Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là gì năm 2024

1. Về căn cứ áp dụng Khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định ba trường hợp các cơ quan có thẩm quyền được phép áp dụng biện pháp "Giữ người trong trường hợp khẩn cấp", bao gồm: [i] Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; [ii] Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; [iii] Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Như vậy, về cơ bản, BLTTHS năm 2015 vẫn tiếp tục kế thừa các quy định về căn cứ áp dụng biện pháp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp". Đồng thời, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm, BLTTHS năm 2015 cũng bổ sung thêm sự xác nhận của "người cùng thực hiện tội phạm", phát hiện dấu vết tội phạm tại "nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm" là những căn cứ để áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Bên cạnh đó, nhằm khắc phục quy định mang tính chất định tính, chưa cụ thể về căn cứ bắt khẩn cấp trong trường hợp một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng tại BL TTHS năm 2003 "Khi có căn cứ để cho rằng…", điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 đã quy định khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải bảo đảm "Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng". Như vậy, trong trường hợp này khi muốn giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan tiến hành tố tụng phải thu thập được đầy đủ căn cứ để xác định người đó có các hành vi đang chuẩn bị thực hiện tội phạm và điều quan trọng là đó có phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 14 của Bộ luật hình sự năm 2015 hay không. 2. Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng Ngoài chủ thể có thẩm quyền áp dụng là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng - là những nhóm chủ thể đã được quy định tại BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 cũng bổ sung thêm những chủ thể sau cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này, bao gồm: Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng. 3. Về trình tự, thủ tục áp dụng BLTTHS năm 2015 quy định rất chặt chẽ về trình tự, thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Theo đó, để giữ người trong trường hợp khẩn cấp cần có Lệnh giữ người. Khoản 3 Điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định "Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này" và "Việc thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 113 của Bộ luật này". Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Nếu xét thấy có căn cứ thì phải ra quyết định tạm giữ, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chuyển hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn bao gồm: Văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ; Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp; Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Nếu xét thấy không có đủ căn cứ thì phải trả tự do ngay cho người bị giữ. Như vậy, so với trường hợp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp" thì thời gian phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt đã được rút ngắn lại còn 12 giờ [trước đây là 24 giờ]. Đồng thời, điều luật cũng đã mở rộng hơn thẩm quyền cho Cơ quan điều tra khi cho phép Cơ quan điều tra có thể trả tự do ngay cho người bị giữ mà không cần phải có sự đồng ý của Viện kiểm sát khi xét thấy không có căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Để bảo đảm việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thận trọng, chính xác, tránh việc lạm dụng quyền hạn bắt không có căn cứ, bảo đảm các quyền và lợi ích của người bị bắt, điều luật quy định Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ. Như vậy, với cách quy định này thì cần lưu ý Viện kiểm sát chỉ xem xét phê chuẩn hoặc không phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chứ không phải xem xét việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Có thể khẳng định, những điểm mới của biện pháp "Giữ người trong trường hợp khẩn cấp" đã phản ánh rõ nét sự tiến bộ về mặt nhận thức cũng như kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật. Những thay đổi quan trọng về căn cứ, thẩm quyền và trình tự, thủ tục áp dụng như đã phân tích nêu trên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn, đặc biệt là trong việc áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, việc sử dụng biện pháp ngăn chặn này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người và kết quả giải quyết vụ án sau này nên các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét thận trọng nhằm áp dụng chính xác, chỉ áp dụng khi thật cần thiết, tránh lạm dụng.

Chủ Đề