Dấu hiệu máy giặc siêu âm của ống tiêu hóa năm 2024

Trong hơn 10 năm gần đây siêu âm với những phát triển kỹ thuật mới như siêu âm Doppler màu, siêu âm qua ngã nội soi. đã mở rộng phạm vi hoạt động chẩn đoán trong nhiều lãnh vực trong đó có đường tiêu hóa.

Khám siêu âm bụng thường quy là phương pháp có độ nhạy nhất định để phát hiện một số bệnh lý ống tiêu hóa. Mặc dù vai trò siêu âm trong chẩn đoán bệnh lý ống tiêu hóa có phần kém hơn khi so sánh với CT-scan, nhưng các thông tin của siêu âm thường đáng được lưu ý. Ưu thế của siêu âm là dễ thực hiện, tin cậy được và gọn nhẹ.

Tuy các triệu chứng siêu âm không đặc hiệu, nhưng siêu âm có khả năng phát hiện các bất thường trong lòng hay của vách ống tiêu hóa và lân cận.

Các kỹ thuật khảo sát bệnh lý ống tiêu hóa

1

Siêu âm chẩn đoán

-Siêu âm B-mode thường quy độ ly giải cao [5-7[10MHz}]

-Siêu âm qua đáy chậu [transperineal sonography]

-Siêu âm đại tràng bằng nước [hydrocolonic sonography]

-Siêu âm Doppler màu [CDI]

-Siêu âm qua ngã trực tràng [Transrectal sonography]

-Siêu âm qua ngã nội soi [Endosonography]

2

CT-scan

3

Cộng hưởng từ nhân [MRI]

ỐNG TIÊU HÓA BÌNH THƯỜNG

Là một ống rỗng, dài, gồm nhiều lớp đồng tâm từ trong ra ngoài: niêm mạc [lớp nội mô trong, central lamina propria, và lớp muscularis mucosa sâu], dưới niêm mạc, lớp cơ riêng gồm cơ vòng bên trong và cơ dọc bên ngoài, và thanh mạc và mô liên kết. 5 lớp này có thể quan sát được bằng siêu âm: 1. có echo [niêm mạc nông và mặt gian cách màng nhày-chất bên trong lòng ruột, 2. có echo yếu hơn [niêm mạc]3. có echo [dưới niêm mạc và mặt gian cách dưới niêm mạc và lớp cơ], 4. echo kém [lớp cơ riêng] và 5. có echo [thanh mạc và mặt gian cách lớp cơ riêng và thanh mạc]. Tùy chất lượng hình và tần số đầu dò có thể không thấy được cả 5 lớp này.

Bề dày trung bình của vách từ 3-5 mm tùy vào độ căng dãn lòng ống tiêu hóa. Chất chứa trong lòng rất thay đổi, thường thấy có ít dịch ngay cả khi nhịn trọn đêm. Có thể thấy nhu động ruột non và dạ dày và chính nhu động này giúp phân biệt giữa các khối của ổ bụng thật sự với các chỗ tụ dịch do thủng tạng rỗng. Tăng hay giảm nhu động ruột có thể gặp trong tắc ruột cơ học hoặc liệt ruột cơ năng.

Nội soi hay chụp ống tiêu hóa có cản quang dùg để khảo sát lòng ống và lớp niêm mạc, trong khi siêu âm cho thấy hình cắt ngang ống tiêu hóa của vách ống và lân cận. Mặc dù các tổn thương niêm mạc sớm và các khối u ruột non nhỏ thường bị bỏ sót, siêu âm có thể phát hiện các bệnh lý như dày vách ruột, u vách ruột có loét hay không loét, các quai ruột dãn và đọng dịch, và các khối mô mềm của mạc treo, mạc nối lớn, phúc mạc và mỡ cạnh đại tràng.

DÀY VÁCH ỐNG TIÊU HÓA [Gut Wall Thickening]

Dày vách ống tiêu hóa có thể khu trú hay lan tỏa, đối xứng hoặc không và có hoặc không ảnh hưởng đến các lớp vách ruột bình thường. Biểu hiện siêu âm điển hình là các dấu giả thận [pseudokidney sign] hay dấu hình bia [target sign]. Ðó là một vòng echo kém bên ngoài diễn tả vách ruột dày lên và một trung tâm có echo, biểu hiện cho lòng ruột bị hẹp lại hay có ổ loét.

Dấu hiệu siêu âm này không điển hình cho khối u, có thể gặp trong: a/ vách ruột dày do viêm [thí dụ bệnh lý ruột viêm, inflammatory bowel disease, hoặc viêm đại tràng do nhiễm trùng, infectious colitis], b/ tân sản vách ruột [như annular carcinoma, lymphoma], và c/ vách ruột phù nề [như viêm đại tràng màng giả hay nhồi máu ruột].

Kết hợp hình ảnh siêu âm với bệnh cảnh lâm sàng và tiến trình viêm hay tân sản các mô mềm lân cận xung quanh thường dẫn đến chẩn đoán đúng.

STRATIFIED hoặc NON-STRATIFIED PATTERN CỦA VÁCH [parietal stratification]

Là dấu hiệu còn thấy được các lớp vách ống tiêu hóa bằng siêu âm hoặc không. Thường các trường hợp dày vách ruột do nhồi máu có kiểu nonstratified ở vách và dày vách do viêm, kiểu stratified.

HYPEREMIA MÔ MỀM QUANH ỐNG TIÊU HÓA

Một số bệnh lý ống tiêu hóa khi dùng color Doppler khảo sát giúp phân biệt nguyên do dày vách ruột do viêm hay nhồi máu ruột. Nếu chỉ số RI

Chủ Đề