Nền hành chính nhà nước việt nam là gì

Trên thế giới có nhiều cách tiếp cận khác nhau về nền hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cách tiếp cận phổ biến hiện nay cho rằng, nền hành chính nhà nước là khái niệm dùng để chỉ một hệ thống các yếu tố hợp thành về tổ chức [bộ máy, con người, nguồn lực công] và cơ chế hoạt động để thực thi quyền hành pháp của nhà nước theo quy định pháp luật.

Quan niệm về nền hành chính nhà nước ở Việt Nam được thể hiện trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính của Chính phủ qua các thời kỳ.

Theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, nội dung cải cách hành chính bao gồm: [i] Cải cách thể chế; [ii] Cải cách tổ chức bộ máy hành chính; [iii] Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; [iv] Cải cách tài chính công.

Theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, nội dung cải cách hành chính bao gồm: [i] Cải cách thể chế; [ii] Cải cách thủ tục hành chính [đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế]; [iii] Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; [iv] Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; [v] Cải cách tài chính công; [vi] Hiện đại hóa hành chính.

Theo Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030, cải cách hành chính được đặt ra với 06 nội dung: [i] Cải cách thể chế; [ii] Cải cách thủ tục hành chính; [iii] Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; [iv] Cải cách chế độ công vụ [với mục tiêu đến năm 2025 sẽ xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có cơ cấu hợp lý, đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định; đến năm 2030, xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ]; [v] Cải cách tài chính công; [vi] Xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.

Như vậy, ở những giai đoạn khác nhau, Chính phủ đặt ra các yêu cầu cải cách hành chính với những nội dung cụ thể khác nhau nhưng cho dù tiếp cận dưới góc độ nào, nền hành chính cũng được tiếp cận với bốn yếu tố quan trọng:

- Hệ thống thể chế hành chính bao gồm các quy định của Hiến pháp, pháp luật là cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của hành chính nhà nước.

- Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ trung ương xuống địa phương với cơ chế vận hành phù hợp với yêu cầu thực thi quyền hành pháp.

- Đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, bảo đảm về số lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của nền hành chính.

- Nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm yêu cầu thực thi công vụ của các cơ quan và cán bộ, công chức hành chính.

2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

Ngày 09/11/2022, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới [Nghị quyết số 27-NQ/TW]. Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định mục tiêu tổng quát: “Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045”.

Trên cơ sở khẳng định những đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, Đảng xác định nhiệm vụ “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, bảo đảm công khai, minh bạch, quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả”[1]. Điều này được tái khẳng định tại Nghị quyết số 27-NQ/TW, được coi là nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Có thể chỉ ra một số nội dung thể hiện quan điểm của Đảng về xây dựng nền hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới như sau:

Một là, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định, lấy nhân dân làm trung tâm, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, kiên trì thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng hoạt động của chính quyền. “Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, xử lý kịp thời, hiệu quả kiến nghị, phản ánh của người dân, doanh nghiệp”[2]. Coi trọng tính pháp quyền của nền hành chính nhà nước, Đảng đã xác định, hoàn thiện thể chế là nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XIII, “bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”[3].

Hai là, xây dựng nền hành chính nhà nước với tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, nền hành chính nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của Chính phủ, đề cao tính chủ động, sáng tạo, tập trung vào quản lý vĩ mô, xây dựng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, công cụ kiểm tra, giám sát, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, kỷ luật, kỷ cương, hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính quốc gia, nâng cao năng lực phản ứng chính sách, kiểm soát của Chính phủ đối với nền hành chính quốc gia và việc thực hiện quyền lập pháp, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của từng địa phương và các bộ. Hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với các địa bàn đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; giảm cấp chính quyền phù hợp ở một số địa phương; xây dựng mô hình quản trị chính quyền địa phương phù hợp với từng địa bàn, gắn với yêu cầu phát triển các vùng, khu kinh tế.

Ba là, xây dựng nền hành chính nhà nước với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”[4], xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn với tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm với nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân. Trong bối cảnh xã hội vận động và phát triển không ngừng, để giải quyết những khó khăn, thách thức mà thực tế đặt ra, tạo nên các đột phá để thúc đẩy sự phát triển của đất nước, Đảng định hướng “có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách và quyết liệt trong hành động và lợi ích chung. Đồng thời, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp”[5].

Bốn là, xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại.

Cùng với việc khẳng định xây dựng nền hành chính hiện đại, thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, Đảng đã xác định mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng Chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về Chính phủ điện tử”[6], “hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế để phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, thúc đẩy và phát triển kinh tế số, xã hội số”[7].

3. Thực trạng xây dựng nền hành chính nhà nước Việt Nam giai đoạn 2011 - 2022

Thứ nhất, về xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, pháp quyền, phục vụ nhân dân.

Cải cách thể chế hành chính, thủ tục hành chính nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong tất cả các giai đoạn cải cách hành chính. Vì vậy, hệ thống thể chế hành chính nhà nước ngày càng được hoàn thiện. Theo Báo cáo của Chính phủ về tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 - 2030, tổng số văn bản quy phạm pháp luật do các bộ ban hành là 8.600 văn bản [từ năm 2012], mỗi năm trình Chính phủ ban hành 140 nghị định; có 12.172 văn bản quy phạm pháp luật tại bộ, ngành và 83.758 văn bản quy phạm pháp luật tại các tỉnh được đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới sau rà soát, trong đó đã xử lý 7.249 văn bản cấp bộ và 54.012 văn bản tại cấp tỉnh[8]. Vì vậy, thể chế ngày càng được hoàn thiện theo hướng ghi nhận, tôn trọng và hiện thực hóa quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo đảm cho người dân trong tham gia quản lý nhà nước. Thể chế cũng khắc phục cơ bản sự chồng chéo, bỏ sót về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước, cụ thể, chặt chẽ hơn, khả thi hơn. Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước tăng dần từ năm 2017 [80,9%] đến năm 2021 [87,16%][9]. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng nợ văn bản hướng dẫn khi luật chưa cụ thể, rõ ràng hoặc có hướng dẫn nhưng thiếu thống nhất. Thậm chí còn tình trạng “cài cắm”, biến tướng, phát sinh thêm thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, thiếu công khai, minh bạch về thủ tục[10]. Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước có xu hướng giảm vào năm 2022 [80,08%] so với năm 2021 [87,16%]; có tới 32/63 tỉnh có chỉ số đạt dưới 80%[11]. Khoảng cách của chỉ số hài lòng ở thời điểm năm 2022 còn khá xa so với mục tiêu đặt ra của Chương trình cải cách hành chính nhà nước đến năm 2025 đạt tối thiểu 90% và đến năm 2030 đạt tối thiểu 95%.

Thứ hai, về hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hơn.

Từ năm 2017 đến năm 2019 [thời điểm triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả], giảm 12 vụ và tương đương, 10 đơn vị sự nghiệp công lập [không tính Bộ Công an, Bộ Quốc phòng]; giảm 05 tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, 973 tổ chức cấp phòng, 127 tổ chức cấp chi cục, 1.179 tổ chức cấp phòng thuộc chi cục; giảm 294 tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Giai đoạn 2019 - 2021, giảm 08 đơn vị hành chính cấp huyện và 557 đơn vị hành chính cấp xã[12]. Phân cấp, phân quyền từng bước được đổi mới, hoạt động của Chính phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển; phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của địa phương. Tuy nhiên, việc đổi mới tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả còn chậm, chưa khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ làm nảy sinh tình trạng phải phối hợp, họp nhiều, giải quyết công việc chậm. Chính quyền địa phương, nhất là cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện chưa được hoàn thiện theo hướng phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và phù hợp với đặc thù của địa phương.

Thứ ba, về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức được rà soát, tinh giản theo hướng bảo đảm về số lượng và chú trọng chất lượng. Các bộ, ngành trung ương giảm 10.284 người, ở địa phương giảm 13.612 người [tính đến tháng 3/2020 so với năm 2015]. Nhìn chung, trình độ, năng lực, trách nhiệm, phong cách, thái độ của cán bộ, công chức, viên chức đã có những cải thiện đáng kể, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng một bộ phận công chức cấp xã chưa qua đào tạo; nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, thậm chí tham nhũng. Trễ hẹn vẫn còn phổ biến ở một số lĩnh vực trọng tâm như đất đai, xây dựng, lao động - thương binh và xã hội.

Thứ tư, về tài chính công.

Từng bước được cải cách theo hướng hoàn thiện pháp luật, chính sách về thuế, thu nhập, tiền lương, tiền công và an sinh xã hội; bảo đảm tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích, thu hút các nguồn lực xã hội, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ công. Công khai, minh bạch thu, chi, từ đó làm tăng hiệu quả của chi tiêu công, hạn chế tham nhũng, tiêu cực. Tuy nhiên, mức độ tự chủ chưa cao, nhất là ở địa phương; chính sách tiền lương trong khu vực nhà nước chưa trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, công chức, viên chức tận tụy cho nền công vụ.

Thứ năm, về hiện đại hóa nền hành chính nhà nước.

Hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ thông tin đạt kết quả đáng kể, tỷ lệ cơ quan nhà nước đã kết nối với mạng diện rộng chiếm 91% ở tỉnh, 97% ở cấp bộ. Có 59/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 19/22 bộ, cơ quan ngang bộ có trung tâm dữ liệu[13]. Các bộ, ngành, địa phương tích cực xây dựng cơ sở dữ liệu, cung ứng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4. Tuy nhiên, việc thực hiện cung ứng dịch vụ công trực tuyến còn chiếm tỷ lệ thấp; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu còn yếu, tình trạng cát cứ dữ liệu vẫn còn phổ biến.

4. Giải pháp xây dựng nền hành chính nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

Một là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế của nền hành chính nhà nước, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực.

Việc hoàn thiện thể chế hành chính nhà nước trong giai đoạn tới cần bảo đảm kịp thời thể chế hóa, cụ thể hóa, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng; bảo đảm tính đồng bộ, công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển. Tập trung cải cách thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức bộ máy và quản lý cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện thể chế và các khung khổ pháp lý để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, phục vụ có hiệu quả việc xây dựng, phát triển Chính phủ số, nền kinh tế số và xã hội số. Nghiên cứu, xây dựng Luật Chính phủ số. Trong điều kiện xã hội phát triển không ngừng, cần quan tâm xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, sản xuất thông minh, các mô hình sản xuất, kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, khởi nghiệp sáng tạo.

Hai là, chú trọng cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, đáp ứng sự hài lòng của người dân.

Cần rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh; bãi bỏ các rào cản, hạn chế quyền tự do kinh doanh. Thường xuyên, kịp thời cập nhật, công khai thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân, tổ chức tìm hiểu và thực hiện. Phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030, môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu thế giới. Đẩy mạnh phân cấp trong giải quyết thủ tục hành chính theo hướng cấp nào sát cơ sở, sát nhân dân nhất thì giao cho cấp đó giải quyết. Đẩy mạnh thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, tăng tỷ lệ cung ứng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 để người dân, doanh nghiệp có thể thực hiện dịch vụ mọi lúc, mọi nơi, trên các phương tiện khác nhau, giảm thời gian đi lại, chi phí xã hội và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Đổi mới thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính theo hướng nâng cao chất lượng phục vụ, không theo địa giới hành chính. Phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về giải quyết thủ tục hành chính đạt tối thiểu 90% vào năm 2025 và 95% vào năm 2030.

Ba là, đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.

Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước cần được sắp xếp đổi mới theo hướng tinh gọn, giảm hợp lý đầu mối các bộ, cơ quan ngang bộ và giảm tương ứng số cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; giảm mạnh đầu mối các tổ chức trung gian. Thường xuyên sơ kết, tổng kết việc thực hiện thí điểm các mô hình chính quyền địa phương đang thực hiện nhằm thiết kế mô hình tổ chức bộ máy chính quyền địa phương đa dạng, phong phú, phân định rõ mô hình tổ chức chính quyền nông thôn, đô thị, hải đảo và đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.

Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền, cơ quan, tổ chức phù hợp với đặc điểm cụ thể, khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức, bảo đảm nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc, nhưng một việc chỉ do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính. Rà soát, xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan hành chính phải thực hiện, những công việc cần phân cấp cho địa phương, cấp dưới thực hiện, những việc không được phân cấp, ủy quyền và công việc cần chuyển giao cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm. Đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học và công nghệ, ứng dụng công nghệ thông tin.

Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hướng tới xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài.

Cần đẩy mạnh việc sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành theo vị trí việc làm, khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, đủ về số lượng, nâng cao chất lượng và hợp lý về cơ cấu. Do đó, cần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh, yêu cầu của vị trí việc làm, tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức, viên chức dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao với kết quả cụ thể và sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Đổi mới cơ chế, chính sách về tiền lương, về ưu đãi nhằm phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài, đồng thời tạo động lực để cán bộ, công chức, viên chức tận tụy cống hiến cho nền công vụ. Bên cạnh đó, phải tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong hoạt động công vụ; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những người có sai phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu. Một mặt, cần xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám sáng tạo, dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách vì cái chung, mặt khác, cần kiên quyết khắc phục tình trạng cán bộ né tránh, sợ sai không chịu làm, đùn đẩy trách nhiệm.

Năm là, cải cách tài chính công theo hướng đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước gắn với nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thúc đẩy sự sáng tạo. Kiểm soát tham nhũng tại các cơ quan, đơn vị với phương châm kiên quyết, kiên trì, quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.

Sáu là, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.

Cần quan tâm đầu tư nguồn lực cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật; đẩy mạnh xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng [trừ hồ sơ công việc thuộc phạm vi bí mật nhà nước]. Cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử được hoàn thành và kết nối; người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến được cấp định danh và xác thực điện tử thông suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống tin của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Hệ thống báo cáo của các bộ, ngành, địa phương được kết nối liên thông, chia sẻ dữ liệu với hệ thống thông tin báo cáo quốc gia. Hoạt động kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện thông qua môi trường số và hệ thống thông tin của cơ quan quản lý.

TS. Vũ Ngọc Hà

Trưởng Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực I

[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam [2021], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 286.

[2]. Nghị quyết số 27-NQ/TW.

[3]. Nghị quyết số 27-NQ/TW.

[4]. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam [2021], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 179.

[6]. Đảng Cộng sản Việt Nam [2021], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[7]. Đảng Cộng sản Việt Nam [2021], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 130.

[8]. Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 - 2030.

[9]. Bộ Nội vụ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam [2021], Báo cáo chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

[10]. Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 - 2030.

[11]. Bộ Nội vụ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam [2021, 2022], Báo cáo chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước.

[12]. Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 - 2030.

[13]. Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19/4/2021 của Chính phủ tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 - 2030.

Nền hành chính là gì?

Nền hành chính nhà nước là hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và chính quyền địa phương, cơ sở gắn liền với hệ thống thể chế hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức và hệ thống quản lý tài chính công, tài sản công thực thi quyền hành pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nền hành chính nhà nước bao gồm những gì?

Nền hành chính Nhà nước bao gồm 4 yếu tố chính cấu thành, đó là: Thể chế; Tổ chức bộ máy; Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Tài chính công.

Hiệu lực của nền hành chính nhà nước là gì?

1.2. Hiệu lực [effect] của nền hành chính nhà nước là sự thực hiện đúng, kịp thời, có kết quả chức năng, nhiệm vụ được giao và tuân thủ pháp luật của bộ máy hành chính nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.

Cải cách hành chính ở cơ sở là gì?

Cải cách hành chính ở cơ sở là quá trình cải thiện, tối ưu hóa và đổi mới các hoạt động và quy trình quản lý của các cơ quan, đơn vị hành chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền và đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp.

Chủ Đề