ tháng 8/1940 đến tháng 1/1941, tại Hà Bắc, Sơn Tây, Bát lộ quân huy động 200.000 quân với tổng cộng 105 trung đoàn tham gia, nên có tên “Đại chiến Bách Đoàn”, dưới quyền chỉ huy của tướng Chu Đức, Bành Đức Hoài. Phía Nhật có 270.000 quân cộng thêm 150.000 lính ngụy [người Trung Quốc phục vụ cho Nhật]. Hồng quân tấn công đường sắt tại các tuyến như Bình Hán [Bắc Bình – Hán Khẩu], Chính Thái [Thạch Gia Trang – Thái Nguyên], Tân Phố [Thiên Tân – Phố Khẩu]; phá các mỏ khoáng, chiếm cứ Nương Tử Quan tại tỉnh Sơn Tây. Hồng quân Trung Quốc tuyên bố đã giết hoặc làm bị thương 20,645 lính Nhật và 5.155 lính ngụy, bắt sống 281 lính Nhật và 18.407 lính ngụy, thu 46.380 vũ khí; phá hủy 2.993 đồn bốt, 948 dặm đường sắt, 3.004 dặn đường bộ, 213 cầu, 37 ga tàu hỏa, 11 hầm ngầm. Phía Trung Quốc tổn thất 17.000 người chết hoặc bị thương, ngoài ra có 20.000 người bị nhiễm độc do vũ khí hóa học của quân Nhật. Đây là chiến dịch đánh lớn đầu tiên của Đảng Cộng sản [trước đó họ chủ yếu đánh du kích], chiến thắng này có ý nghĩa quan trọng trong việc chống quân Nhật càn quét, phát triển lực lượng và tích lũy kinh nghiệm cho các chiến dịch lớn sau này[106]

Đến năm 1941, Nhật Bản đã nắm giữ hầu hết các khu vực ven biển phía đông của Trung Quốc và Việt Nam nhưng các cuộc giao tranh du kích vẫn tiếp tục diễn ra ở những khu vực bị chiếm đóng này. Nhật Bản phải hứng chịu nhiều thương vong do sự phản kháng bất ngờ của Trung Quốc và không bên nào có thể đẩy nhanh tiến độ.[107]

Quân Nhật thì lo củng cố các cứ điểm, bảo hộ các tuyến giao thông thuỷ bộ, mở rộng khu vực chiếm lĩnh; từ năm 1939 đến 1941 lại tấn công. Xét về các chiến dịch tương đối lớn có thể kể đến:

  • Chiến trường tại miền bắc tỉnh Giang Tây xảy ra 2 lần. Lần thứ nhất vào tháng 3/1939, khoảng 5 vạn quân Nhật tiến đánh Nam Xương; quân Trung Hoa khoảng 20 vạn. Lần thứ hai vào tháng 3/1941, quân Nhật huy động 4 vạn, quân Trung Hoa đông gấp bội, kịch chiến trong vòng 2 tuần. Cả 2 lần quân Nhật bị tổn thất lớn và không chiếm được Nam Xương.
  • Tại vùng tây bắc tỉnh Hồ Bắc và phía nam tỉnh Hà Nam, cuối tháng 4/1939, giao chiến tại Tuỳ huyện [Hồ Bắc], lực lượng Trung Quốc do Lý Tông Nhân chỉ huy chặn được quân Nhật, Trung Hoa tổn thất 28.000 quân, phía Nhật 21.000. Tháng 5/1940, quân Nhật lại tiến đánh, Tổng tư lệnh tập đoàn quân Trương Bạch Trung tử trận. Tháng 6 quân Nhật chiếm Nghi Xương [Hồ Bắc] cắt đứt đường thuỷ từ Hồ Nam đến Tứ Xuyên, lại dùng phi trường nhỏ nơi này điều máy bay oanh kích Trùng Khánh.
  • Tháng 11/1938, quân Nhật từ Hồ Bắc xâm nhập Nhạc Dương [Hồ Nam], tỉnh trưởng Hồ Nam Trương Trị Trung ra lệnh phóng hoả chặn quân Nhật, cả tỉnh lỵ Trường Sa gần bị thiêu trụi. Tháng 9/1939, quân Nhật huy động 10 vạn quân; bị quân Trung Hoa với lực lượng 24 vạn dưới quyền chỉ huy của Trần Thành, Tiết Nhạc đẩy lui, mỗi bên tổn thất hơn 4 vạn người. Vào ngày 6/9/1941, 12 vạn quân Nhật lại tiến đánh Trường Sa lần thứ hai. 30 sư đoàn Trung Hoa với 30 vạn quân dưới quyền chỉ huy của Tiết Nhạc chiếm lại được thành phố; đến ngày 30/9 quân Nhật rút lui, ước tính Trung Quốc tổn thất hàng chục nghìn quân còn Nhật Bản mất 7.000 quân. Tháng 12/1941 đến tháng 1/1942, Nhật Bản lại huy động 12 vạn quân đánh Trường Sa lần thứ 3. Tướng Tiết Nhạc đã giăng bẫy phục kích sẵn, quân Nhật lại thất bại. Trung Quốc tuyên bố hơn 55.000 quân Nhật đã bị tiêu diệt, quân Trung Quốc chỉ tổn thất 28.000 người.
  • Phía nam tỉnh Quảng Tây, vào tháng 2/1939 quân Nhật chiếm đảo Hải Nam, tháng 11, đổ bộ tại vịnh Khâm châu [Quảng Tây], chiếm tỉnh lỵ Nam Ninh, cắt hoàn toàn đường giao thông giữa Quảng Tây và Việt Nam. Tháng 12, 16 vạn quân Trung Hoa do Bạch Sùng Hy chỉ huy phản công, kịch chiến tại ải Côn Lôn [Kunlun pass] trong vòng 2 tháng. Trung Hoa tổn thất khoàng 23.000 quân, phía Nhật hơn 8.100 quân. Ngoài ra vào tháng 4/1941, Nhật tiếp tục chiếm các vùng duyên hải đông nam như Ninh Ba [Chiết Giang], Ôn châu, Phúc châu [Phúc Kiến].
  • Chiến dịch tại vùng núi Trung Điều, phía đông nam tỉnh Sơn Tây: Tháng 5/1941, 6 vạn quân Nhật tấn công, 10 vạn quân Trung Hoa chiến đấu trong 10 ngày, sau đó phải rút lui, một cánh xuống Hà Nam phía nam, 1 cánh chuyển đến núi Thái Hàng [Sơn Tây].

Giai đoạn cuối [1942-1945]Sửa đổi

Trong giai đoạn này, do phải chia quân cho các mặt trận khác ở Thái Bình Dương và Đông Nam Á nên Nhật bản giảm hẳn các chiến dịch tấn công. Quân Nhật tập trung vào việc đóng giữ các lãnh thổ đã chiếm được ở Trung Quốc, vơ vét tài nguyên, lương thực để chở về nước phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.

Đến năm 1943, Quảng Đông trải qua một nạn đói. Khi tình hình trở nên tồi tệ hơn, những người đồng hương Trung Quốc ở New York nhận được một lá thư viết rằng 600.000 người đã bị chết đói ở Tứ Ấp.[108]

Mùa xuân năm 1944, người Mỹ bắt đầu sử dụng Trường Sa làm căn cứ cho các máy bay B-29 ném bom vào các mục tiêu công nghiệp ở Nhật Bản. Mùa hè năm 1944, Nhật bản mở Chiến dịch Ichi-Go, huy động tới 500.000 quân, đánh dấu chiến dịch quân sự lớn nhất của Nhật ở châu Á trong giai đoạn này. Những trận đánh lớn nhất trong Chiến dịch Ichi-Go là trận tấn công Lạc Dương [có tài liệu gọi là trận miền Trung Hà Nam] từ 17/4 đến 25/5 năm 1944, trận Hồ Nam từ cuối tháng 5 đến tháng 8 năm 1944, trận Hành Dương từ 22/6 đến 11/8 năm 1944, trận Quế Lâm-Liễu Châu từ 16/8 đến 24/11 năm 1944. Tổng cộng, Trung Quốc tổn thất 90.000 quân [17.000 ở Hành Dương] trong khi Nhật bản mất 66.000 quân [19.000 ở Hành Dương]. Trận Quế Lâm-Liễu Châu, Trung Quốc cũng thất bại với 25.000 thương vong, 30 máy bay B-29 của Mỹ đóng ở đó cũng bị phá hủy, Nhật chỉ mất 5.665 người. Không còn căn cứ ở Trường Sa, Mỹ buộc phải chuyển sang xây căn cứ không quân trên đảo Saipan ở Thái Bình Dương.

Mục lục

Cách thức lịch sử Trung Quốc định hình quan điểm về thế giới của Tập Cận Bình

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Những căng thẳng gia tăng với Đài Loan đã hướng sự tập trung về Trung Quốc. Nhiều người tự hỏi liệu Chủ tịch Tập Cận Bình muốn Trung Quốc được nhìn nhận như thế nào trên chính trường quốc tế. Lịch sử có thể mang lại những gợi ý, Rana Mitter, Giáo sư Lịch sử từ Đại học Oxford nhận định.

Trung Quốc hiện là cường quốc trên toàn cầu, một điều hiếm khi có thể tưởng tượng được cách đây vài thế kỷ.

Đôi khi sức mạnh của Trung Quốc cũng bắt nguồn từ sự hợp tác với thế giới rộng lớn, như ký Hiệp định về chống biến đổi Khí hậu Paris.

Hoặc thỉnh thoảng sức mạnh có nghĩa là cạnh tranh với Trung Quốc, như Sáng kiến Một vành đai một con đường, một mạng lưới các dự án xây dựng tại hơn 60 quốc gia, đầu tư vào nhiều quốc gia bị mất nguồn vốn vay từ các nước phương Tây.

Quảng cáo

Nhưng nhiều tuyên bố của Trung Quốc cũng mang tính đối đầu cao.

Bắc Kinh lên án Mỹ tìm cách "kiềm chế" mình thông qua Hiệp ước AUKUS, một thỏa thuận quân sự giữa Australia - Anh - Mỹ, cảnh cáo Anh sẽ gánh chịu "hậu quả' vì đã cấp visa đặc biệt cho người Hong Kong định cư sau Luật an ninh Quốc gia mới, và tuyên bố đảo Đài Loan phải được thống nhất với Trung Quốc Đại lục.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng khẳng định vị trí của Trung Quốc trên chính trường quốc tế mạnh mẽ hơn bất kỳ người tiền nhiệm nào, kể từ thời của Mao Trạch Đông, lãnh tụ vĩ đại của Trung Quốc trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Nhưng những nhân tố khác trong ngôn từ của Chủ tịch Tập đã bắt nguồn từ cội rễ sâu xa hơn - xét về tính chất lịch sử, cổ đại và hiện đại.

Đây là 5 trong số những chủ đề đã được lặp lại nhiều lần.

Video liên quan

Chủ Đề