Luận cương chính trị 10 1930 có điểm gì khác biệt so với cương lĩnh chính trị 02 1930 của Đảng

tong bi thu tran phu

Luận cương xác định những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:

+ Về mâu thuẫn giai cấp ở Đông Dương: một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa.

Bạn đang xem: So sánh luận cương chính trị của đảng[ 10/1930] và cương lĩnh chính trị[ 2/1930]

+ Tính chất của cách mạng Đông Dương: lúc đầu “là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền… có tính chất thổ địa và phản đế” sau đó phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.

+ Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: đánh đổ các di tích phong kiến để thực hành thổ địa cách nạng triệt để và đánh đổ đế quốc làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.

Hai nhiệm vụ này có quan hệ khăng khít với nhau, trong đó “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”.

+ Về lực lượng cách mạng: trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được.

Các giai cấp và tầng lớp khác: tư sản thương nghiệp và công nghiệp đứng về phía đế quốc; bộ phận thủ công nghiệp trong giai cấp tiểu tư sản có thái độ do dự, tiểu tư sản thương gia không tán thành cách mạng, tiểu tư sản trí thức có xu hưỏng cải lương.

+ Về phương pháp cách mạng: Luận cương nhấn mạnh sự cần thiết phải sử dụng bạo lực cách mạng: “võ trang bạo động”.

+ Về vai trò lãnh đạo của Đảng: “Điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”.

+ Về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Luận cương chính trị nhấn mạnh: vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp, với quần chúng cách mạng ở các nước thuộc địa, bán thuộc địa, nhất là Trung Quốc và Ấn Độ. Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.

So sánh hai Cương lĩnh chính trị đầu tiên và luận cương chính trị của Đảng:

Điểm giống nhau:

Những nội dung của Luận cương chính trị thống nhất về cơ bản với Cương lĩnh chính trị đầu liên của Hội nghị thành lập Đảng:

– Cùng xác định phương hướng chiến lược cơ bản của cách mạng là làm cách mạng tư sản dân quyển và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

– Xác định nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng là: chông đế quốc và phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.

– Tính chất của cách mạng lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền sau đó liếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản tiến thắng lên con đường xã hội chủ nghĩa [độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội].

Xem thêm: Tổng Hợp Các Gói Cước Học Sinh Của Viettel Dành Cho Học Sinh, Sinh Viên

– Phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách nạng của quần chúng. Tuyệt đối không đi vào con đường thoả hiệp.

– Về lực lượng lãnh dạo cách mạng là giai cấp vô sản thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản.

– Về mối quan hệ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: cách mạng Việt Nam với cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.

Điểm khác nhau:

+ Xác định kẻ thù và nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng: Trong cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ giặc Pháp sau đó mới đánh đổ phong kiến và tay sai phản cách mạng[ nhiệm vụ dân tộc và dân chủ]. Nhiệm vụ dân tộc được coi là nhiệm vụ trọng đại của cách mạng, nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết. Như vậy mục tiêu của cương lĩnh xác định: làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội công nông, thi hành chính sách tự do dân chủ bình đẳng phổ thông giáo dục theo hướng công nông hóa.

Trong Luận cương chính trị thì xác định phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”.

Hai nhiệm vụ chiến lược dân chủ và dân tộc được tiến hành cùng một lúc có quan hệ khăng khít với nhau. Việc xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương đã đáp ứng những yêu cầu khách quan đồng thời giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp đang ngày càng sâu sắc. Tuy nhiên, Luận cương chưa xác định được kẻ thù, nhiệm vụ hàng đầu ở một nước thuộc địa nửa phong kiến nên không nêu cao vấn đề dân tộc lên hàng đầu đó là nêu cao vấn đề đấu tranh giai cấp, vấn đề cách mạng ruộng đất.

+ Về lực lượng cách mạng: Trong Cương lĩnh chính trị xác định lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân và nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng hoặc trung lập phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ mặt phản cách mạng.Như vậy, ngoài việc xác định lực lượng nòng cốt của cách mạng là giai cấp công nhân thì cương lĩnh cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc, hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc.

Với Luận cương thì xác định giai cấp vô sản và nông dân là hai động lực chính của cách mạng mạng tư sản dân quyền, trong đó giai cấp vô sản là đông lực chính và mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nông dân có số lượng đông đảo nhất, là một động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp và tầng lớp khác ngoài công nông như tư sản thương nghiệp thì đứng về phía đế quốc chống cách mạng, còn tư sản công nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Điều đó cho thấy ta chưa phát huy được khối đoàn kết dân tộc, chưa đánh giá đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai.

Tóm lại, Luận cương đã thể hiện là một văn kiện tiếp thu được những quan điểm chủ yếu của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt, xác định được nhiệm vụ nòng cốt của cách mạng.

+ Tuy nhiên, Luận cương cũng có những mặt hạn chế nhất định: Sử dụng một cách dập khuôn máy móc chủ nghĩa Mác-Lênin vào cách mạng Việt Nam, còn quá nhấn mạnh đấu tranh giai cấp. Còn Cương lĩnh chính trị tuy còn sơ lược vắn tắt nhưng nó đã vạch ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo, nhạy bén chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử .

=> Hai cương lĩnh trên cùng với sự thống nhất về tổ chức có ý nghĩa hết sức to lớn cùng với sự ra đời của Đảng ta, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Chúng là nền tảng cho những văn kiện nhằm xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận, tư tưởng

Tại sao lại có sự giống và khác giữa Cương lĩnh và Luận cương?

+ Hai văn kiện có sự giống nhau vì:

Thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa Mac – Lênin

Ảnh hưởng vĩ đại từ cách mạng tháng Mười Nga năm 1917

+ Còn về sự khác nhau là do:

Sự nhận thức của người khởi thảo khác biệt

Yêu cầu về thực tiễn cũng có những thay đổi

Nhìn chung, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đúng đắn và hoàn thiện hơn so với Luận cương. Nguyễn Ái Quốc có cái nhìn liền mạch hơn khi chỉ rõ được mâu thuẫn cấp thiết nhất. Còn Trần Phú tuy khởi thảo chi tiết hơn nhưng chỉ tập trung vào vấn đề giai cấp.

Xem thêm: Dịch Vụ Giấu Số Của Vinaphone + Gphone, Cách Giấu Số Và Bắt Số Trên Di Động

=> Cả hai văn kiện tuy có nhiều điểm khác biệt, song, đều đóng vai trò rất lớn. Đó là sự chuẩn bị tất yếu. Đồng thời là nền tảng cho việc xây dựng lí luận, tư tưởng đến tận bây giờ.

625 views

Nếu bạn là người Việt nam thì chắc hẳn rằng trong xuất quá trình học tập và phát triển bản thân bạn đã được nghe đến thuật ngữ “cương lĩnh chính trị” bởi trong các chương trình học từ cấp cơ sở cho đến đại học hầu hết trong các trường học đều đã từng giảng dạy về những nội dung của cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị như: Chương trình THPT tại sách giáo khoa lịch sử lớp 12; Chương trình đại học, cao đẳng tại các môn học tư tưởng Hồ Chí Minh hay Đường lối cách mạng của Đảng.

Đây không chỉ là một trong những văn kiện thể hiện phương hướng hoạt động, ý chí, đường lối, chính xác của đảng mà đây còn là một trong những mình chứng lịch sử góp phần xây dựng nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như ngày hôm nay. Do đó nếu bạn không biết cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị sẽ là một thiệt thòi vô cùng lớn. Chính vì vậy tại bài viết này chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu và phân tích giữa hai bản cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị những năm đầu của Đảng cộng sản Việt Nam.

Luật sư tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị là gì?

Như tên gọi của mình cả cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị đều là những văn kiện được sử dụng trong hoạt động chính trị. Đây cũng là một trong những điểm tương đồng quan trọng của hai văn kiện này; do đó ta sẽ đi tìm hiểu đôi chút về thuật ngữ “cương lĩnh” và “chính trị” để làm cơ sở đi vào phân tích chuyên sâu hai văn kiện này.

1.1. Cương lĩnh là gì?

Có nhiều cách hiểu khác nhau về cương lĩnh tuy nhiên ta có thể sử dụng hai định nghĩa sau về cương lĩnh:

Theo từ điển tiếng Việt Cương lĩnh là mục mục tiêu phấn đấu và các bước tiến hành của tiêu phấn đấu và các bước tiến hành của một tổ chức chính trị, một chính Đảng.một tổ chức chính trị, một chính Đảng.

Theo V.l. Lênin Cương lĩnh là bản tuyên bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà Đảng muốn lên tất cả những điều mà Đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà Đảng đạt được và vì mục đích gì mà Đảng đấu tranh.đấu tranh.

1.2. Chính trị là gì?

Chính trị: Chính là chính đáng; trị là cai trị. Chính trị – cai trị một cách chính đáng. [cai trị bằng sức mạnh là trị một cách chính đáng. [cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị].

Theo cách hiểu thông thường Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến những quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia, dân tộc đến những quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia, dân tộc và các nhóm xã hội với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử và các nhóm xã hội với vấn đề giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân dụng quyền lực Nhà nước; là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội ; là hoạt động thực tiễn vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động thực tiễn chính trị của giai cấp, đảng phái, Nhà nước nhằm tìm chính trị của giai cấp, đảng phái, Nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích. mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.

Từ hai khái niệm trên ta có thể hiểu Cương lĩnh chính trị là văn bản, trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng. Về bản chất thì cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị là một nhưng có tên gọi khác nhau và được hình thành từ hai khoảng thời gian khác nhau.

2. Trong tiếng anh cương lĩnh chính trị có tên gọi là gì?

Trong tiếng anh cương lĩnh chính trị có tên gọi là Political platform.

3. Nội dung của cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị:

3.1. Nội dung của Cương lĩnh chính trị:

Cương lĩnh chính trị là bản cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, sự ra đời của nó gắn liền với sự ra đời của Đảng vào năm 1930. Bản cương lĩnh sơ khai gồm những nội dung chính sau:

Phương hướng chiến lược: Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.

Nhiệm vụ: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; lập ra chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.

Về lực lượng cách mạng: mọi giai cấp tầng lớp xã hội: Công nhân, nông dân, tri thức, tiểu địa chủ,…. Đứng về phía cách mạng

Về giai cấp lãnh đạo: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo của cách mạng

Về phương pháp cách mạng: Bạo lực cách mạng gồm có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang

Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới.

Đánh giá: Bản cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 được đánh giá là bản cương lĩnh hoàn hảo nhất phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Là hy vọng, bản đồ giúp cách mạng Việt Nam trên con đường giành lại độc lập đất nước trong thời kỳ này.

3.2. Nội dung của Luận cương chính trị:

Nội dung chính của bản luận cương tháng 10/1930 bao gồm:

Phương hướng chiến lược: Lúc đầu là là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, có tính chất thổ địa và phản đế, tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng.

Nhiệm vụ: Đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho đông Dương hoàn toàn độc lập.

Về lực lượng cách mạng: Giai cấp công nhân là lực lượng chính của cách mạng, vừa là lực lượng lãnh đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động lực mạnh của cách mạng, còn những giai cấp khác không được đánh giá cao.

Về giai cấp lãnh đạo: : Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo của cách mạng.

Về phương pháp cách mạng: Bạo lực cách mạng gồm có lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang

Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới. Vì thế giai cấp vô sản đông dương phải đoàn kết, gắn bó với giai cấp vô sản thế giới và phải liên lạc với phong trào cách mạng ở những nước thuộc địa và nửa thuộc địa.

Đánh giá: Theo nhiêu đánh giá thì bản luận cương tháng 10 về cơ bản đã giúp cách mạnh rất nhiều trong việc tìm ra phương hướng làm cách mạng; Tuy nhiên bản luận cương này còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập do có nhiều nội dung không phù hợp với hoàn cảnh khách quan của thời đại lúc bấy giờ và sau đó đã được sửa chữa ở các giai đoạn sau.

4. So sánh bản cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị:

Giống nhau:

Về phương hướng chiến lược của cách mạng: Cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa để đi tới xã hội cộng sản.

Về phương pháp làm cách mạng: Đứng trước hoàn cảnh của đất nước đang bị áp bức, bóc lột bởi sức mạnh của thực dân và phong kiến cả hai bản cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị đều nhận thấy cách mạng không còn con đường nào khác là bằng con đường bạo lực cách mạng.

Về quan hệ quốc tế: Cả hai bản cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị đều chỉ ra vị trí của cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít với cách mạng thế giới và phải không ngừng liên lạc với cách mạng thế giới để mở rộng mối quan hệ đối ngoại.

Về giai cấp lãnh đạo: Cả cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị đều chỉ ra được giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp vô sản với đội ngũ là giai cấp công nhân những người có kinh nghiệp và là đầu đưa cách mạng Việt Nam đi đến chiến thắng.

Khác nhau:

Về tầm ảnh hưởng thì cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 xây dựng đường lối cách mạng của Việt Nam, còn đối với bản luận cương tháng 10/1930 xây dựng đường lối của không chỉ trong phạm vi cách mạng Việt Nam mà còn cả khối Đông Dương lúc bấy giờ.

Về nhiệm vụ và xác định kẻ thù: Ở hai văn kiện này có sự khác nhau về nhiệm vụ.

Đối với cương lĩnh chính trị đầu tiên nhiệm vụ quan trọng nhất của cách mạng là phải đánh đổ đế quốc Pháp hung tan sau đó mới đánh đổ phong kiến [đẩy nhiệm vụ dân tộc lên trước nhiệm vụ giai cấp] để làm cho Việt nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ, bình đẳng, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo, thành lập chính phủ công nông binh và tổ chức cho quân đội công nông.

Đối với Luận cương chính trị tháng 10/1930 lại có nhiệm vụ khác với cương lĩnh chính trị tháng 2/1930 khi xác định nhiệm vụ quan trọng trước mắt của cách mạng không phải là đánh đổ đế quốc trước mà là đánh đổ phong kiến trước sau đó mới đánh đổ đế quốc Pháp, [đặt nhiệm vụ giai cấp lên trên nhiệm vụ dân tộc] làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Đây là một điểm hạn chế nghiêm trọng của bản luận cương tháng 10/1930 khi không xác định được đúng kẻ thù dẫn đến nhiều phong trào cách mạng của nhân dân ta bị tổn thất nặng nề như kể đến đó là phong trào Xô Viết – Nghệ tĩnh.

Về lực lượng cách mạng: Hai cương lĩnh có sự đánh giá khác nhau về lực lượng cách mạng. Cụ thể:

Đối với cương lĩnh chính tháng 2/1930 xác định lực lượng làm cách mạng là khối đại đoàn kết dân tộc, mọi giai cấp tầng lớp xã hội trong đó nòng cốt là giai cấp công nhân và nông dân. Không có sự phân biệt, hễ ai có lòng yêu nước tận tâm giành lại độc lập cho đất nước thì đều là người của cách mạng.

Đối với luận cương tháng 10/1930 xác định lực lượng của cách mạng là giai cấp vô sản hay giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và giai cấp nông dân là sức mạnh của cách mạng còn những giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội không phải là lực lượng của cách mạng và có thể theo Pháp bất cứ lúc nào; chính vì những phán đoán sai lầm này mà trong suốt một quá trình dài cách mạng Việt Nam đã mất đi một lực lượng lớn của cách mạng.

Nhìn chung, hai bản cương lĩnh chính trị và luận cương chính trị có nhiều điểm tương đồng do xuất phát từ cùng một góc nhìn về thời đại lúc bấy giờ; tuy nhiên xét về hoàn cảnh áp dụng thì có nhiều điểm khác nhau; đặc biệt là đối với bản luận cương chính trị tháng 10/1930 đã thể hiện rõ nhiều yếu điểm, hạn chế so với cương lĩnh chính trị tháng 2/1930. Để phù hợp thì luận cương tháng 10/1930 đã được sửa đổi, bổ sung vào các kỳ họp trung ương đảng tiếp theo.

Video liên quan

Chủ Đề