Hơi thở mạnh là bệnh gì năm 2024

Thở rít được tạo ra bởi dòng khí nhanh, hỗn loạn đi qua một đoạn đường thở bị hẹp hoặc bị tắc nghẽn một phần đường hô hấp trên ngoài lồng ngực. Các vùng có liên quan bao gồm họng, nắp thanh môn, thanh quản, và khí quản ngoài lồng ngực.

Nguyên nhân cấp tính thường là nhiễm trùng ngoại trừ dị vật và dị ứng.

Các nguyên nhân mạn tính thường là các bất thường cấu tạo bẩm sinh hoặc mắc phải của đường hô hấp trên.

Khò khè thoáng qua hoặc liên tục có thể là do sự co thắt thanh quản cấp tính hoặc rối loạn chức năng dây thanh khi hít vào.

Các nguyên nhân phổ biến nhất của khò khè cấp tính ở trẻ em bao gồm

  • Hít phải dị vật

Các rối loạn đường hô hấp bẩm sinh khác nhau có thể biểu hiện như thở rít tái phát ở trẻ sơ sinh và trẻ em.

Các nguyên nhân thường gặp ở người lớn bao gồm:

  • Phù nề sau rút ống nội khí quản
  • Phù hoặc liệt dây thanh âm
  • U thanh quản
  • Phản ứng dị ứng

Tiền sử của bệnh hiện tại trước hết phải xác định xem các triệu chứng có cấp tính hay mạn tính và có thể là tạm thời hay ngắt quãng. Nếu cấp tính, lưu ý bất kỳ triệu chứng nào của nhiễm trùng đường hô hấp trên [chảy nước mũi, sốt, đau họng] hoặc dị ứng [ngứa, hắt hơi, sưng mặt, phát ban, tiếp xúc với chất gây dị ứng tiềm ẩn]. Cần phải khai thác rõ tiền sử đặt nội khí quản hay phẫu thuật vùng cổ. Nếu mạn tính, cần xác định thời điểm xuất hiện [ví dụ, kể từ khi sinh, thời ký sơ sinh, chỉ ở tuổi trưởng thành] và xác định thời gian diễn biến, cũng như tính chất các triệu chứng liên tục hoặc không liên tục. Đối với các triệu chứng không liên tục, các yếu tố kích thích hoặc làm trầm trọng thêm [ví dụ như vị trí, phơi nhiễm chất gây dị ứng, lạnh, lo lắng, bú mẹ, khóc] cần được khai thác. Các triệu chứng kết hợp quan trọng trong tất cả các trường hợp bao gồm ho, đau, chảy nước dãi, suy hô hấp, tím, và ăn khó.

Đánh giá một cách hệ thống nên tìm kiếm các triệu chứng gợi ý bệnh lý căn nguyên, bao gồm ợ nóng hoặc các triệu chứng trào ngược khác [co thắt thanh quản]; ra mồ hôi ban đêm, giảm cân, và mệt mỏi [ung thư]; và thay đổi giọng nói, khó nuốt, và sặc tái phát [bệnh lý thần kinh].

Tiền sử y khoa ở trẻ em nên bao gồm tiền sử chu sinh, đặc biệt là về tiền sử đặt nội khí quản, có các dị tật bẩm sinh hay không, và tiền sử tiêm chủng [đặc biệt là HiB]. Ở người trưởng thành, nên khai thác tiền sử đặt nội khí quản, gây mê, nhiễm trùng đường hô hấp tái phát và sử dụng thuốc lá và rượu.

Bước đầu tiên là xác định dấu hiệu và mức độ suy hô hấp bằng cách đánh giá các dấu hiệu quan trọng [bao gồm đo độ bão hòa oxy máu theo xung mạch] và thăm khám nhanh trên lâm sàng. Các dấu hiệu của suy hô hấp nghiêm trọng bao gồm tím, rối loạn ý thức, độ bão hòa oxy thấp [ví dụ: < 90%], đói khí, kéo cơ hô hấp phụ, và nói khó. Trẻ em mắc bệnh viêm thanh quản có thể ngồi thẳng với hai cánh tay đặt trên hai chân hoặc bàn khám, nghiêng về phía trước, và mở rộng cổ với hàm kéo về phía trước và miệng mở ra để tăng cường trao đổi không khí [tư thế tripod]. Suy hô hấp ở mức trung bình có biểu hiện thở nhanh, co kéo các cơ hô hấp phụ và co rút cơ liên sườn. Nếu tình trạng suy hô hấp trầm trọng, cần phải chuẩn bị đầy đủ các thiết bị và nhân lực để có thể cấp cứu kiểm soát đường thở trước khi tiến hành các thăm dò tiếp theo.

Khám họng miệng của một bệnh nhân [đặc biệt là trẻ nhỏ] bị viêm thanh quản có thể gây ra lo lắng, dẫn đến tắc nghẽn chức năng và mất đường dẫn khí. Do đó, nếu nghi ngờ bị viêm thanh quản, không nên đặt que đè lưỡi hoặc các dụng cụ khác vào miệng. Khi mức độ nghi ngờ thấp và bệnh nhân không suy hô hấp, bệnh nhân có thể tiến hành các thăm dò chẩn đoán hình ảnh; những trường hợp khác nên được chuyển đến phòng mổ để soi thanh quản trực tiếp, do một bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng thực hiện dưới gây mê.

Nếu dấu hiệu sinh tồn và hô hấp của bệnh nhân đều ổn định và không nghĩ đến viêm thanh quản cấp, nên đánh giá kỹ khoang miệng để kiểm tra các chất bài tiết, lưỡi phì đại, xơ cứng, đỏ, hoặc dị vật. Sờ vùng cổ để phát hiện khối u và độ lệch khí quản. Nghe cân thận tiếng thở ở mũi, miệng-họng, cổ, và ngực có thể giúp phân biệt vị trí của tiếng rít. Khi khám trẻ sơ sinh nên lưu ý đến hình thái sọ mặt [tìm kiếm các dấu hiệu dị tật bẩm sinh], tình trạng mở của mũi, và các bất thường trên da.

Những phát hiện sau đây cần được quan tâm đặc biệt:

  • Chảy nước dãi và kích động
  • Tư thế tripod
  • Tím tái hoặc giảm oxy máu khi đo độ bão hòa oxy máu theo xung mạch
  • Giảm mức độ ý thức

Các biểu hiện cấp tính có nhiều khả năng phản ánh một rối loạn đe dọa tính mạng ngay lập tức. Với những rối loạn này, sốt cho thấy tình trạng nhiễm trùng. Sốt kèm với ho ông ổng gợi ý bệnh viêm thanh khí quản cấp, hoặc rất hiếm khi bị viêm khí quản. Bệnh nhân mắc bệnh ung thư phổi thường có các triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp trên nổi bật hơn và ít biểu hiện độc hại hơn. Sốt mà không ho, đặc biệt nếu đi kèm với biểu hiện nhiễm độc, đau họng, khó nuốt, hoặc suy hô hấp, cho thấy viêm nắp thanh môn, và ở trẻ nhỏ, ít gặp hơn là áp xe thành sau họng. Chảy nước dãi và tư thế tripod gợi ý viêm nắp thanh môn, trong khi áp xe sau họng có thể biểu hiện bằng triệu chứng cổ cứng và hạn không ngửa được cổ.

Bệnh nhân không sốt hoặc không có triệu chứng nhiễm trùng đường hô hấp trên có thể có phản ứng dị ứng cấp tính hoặc hít phải dị vật. Phản ứng dị ứng cấp tính nghiêm trọng đủ để gây ra tiếng rít thường có các biểu hiện khác của phù nề đường dẫn khí [ví dụ phù miệng hoặc mặt, thở khò khè] hoặc sốc phản vệ [ngứa, nổi mày đay]. Dị vật gây tắc đường hô hấp trên luôn gây ra thở rít cấp tính nhưng có thể biểu hiện đáo [biểu hiện ở trẻ lớn hơn và người lớn là vẫn có thể giao tiếp trừ khi tắc nghẽn gần như hoàn toàn đường thở, chứ không phải là tiếng rít]. Ho xuất hiệu khi có dị vật nhưng hiếm khi có trong phản ứng dị ứng.

Tiếng rít mạn tính bắt đầu từ thời thơ ấu và không có yếu tố kích động rõ ràng cho thấy một dị tật bẩm sinh hay một khối u đường hô hấp trên. Ở người lớn, hút thuốc nhiều và sử dụng rượu nên làm tăng nghi ngờ chẩn đoán ung thư thanh quản. Liệt dây thanh thường có một gợi ý rõ ràng, chẳng hạn như tiền sử phẫu thuật hoặc đặt nội khí quản, hoặc có liên quan đến các triệu chứng thần kinh khác, chẳng hạn như yếu cơ. Bệnh nhân bị nhuyễn khí quản thường ho có đờm và có tiền sử viêm đường hô hấp tái phát.

Xét nghiệm nên bao gồm đo độ bão hòa oxy máu theo xung mạch. Ở những bệnh nhân có suy hô hấp nhẹ, chụp X-quang phần mềm vùng cổ có thể hữu ích. Có thể nhìn thấy phì đại nắp thanh môn hoặc khoảng trống ở phía sau họng trên phim nghiêng, và có thể thấy được dấu hiệu hẹp trên nắp thanh môn [dấu hình chữ thập] trên phim thẳng. X-quang cũng có thể xác định các dị vật ở cổ hoặc ngực.

Trong các trường hợp khác, nội soi thanh quản có thể phát hiện bất thường dây thanh, bất thường về cấu trúc và khối u. CT của cổ và ngực nên được thực hiện nếu có nghi ngờ bất thường về cấu trúc, chẳng hạn như khối u đường hô hấp trên hoặc nhuyễn khí quản. Đường cong lưu lượng thể tích có thể hữu ích trong trường hợp thở rít mạn tính và không liên tục để chứng tỏ có tắc nghẽn đường thở trên. Đường cong lưu lượng thể tích bất thường nói chung cần phải theo dõi bằng CT hoặc soi thanh quản.

Điều trị triệt để thở rít liên quan đến điều trị bệnh lý nền.

Là một biện pháp tạm thời ở những bệnh nhân bị suy hô hấp nặng, một hỗn hợp heli và oxy giúp cải thiện luồng không khí và giảm tiếng rít trong các bệnh lý đường hô hấp lớn, chẳng hạn như phù thanh quản sau rút ống nội khí quản, viêm họng và khối u thanh quản. Cơ chế hoạt động được cho là làm giảm lưu lượng dòng chảy do mật độ heli thấp hơn so với oxy và nitơ.

Epinephrine racemic khí dung [0,5 đến 0,75 mL 2,25% epinephrine racemic thêm 2,5 đến 3 mL dung dịch muối] và dexamethasone [10 mg IV, sau đó là 4 mg IV, 6 giờ] có thể hữu ích ở bệnh nhân nguyên nhân là phù nề đường thở.

  • Thở rít thì hít vào là trường hợp cấp cứu y khoa.
  • Đánh giá các dấu hiệu quan trọng và mức độ suy hô hấp là bước đầu tiên.

Trong một số trường hợp, kiểm soát đường thở có thể cần thiết tiến hành trước hoặc song song với thăm khám thực thể.

Tại sao khi quan hệ lại thở gấp?

Thở gấp: Đây là dấu hiệu nàng đang trên đỉnh dễ nhận thấy nhất cho các chàng. Trong quan hệ tình dục, các cơ và tim hoạt động mạnh mẽ hơn nên cơ thể cần nhiều oxy. Khi bị kích thích và cảm xúc dâng trào, hơi thở của nàng không còn chậm rãi và nhịp nhàng nữa mà nó dồn dập.

Mệt khó thở là triệu chứng của bệnh gì?

Nguyên nhân của triệu chứng này có thể do cơ thể hoạt động quá sức hoặc do các bệnh lý của cơ thể như bệnh tim, viêm phổi, hen suyễn, ung thư phổi, tràn dịch màng phổi, phổi tắc nghẽn mạn tính, thiếu máu. Trong đó, có thể thấy bệnh lý về hô hấp chiếm tỉ lệ cao, là nguyên nhân quan trọng và chủ yếu.

Giải thích tại sao khi chạy nhanh ta sẽ thở mạnh và gặp hơn lúc bình thường?

Bạn càng chạy nhanh, bạn càng đẩy nhanh CO2 tới phổi, và sự gia tăng về CO2 này khiến bạn thở gấp hơn để giảm thiểu mức tập trung khí CO2 trong phổi – điều đó đương nhiên cũng sẽ giúp bạn có thừa mức tập trung O2 cần thiết để hoàn thành bài tập.

Hay bị hụt hơi khó thở là bệnh gì?

Hầu hết các trường hợp khó thở, hụt hơi là do tình trạng của phổi và tim. Nếu một trong hai quá trình này gặp phải vấn đề, việc thở cũng sẽ bị ảnh hưởng. Một số bệnh thường gặp với tim và phổi khi bị hụt hơi như bệnh cơ tim; rối loạn nhịp tim, tổn thương phổi và xơ phổi; bệnh màng phổi,...

Chủ Đề