Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được

Những người không theo tôn giáo nào, có thể họ không đọc kinh, cầu nguyện, không đến cơ sở thờ tự tôn giáo hành lễ, nhưng đã là người Việt có lẽ ai cũng thiết lập bàn thờ gia tiên trong nhà để thờ ông bà, bố mẹ, cụ kỵ tổ tiên. Đó là các sinh hoạt tôn giáo và tín ngưỡng. Mặt khác, khi trong nhà gặp hoạn nạn, thường thường người ta đi xem bói để tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng đó. Đây được coi là biểu hiện của hoạt động mê tín dị đoan. Tuy nhiên, cho đến nay, có lẽ có một bộ phận dân cư không nhỏ vẫn chưa phân biệt được sự giống nhau và khác nhau giữa sinh hoạt tôn giáo với tín ngưỡng, giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan. Trong bài này, chúng tôi xin làm rõ sự giống nhau và khác nhau đó, đồng thời tìm ra mối quan hệ giữa tôn giáo với tín ngưỡng, giữa tôn giáo, tín ngưỡng với mê tín dị đoan, nhằm giúp bạn đọc phân biệt rõ hơn về ba loại hình sinh hoạt tâm linh này.

1. Sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

1.1. Sự giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

Một là, những người có tôn giáo (Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…) và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…) đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình ra bằng xương bằng thịt và cũng không được nghe bằng chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó.

Sự giống nhau thứ hai giữa tôn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của tôn giáo và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.

1.2. Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó. Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo ấy (Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…); giáo lý là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ; giáo luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó[1].

Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể, chỉ có thể có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, người đàn ông vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ tiên, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, ông ta còn ra đình lễ Thánh. Cũng tương tự như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa làm lễ Mẫu,…

Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn tế (đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng), bài khấn (đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu). Hệ thống kinh điển của tôn giáo là những bộ kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển.

Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và theo nghề suốt đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo Công giáo đề là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít). Còn trước đây, những ông Đám của làng có 1 năm ra đình làm việc thờ Thánh, sau đó lại trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.

2. Sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan

2.1. Sự giống nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan

Giống như sự giống nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng dân gian, tức là đều tin vào những điều mà mắt mình không trông rõ, tai mình không nghe thấy thân hình và giọng nói của đấng thiêng liêng và của đối tượng thờ cúng; hạ là, những tín điều của tín ngững dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều mà người ta tin theo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc và những đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.

2.2.Sự khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan

Một là, xét về mục đích, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị đoan lấy mục đích kiếm tiền là chính. Người hoạt động trong lĩnh vực này chỉ làm việc với khách hàng khi có tiền.

Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này.

Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng (đình, từ đường, miếu,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề hoặc hành nghề tại tư gia.

Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự (ngày mùng Một, ngày Rằm âm lịch hàng tháng ra đình làm lễ Thánh; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…) thì những người hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra (mất của, chết đuối, ốm đau, hỏa hoạn,…), còn bình thường, có lẽ họ chẳng gặp thầy bói làm gì.

Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình.

3. Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan

Như trên đã trình bày, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng. Chính từ những điểm tương đồng này khiến chúng có mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó thể hiện ở các phương diện sau:

Trước hết, các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự,…

Hai là, đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo (chủ yếu là của Phật giáo) và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó, “độ tin cậy” của họ đối với khách hàng có thể được nâng cao

Ba là, một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian (tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hoàng) dựa vào sự thiếu hiểu biết của người dân đã sử dụng một số thủ thuật của nghề mê tín dị đoan để tăng thêm sự huyền bí của một số lễ thức ngoài tôn giáo và tín ngưỡng (chẳng hạn, lễ thức xin âm dương, rút thẻ,…) mà tôn giáo, tín ngưỡng nào đó vay mượn. Mặt khác, người hành nghề mê tín dị đoan cũng học được ở các pháp sư Phật giáo một số thế tay bắt quyết để họ hành nghề trừ tà ma,…

Bốn là, những người hành nghề mê tín dị đoan hoạt động tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian sẽ dễ dàng tiếp cận được với số đông khách hàng, và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn.

Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có những điểm giống và khác nhau và chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này được tạo ra bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta có cơ sở để góp phần phát huy mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng và khắc phục mặt tiêu cực của của chúng.

[1] Căn cứ theo tiêu chí là một tôn giáo phải có đầy đủ 4 yếu tố này, thì theo chúng tôi, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam không phải là một tôn giáo (đạo) như có học giả đã chủ trương mà nó chỉ là một loại tín ngưỡng của người Việt. Cũng tương tự như vậy, tín ngường thờ cụ kỵ tổ tiên ở nước ta cũng chỉ là một loại hình tín ngưỡng chứ không phải là “Đạo Ông bà” như có học giả người Pháp đã xác định vào thời kỳ trước năm 1945.

Theo Ban Tôn giáo Chính phủ

Trong quá trình tư vấn xét nghiệm ADN và giám định gen, các chuyên gia tại Trung tâm xét nghiệm ADN NOVAGEN nhận được rất nhiều câu hỏi liên quan đến vấn đề xác định huyết thống qua nhóm máu ABO có chính xác không?

Ví dụ như là:

Dưới góc độ di truyền học, máu được di truyền theo định luật Mendel.

Mỗi nhóm máu thuộc hệ thống phân loại ABO đều được quy định bởi các gen đặc trưng mang tính trội (gen trội) hoặc tính lặn (gen lặn).

Sự kết hợp giữa các gen lặn và gen trội sẽ quy định nhóm máu đặc trưng của mỗi người.

Tuy nhiên, khoa học đã chứng minh rằng phương pháp tính toán nhóm máu ABO có thể dự đoán được khả năng mối quan hệ huyết thống cha con nhưng độ chính xác rất thấp.

Do vậy, đối với các trường hợp yêu cầu tính pháp lý cao thì KHÔNG thể dựa vào nhóm máu A, B,O để xác định mối quan hệ huyết thống giữa hai người.

Chúng ta sẽ tìm hiểu chi tiết về cơ sở khoa học của phương pháp xác định huyết thống bằng nhóm máu trong các phần tiếp theo của bài viết này.

Trước hết, chúng ta hãy cùng tìm hiểu hệ thống nhóm máu ABO là như thế nào?

HỆ THỐNG NHÓM MÁU ABO

Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được

Cấu tạo của máu đều chứa các thành phần cơ bản giống nhau, bao gồm:

  • tế bào hồng cầu
  • bạch cầu
  • tiểu cầu
  • huyết tương.

Dựa vào sự hiện diện của các kháng nguyên và protein đặc thù có trên màng hồng cầu mà máu được phân loại thành các nhóm khác nhau.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng cơ thể con người có khoảng 46 nhóm máu khác nhau. Máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia.

Do đó, khi truyền máu khác nhóm vào, kháng thể của người nhận có thể phá hủy máu gây tác hại cho cơ thể.

Trong số các phân loại nhóm máu, hệ thống nhóm máu ABO là phổ biến nhất và được phân loại thành 4 nhóm máu chính là O, A, B và AB.

Trên bề mặt màng hồng cầu của mỗi nhóm máu A, B, O và AB sẽ có các kháng nguyên đặc trưng riêng của mỗi nhóm:

Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được

Nhóm máu ABO được phân loại dựa vào kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu.

1. Nhóm máu A

Nhóm máu A khá phổ biến, chiếm 35.7%, chỉ đứng sau nhóm máu O về sự phổ biến, được đặc trưng bởi sự hiện diện của kháng nguyên A trên các tế bào hồng cầu, và kháng thể B (để tấn công kháng nguyên B) trong huyết tương.

Vì vậy, người có nhóm máu A có thể:

  • Cho người có nhóm máu A và người có nhóm máu AB.
  • Nhận máu từ người có nhóm máu O và A.

2. Nhóm máu B

Đây là nhóm máu khá hiếm, chiếm 8.5%, chỉ đứng sau nhóm máu AB. Nó chứa các kháng nguyên B trên tế bào hồng cầu, và kháng thể A (để tấn công kháng nguyên A) trong huyết tương.

Vì vậy, người có nhóm máu B có thể:

  • Cho, hiến tặng máu cho người có nhóm máu B, người có nhóm máu AB.
  • Nhận máu truyền từ những người có nhóm máu B hoặc O.

3. Nhóm máu AB

Khác với nhóm máu O, nhóm máu AB không phổ biến, chỉ chiếm 3.4%. Nhóm máu AB được đặc trưng bởi có cả kháng nguyên A và B trên tế bào hồng cầu, và không có kháng thể trong huyết tương.

Vì vậy, người có nhóm máu AB có thể:

  • Cho, hiến tặng máu cho những người có nhóm máu AB.
  • Nhận máu truyền từ tất cả những người có nhóm máu A, B, AB, O.

4. Nhóm máu O

Nhóm máu O là nhóm máu phổ biến nhất, chiếm 37.4%. Nhóm máu O không có kháng nguyên A cũng không có kháng nguyên B trên tế bào hồng cầu, nhưng lại có cả hai kháng thể A và B trong huyết tương.

Vì vậy, người có nhóm máu O có thể:

  • Cho, hiến tặng máu cho tất cả các nhóm máu còn lại là A, B, AB, O.
  • Nhận máu truyền từ những người có nhóm máu O.

Như vậy, đến đây chúng ta có thể thấy rằng mỗi một nhóm máu trong hệ thống phân loại ABO đều có những đặc trưng riêng, kết cấu của mạch máu có thể bị phá vỡ nếu truyền không đúng nhóm máu tương thích.

Do đó, việc biết bạn thuộc nhóm máu nào và các đặc tính của nó ra sao là thông tin rất quan trọng cần được xác định ngay từ nhỏ và lưu trữ kèm theo hồ sơ sức khỏe cá nhân của mỗi người.

CƠ CHẾ DI TRUYỀN CỦA NHÓM MÁU ABO

Như đã được đề cập ở phần đầu của bài viết, nhóm máu được di truyền theo định luật Mendel.

Định luật Mendel hay quy tắc Mendel mô tả quá trình di truyền các đặc tính biểu hiện bên ngoài, được xác định bởi một gen duy nhất.

Quy tắc này được đặt theo tên của người phát hiện ra chúng Gregor Mendel. Ông là người đã công bố đầu tiên kết quả thí nghiệm ở cây đậu Hà Lan vào năm 1866.

Kiểu gen khác nhau sẽ tạo ra nhóm máu khác nhau

Mỗi nhóm máu thuộc hệ thống phân loại ABO đều được quy định bởi các gen đặc trưng mang tính trội (gen trội) hoặc tính lặn (gen lặn). Sự kết hợp giữa các gen lặn và gen trội sẽ quy định nhóm máu đặc trưng của mỗi người.

  • Có 2 gen trội quy định tính trạng nhóm máu, đó là gen A và gen B
  • Có 1 gen lặn quy định tính trạng nhóm máu, đó là gen O

Người nhóm máu A có thể mang kiểu gen AA hoặc AO, người nhóm máu B mang kiểu gen BB hoặc BO, người nhóm máu AB mang kiểu gen AB, người có nhóm máu O mang kiểu gen OO.

Do đó, sự kết hợp giữa người bố mang nhóm A, mẹ mang nhóm máu B có thể sinh ra con mang nhóm máu AB.

Dưới đây là sơ đồ về cơ chế di truyền của nhóm máu ABO:

Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được

Tính tương đối của việc dựa vào nhóm máu để xác định huyết thống có thể được giải thích qua các trường hợp kết hợp của các nhóm máu như sau:

Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được

Mối quan hệ giữa nhóm máu của bố mẹ với con

Tư vấn xét nghiệm ADN Cha Con

Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được

Như vậy, khi biết được nhóm máu của Bố và Mẹ thì sẽ biết được thông tin nhóm máu của Con.

  • Theo đó, bố nhóm máu A kết hợp với mẹ nhóm máu B cho con có nhóm máu O, A, B, AB. Hoặc bố nhóm máu A kết hợp với mẹ nhóm máu O thì con sẽ có nhóm máu A, O; bố có nhóm máu A kết hợp với mẹ có nhóm máu AB thì con sinh ra có thể mang các nhóm máu như A, B, AB…Tương tự, nếu mẹ có nhóm máu AB, con có nhóm máu A thì bố của đứa bé sẽ có thể mang một nhóm máu bất kỳ trong 4 nhóm máu ==> vì thế việc xác định quan hệ cha con theo nhóm máu trong trường hợp này là không hề chính xác.
  • Bố và mẹ đều có nhóm máu O chỉ có thể sinh ra người con có nhóm máu O ==> Do vậy, nếu người “Con” không có nhóm máu O thì rất có thể đó không phải là Con của cặp bố mẹ này.

Chúng ta có thể xem sơ đồ sau để thấy rõ ràng và trực quan hơn về sự di truyền nhóm máu ABO:

Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được

Cơ sở xác định huyết thống qua nhóm máu ABO

Ở khía cạnh ngược lại, nếu biết nhóm máu của Mẹ và nhóm máu của Con thì có suy ra được nhóm máu của Bố đứa trẻ hay không?

Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được

Sự liên quan giữa huyết thống và nhóm máu

Nhìn vào bảng trên, chúng ta có thể thấy rằng:

  • Nếu Mẹ có nhóm máu A, con có nhóm máu A ==> nhóm máu của người cha sinh học có thể là 1 trong 4 loại A hoặc B hoặc AB hoặc O
  • Nếu Mẹ có nhóm máu A, con có nhóm máu B ==> người cha sinh học có thể có nhóm máu B hoặc AB
  • Đặc biệt, nếu Mẹ là AB thì Con không thể là O, nếu Mẹ là O thì con không thể là AB.

Từ những điều trên có thể thấy, nếu chỉ dựa vào nhóm máu để xác định quan hệ huyết thống sẽ KHÔNG có kết quả chính xác ==> kết quả xác định nhóm máu này chỉ mang tính chất tương đối và có ý nghĩa tham khảo khi xác định quan hệ huyết thống Cha-Con.

XÁC ĐỊNH HUYẾT THỐNG THEO NHÓM MÁU ABO

Vì mang tính chất tương đối như đã phân tích ở trên nên vẫn có trường hợp các giám định viên có thể dùng nhóm máu để xác định quan hệ huyết thống.

Từ năm 1920, các nhà khoa học đã xác định rằng nhóm máu có thể di truyền cho thế hệ sau và có thể dự đoán một cách tương đối của đứa trẻ dựa trên nhóm máu của bố mẹ.

Ngược lại, khi biết được nhóm máu của con và nhóm máu của mẹ thì cũng sẽ dự đoán được nhóm máu của người cha sinh học của đứa trẻ.

Ví dụ như:

  • Bố và mẹ đều mang nhóm máu O thì con sinh ra chỉ có thể mang nhóm máu O mà không thể là nhóm A, B hay AB.
  • Bố và mẹ đều mang nhóm máu AB thì con sinh ra sẽ có nhóm máu A, B, AB mà không thể có nhóm máu O.
  • Bố và mẹ đều mang nhóm máu B thì con sinh ra không thể có nhóm máu A, AB.
  • Bố và mẹ đều mang nhóm máu A thì con sinh ra không thể có nhóm máu B, AB.

Như vậy, dựa trên những phân tích nêu trên, chúng ta có thể kết luận rằng: xác định huyết thống qua nhóm máu ABO có mức độ chính xác khá thấp và việc này không được thừa nhận về mặt pháp lý. Chỉ có xét nghiệm ADN mới giúp xác định huyết thống một cách chính xác và có độ tin cậy cao nhất.

Cho đến nay việc xác định xem hai người có cùng hay không cùng quan hệ huyết thống chủ yếu vẫn dựa vào xét nghiệm ADN. Muốn thực hiện được xét nghiệm này thì phải lấy mẫu máu, tóc hay tế bào niêm mạc miệng của những người cần xét nghiệm để phân tích và so sánh thông tin ADN của mỗi người với nhau.

>> Đọc thêm:

TS. Đặng Trần Hoàng Viện trưởng Viện Công nghệ ADN và Phân tích di truyềnwww.xetnghiemadnchacon.com

Dựa vào đặc điểm nào giống nhau mà các bạn có thể liên kết với nhau được