1 - "Hiền tài là nguyên khí quốc gia"!Người hiền tài trước hết phải là người có trí thông
minh và niềm khát vọng. Hai yếu tố đó giúp họ vượt qua những khó khăn
trở ngại để theo đuổi đúng
nghề nghiệp mà mình yêu thích. Người hiền tài thường biểu hiện sự đam
mê đến cháy bỏng trong công việc, không sợ thất bại, biết cách chấp
nhận sự rủi ro, tìm mọi phương cách làm cho công việc mang lại hiệu quả
cao nhất.
Có những người tài chỉ tập trung đi sâu vào một lĩnh
vực chuyên môn, còn những lĩnh vực khác anh ta tỏ ra chàng màng, ngu
ngơ, vụng về. Những người này nếu được giao làm quản lý thường hay vấp
váp. Lại có những người tài ngoài khả năng chuyên môn của mình, còn
quan tâm nghiên cứu nhiều lĩnh vực liên quan và không ít người thể hiện
sự giỏi giang trên nhiều lĩnh vực. Người tài loại này nếu được giao làm
quản lý sẽ rất năng động và thành công.
Người hiền tài thường có phong cách sống độc lập, rất sợ đánh mất mình. Trong các cuộc họp, anh ta không nói dựa, không nói leo,
không a dua mà chỉ nói đúng những điều mình nghĩ mặc dù điều đó chưa
hẳn đã là chân lý. Anh ta có thể dám làm những việc mà anh ta cho là
đúng, hữu ích mặc dù chưa có sự đồng tình của số đông. Như vậy cái sự
giữ được bản sắc, không tự đánh mất mình côn bao hàm cả lòng qủa cảm
nữa.
Người hiền tài có khả năng nắm bắt dự báo những diễn
biến của thời đại, của xã hội mà anh ta đang sống và trong tương lai.
Nếu sống trong xã hội chậm phát triển, có những việc anh ta làm chưa
chắc đã được thừa nhận ngay, thậm chí anh ta sẽ phải làm việc trong
thầm lặng, cô đơn, khắc khoải. Có khi dự án, công trình, tác phẩm của
anh ta chỉ được thừa nhận khi anh ta đã từ giã thế giới. Đã biết trước
số phận là thế, anh ta văn không bỏ cuộc.
Người hiền tài cũng có những nhu cầu sinh tồn như mọi
người, nhưng chỉ hưởng thụ những gì tương xứng với công súc của mình
làm ra, không tham lam vụ lợi, không lấn sân, chiếm chỗ của người khác
một cách thô thiển, không tìm kiếm ô dù dựa dẫm, cửa sau, "của ngách"
. Họ thành thật với mình, với người, ghét thói hư danh, hợm hĩnh, dối
trá.
Người hiền tài không thể không có một tâm hồn trong
sáng và lãng mạn. Nhân loại chẳng đã từng có những công trình khoa học
vĩ đại, những tác phẩm văn học nghệ thuật bất hủ được làm ra từ một bộ
óc có trí tưởng tượng bay bổng và một trái tim
nhân hậu đó sao? Xin đừng nghĩ chỉ có những người hoạt động khoa học xã
hội mới cần đến những tố chất bay lượn bên trên hiện thực. Những chiếc
máy bay phản lực, máy bay chở khách, những chiếc ô tô du lịch sang
trọng, những chiếc tàu thủy đẹp như những tòa biệt thự nổi trên biển
không thể được sản xuất từ những cái đầu trọc phú, mà phải từ những cái
đầu lãng mạn, dư thừa trí tưởng tượng.
Người hiền tài thường có tính hài hước. Họ dùng tính
hài hước để chế giễu những thói hư tật xấu của người đời và có khi tự
giễu cợt chính bản thân mình. Tú Xương từng giễu cợt mình là "phỗng
sành là dở dở ương ương", "cao lâu ăn quỵt,, gái đĩ chơi lường,
Nam Cao tự giễu mình là loại sống mòn hèn hạ, có cái mặt không chơi
được", Nguyễn Khuyến thì giễu mình là hạng người "Mở miệng nói ra gàn
bát sách/ Mềm môi chén mãi tít cung thang, Nguyễn Bính tự giễu mình
một cách gián tiếp khi khuyên con gái không nên đi theo cái nghề của
mình bởi "nghèo lắm con ơi, bạc lắm con", Môlie, Xécvăngtét, Gôgôn,
Sêkhốp đều là những nhà hài hước bậc thầy.
Người hiền tài có nhiều đặc điểm hiện diện thế. Nhưng
nhận diện ra người hiền tài và sử dụng được người hiền tài là cả một
vấn đề lớn, không đơn giản chút nào. Bởi trong cuộc sống, người ta dễ
nhầm lẫn người chân tài [thực tài] với kẻ hư tài [bất tài]. Người tài
thường hiện hữu trước đồng loại với tất cả những gì mình có. Kẻ bất tài
thường tạo ra một cái vỏ bọc mỹ miều để che đậy sự kém cỏi bên trong.
Người tài nói thế nào làm thế ấy. Kẻ bất tài sống lập lờ, hai mặt nói
rất hay ho nhưng làm rất dở. Khi làm dở thường tìm cách ngụy tạo, đổ
lỗi cho người khác. Cấp trên mà bất tài, hư tài thì khó có thể chấp
nhận một người chân tài dưới quyền mình, bởi kẻ bất tài thường có tầm
nghĩ cạn, tầm nhìn ngắn, có thói ích kỷ, hẹp hòi, đổ kị, khó có thể
đồng cảm, đồng điệu, tri âm tri kỷ được với người tài. Hơn nữa, nếu sử
dụng người tài, kẻ bất tài thường lo sợ canh cánh một điều rằng, đến
một ngày nào đó, người tài sẽ ngồi vào chỗ của họ... Hiện tượng "ố nhân
thắng ký" này là một tác nhân kéo lùi bước hến của lịch sử.
Dung nạp người hiền tài, làm cho họ thăng hoa, tỏa
sáng, dâng hiến hết mình để phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân là trách
nhiệm và nghĩa vụ không chỉ của các cấp lãnh đạo.
"Hiền tài là nguyên khí quốc gia" - câu nói của bậc tiền nhân mãi mãi và luôn luôn đúng. Nguồn:
Tạp chí Văn nghệ Công An |
2 - "Hiền tài là nguyên khí quốc gia"! Nhà báo Hữu Thọ có kể một câu chuyện vừa vui, vừa buồn và rất đáng
để suy nghĩ: Một người đã thành đạt nhưng không thể trở về đóng góp cho
tỉnh nhà, anh ta than vãn với nhà báo: Ở dưới đó: giàu thì ghét, đói
rét thì khinh, thông minh thì diệt. Em vừa giàu, lại vừa thông minh nên
đáng chết đến hai lần, vậy làm sao có thể làm ăn ở quê được?.
Đến nay nhiều người trong chúng ta đều biết Thân Nhân Trung
trong một bài viết trên bia ở Văn Miếu Hà Nội đã khẳng định Hiền tài
là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày
càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống cấp. Rõ
ràng, ông cha ta từ xưa đã quan niệm nguyên khí của quốc gia vừa là
khát vọng, vừa là sức sống của dân tộc. Ngay từ khi còn nhỏ, mới cắp
sách đến trường, tôi đã được các thày cô dậy về lòng tự hào quê hương
Thái Bình đã sản sinh ra nhà bác học, nhà giáo Lê Quý Đôn. Ông đã có
những nhận định trở thành chân lý cho mọi thời đại Phi nông bất ổn,
phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng có nghĩa là
đất nước muốn hưng vượng phải nhờ vào trí thức. Hiền tài, theo định
nghĩa như trên của Thân Nhân Trung, đương nhiên là trí thức. Có rất
nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức. Theo từ điển thì:Trí thức là
người sử dụng trí tuệ làm việc, nghiên cứu, phản ánh, dự đoán hoặc để
hỏi và trả lời các các câu hỏi liên quan hàng loạt những ý tưởng khác
nhau. C.Mac định nghĩa : Trí thức là người nói sự thật, phê bình
không nhân nhượng về những gì hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa
rằng họ không lùi bước trước kết luận của chính mình, hoặc xung đột với
quyền lực, bất cứ quyền lực nào. Ngày nay, theo quan điểm chính
thống, trí thức là những người lao động trí óc. Thái độ của trí thức là
thước đo sự tiến triển của chế độ. Gs Cao Huy Thuần đại học Picardie
[Pháp] định nghĩa :Ai đánh thức không cho xã hội ngủ, người ấy là trí
thức bất kỳ họ là ai. J.P.Sartre, triết gia lừng danh người Pháp đã
nói Nếu ai đó chế tạo ra quả bom nguyên tử, thì người đó là bác học,
chỉ khi nào ông bác học ý thức được cái khí giới giết ngươi ghê gớm ấy,
đứng lên hô hào chống bom nguyên tử, lúc đó ông ta là trí thức. Lịch
sử nhân loại, việc dùng người mỗi thời khác nhau tùy theo hoàn cảnh
lịch sử, thời thế và vai trò, nhiệm vụ. Đông-Tây, kim-cổ người có thực
tài và là người trí thức chân chính đều có mẫu số chung trong cách
ứng xử với xã hội và tầng lớp cầm quyền. Người chân chính có thực tài
thật là hiếm hoi, cần phải biết tìm, biết trân trọng. Thời Tam quốc,
Lưu Bị được lên làm vua cai trị nước Thục nhờ sáng suốt biết thu phục
nhân tâm và trọng dụng người tài. Điển hình là ông đã 3 lần thực tâm
lặn lội [tam cố thảo lư] đến mời Gia Cát Lượng về hợp tác với mình. Tần
Thủy Hoàng vị Hoàng đế Trung Hoa đầu tiên có công thống nhất đất nước
nhưng cai trị đất nước bằng bạo quyền, đốt sách, phỉ báng trí thức cho
nên chỉ được thời gian ngắn nhà Tần đã suy vong. Đất nước ta, từ
xưa đến nay lúc nào cũng nhiều người hiền tài, tuy nhiên từng thời kỳ,
từng lúc mà nguồn hiền tài đó được khơi ra như thế nào. Có nghĩa là khi
được quan tâm, trọng dụng thì hiền tài sẽ có, tri thức sẽ nhiều. Người
có học vấn thường có khả năng phán đoán và nhận định tình hình sáng
suốt hơn người thường. Thời phong kiến, ở nước ta đã có biết bao bài
học khi biết trọng dụng trí thức thì công cuộc bảo vệ tổ quốc, chống
ngoại xâm và xây dựng đất nước phát triển rất hiệu quả nhờ tầng lớp trí
thức lãnh đạo biết khơi dạy, hòa đồng cùng với nhân dân xả thân vì
nghiệp lớn. Bài Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, bài
thơ bất hủ của Lý Thường Kiệt xác định chủ quyền của đất nước Nam quốc
sơn hà Nam đế cư hay bản hùng văn lịch sử của Nguyễn Trãi :Bình Ngô
đại cáo là minh chứng cho sự sáng suốt của các tiền nhân biết coi
trọng và sử dụng trí thức là các nhà quân sự, nhà tư tưởng chiến lược
của thời đại. Mặc dù chế độ phong kiến chỉ cho phép sĩ phu tiến
thân trong chốn quan trường nhưng các bậc trí thức hiền tài khi thấy ý
kiến của mình không được Vua tôn trọng, đã sẵn sàng rũ áo, từ quan về ở
ẩn. Ông Chu Văn An nổi tiếng là bậc Thánh hiền, ngay khi đỗ Thái học
sinh, ông từ chối làm quan, không màng danh lợi về quê mở trường dạy
học có nhiều môn sinh. Vua Trần Minh Tông biết tài của Chu Văn An mời
ông vào triều dạy học cho thái tử và các con đại thần. Đến đời vua Trần
Dụ Tông thấy nhiều đại thần xung quanh Vua là nịnh thần, tham quan, nhà
giáo Chu Văn An đã dũng cảm dâng sớ, hạch tội và xin chém 7 kẻ tội
thần. Vua không nghe, ông liền treo ấn, từ quan về ở ẩn. Thất trảm sớ
nổi tiếng của nhà giáo Chu Văn An vẫn còn được truyền tụng mãi đến muôn
đời sau. Thời Vua Quang Trung là bậc minh quân biết sử dụng người tài
nhưng tiếc thay lại đoản thọ nên nghiệp lớn vẫn còn dở dang. Thời
kỳ cách mạng còn trong trứng nước Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh với tư
duy, tầm nhìn sáng suốt và uy tín to lớn đã cảm hóa, thuyết phục được
nhiều nhân sĩ, trí thức tiêu biểu tham gia khối đại đoàn kết dân tộc,
sẵn sàng từ bỏ cuộc sống nhung lụa, bất chấp hiểm nguy đi theo cách
mạng, hy sinh cho nghiệp lớn. Khi thành lập Chính phủ kháng chiến, một
trong những bức công văn quan trọng đầu tiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi đi là bài báo Tìm người tài đức đăng công khai. Trong đó Người
bày tỏ sự quan ngại không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ
nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những người tài đức không thể
xuất thân. Cũng chính Hồ Chủ Tịch đã biết cách khơi dậy nguồn
nguyên khí dồi dào của đất nước, đó là đội ngũ trí thức cán bộ Cách
mạng. Người dạy Muốn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt
hoặc kém. Tuy thế, trong công tác phát hiện, bồi dưỡng và tuyển chọn
hiền tài ở nước ta có thời kỳ vẫn còn thể hiện sự hẹp hòi, thiển cận về
lý lịch, thành phần và chưa dám tin dùng những người có thực tài ngoài
Đảng.Một số người có trách nhiệm trong công tác tổ chức cán bộ đã không
thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Tịch. Nhà báo Hữu Thọ có kể một câu
chuyện vừa vui, vừa buồn và rất đáng để suy nghĩ: Một người đã thành
đạt nhưng không thể trở về đóng góp cho tỉnh nhà, anh ta than vãn với
nhà báo: Ở dưới đó: giàu thì ghét, đói rét thì khinh, thông minh thì
diệt. Em vừa giàu, lại vừa thông minh nên đáng chết đến hai lần, vậy
làm sao có thể làm ăn ở quê được?. Ngày nay có thể hiểu hiền tài
không chỉ là trí thức, mà là tất cả những ai có năng lực, có tâm huyết
và khát vọng cống hiến cho đất nước, cho dân tộc. Cổ nhân đã dạy
:Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách có nghĩa là ngay cả người tầm
thường cũng phải chịu trách nhiệm trước sự hưng vong của đất nước. Trí
thức lại càng phải có trách nhiệm hơn thế!. Ngày nay, tiếp tục truyền
thống của cha ông, trí thức cần được rèn luyện để trở thành hiền tài có
vai trò và trách nhiệm cống hiến tài năng vào tiến trình phát triển đất
nước. Người khôn học kinh nghiệm lịch sử, kẻ dại học kinh nghiệm bản
thân. Thời xưa, có những nhà vua anh minh đề ra chức Gián quan được
miễn tội chém đầu để can ngăn những việc không đúng, không nên làm của
Vua. Tri thức thời nay là tầng lớp tinh hoa của xã hội, sáng tạo ra các
giá trị tinh thần, tôn trọng chân lý phải biết làm phản biện chính là
hình ảnh của gián quan thời xưa nhưng được nâng lên tầm cao mới theo
tư duy của xã hội dân chủ và phù hợp với thời đại toàn cầu hóa của nền
kinh tế tri thức. Chúng ta tin vào sức năng động tự thân của dân
tộc, sự sáng tạo và bền bỉ của giới trí thức như ngọn lửa bùng lên để
những người có trọng trách biết suy nghĩ, trọng dụng, quy tụ, sử dụng
đội ngũ trí thức, nhất là các bậc trí thức lão thành, tâm huyết có kinh
nghiệm, bản lãnh hiến kế cho tiến trình xây dựng đất nước. Các bậc trí
thức hàng đầu của đất nước, theo quy luật của tạo hóa sẽ có lúc phải
ngừng nghỉ, đó là khoảng trống mênh mông để lại. Nhìn xa, hiền tài
phải được hướng tới lớp người trẻ tuổi bởi vì họ mới là lớp người có
khả năng tiếp thu cái mới, sáng tạo, phụng sự đất nước khi còn sung
sức. Khơi nguồn hiền tài từ lớp trẻ, đặc biệt là tuổi trẻ trí thức là
con đường lâu dài và đúng đắn nhất. Cần tạo môi trường cho trí thức làm
việc, phát huy năng lực, đãi ngộ xứng đáng công sức, thành quả họ mang
lại. Tuy nhiên, vẫn có luồng ý kiến, trí thức chân chính không cần đãi
ngộ, họ sẽ tự biết tìm cách để sáng tạo và tự sử dụng mình vào những
công việc hữu ích cho tổ quốc. Có thực tế, luật bất thành văn, trong
hệ thống xét duyệt, bổ nhiệm cán bộ cao cấp của Nhà nước không có chỗ
dung thân cho những trí thức tài giỏi ngoài Đảng. Có nghịch lý, khá
nhiều trí thức tiêu biểu cũng lại không thiết tha vào Đảng để làm con
đường tiến thân!. Nếu chúng ta hiểu một cách sâu sa chân lý Hiền
tài là nguyên khí của quốc gia không cần phải đốt đuốc lên mới thấy
được người có thực tài mà chỉ cần có kế sách cụ thể, thực sự trân trọng
tài năng, khiêm nhường mời gọi người tâm huyết để khơi nguồn hiền tài
còn rất nhiều tiềm năng của đất nước để làm cho đất nước hưng thịnh và
hiền tài ngày một nhiều thêm. Trong công tác cán bộ, Hồ Chí Minh luôn
coi trọng dân, phải theo ý dân : Dựa theo ý kiến của họ mà cất nhắc
cán bộ, nhất định không xảy ra việc thiên tư thiên vị, nhất định hợp lý
và công bằng. Không hiểu vì sao lúc này, tôi lại tự vấn và ước ao nếu
những người làm công tác cán bộ thực sự thấu hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh
thì giới tinh hoa của trí thức kể cả trong và ngoài Đảng lại đồng nghĩa
với giới lãnh đạo thì chắc chắn đất nước sẽ hưng thịnh, hội nhập và xã
hội sẽ ổn định, phát triển vững bền. Trước kia, bây giờ và mãi
mãi sau này hiền tài luôn là nguyên khí của quốc gia, là nguồn tài
nguyên và động lực to lớn để đất nước đi lên.
Nguồn: hoinhavanvietnam.vn |