Ngựa giao phối bao lâu

1. Một số phương thức chăn nuôi ngựa sinh sản

Phương thức chăn nuôi ngựa sinh sản hiện nay của đồng bào vùng cao là thả đàn tự do trong mùa sinh sản từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau. Hoặc một số vùng chăn nuôi theo tập quán bán chăn thả [ngày ngựa thả tự do theo bầy đàn, đến tối được nhốt tại nhà]. Với những tập quán chăn nuôi như trên, đàn ngựa sinh sản không được theo dõi, quản lý, những nhóm ngựa hàng năm theo nhau và phối giống tự do đã dẫn đến cận huyết.

Từ những năm 1970, việc tạo ngựa lai 25% máu Cabadin ở các điểm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật có được thực hiện kèm với việc hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi ngựa sinh sản nhưng việc làm này chưa được mở rộng.

2. Một số đặc điểm sinh sản của ngựa

Ngựa cái:

Thời gian động dục lần đầu của ngựa cái nội từ 20-22 tháng tuổi, nhưng để cho ngựa có khả năng sinh sản tốt và đảm bảo ngựa cái sinh sản lâu dài ta nên phối giống cho ngựa cái ở giai đoạn 36 tháng tuổi. Ngựa cái động dục tập trung từ tháng 2 đến tháng 6 trong năm, nhưng tập trung cao độ trong tháng 2 và tháng 3 [hai tháng này chiếm 40% số ngựa động dục trong năm]. Chu kỳ động dục của ngựa cái từ 22 đến 24 ngày. Thời gian động dục của ngựa cái khá dài từ 7 đến 9 ngày và ngựa cái cũng có thời gian chịu đực từ 5 đến 6 ngày, với thời gian động dục và chịu đực dài như vậy cần phải kết hợp nhiều biện pháp để theo dõi và xác định thời điểm phối giống thích hợp cho ngựa cái để giảm cường độ phối giống cho ngựa đực và nâng cao tỷ lệ thụ thai cho ngựa cái được phối giống.

Thời gian mang thai của ngựa cái từ 325 đến 335 ngày. Như vậy ngựa cái có thời gian đẻ và thời gian động dục tập trung trong năm từ tháng 1 đến tháng 6 trong năm.

Ngựa cái sau sinh con từ 7 đến 13 ngày có chu kỳ động dục lại, lúc này ngựa cái đang nuôi con, ngựa mẹ sẽ giữ con khi ngựa đực đến gần không có biểu hiện động dục rõ ràng. Cần được theo dõi những biểu hiện về lâm sàng, kết hợp dắt ngựa đực thí tình để xác định ngựa cái động dục. Trong chu kỳ này ngựa cần được phối giống ngay vì vẫn có khả năng sinh sản bình thường. Nếu không được phối giống kịp thời sẽ khó phối lại được do ngựa mẹ nuôi con tiết sữa nhiều gây cho ngựa mẹ gầy, lại bị thời tiết nắng nóng khiến ngựa không động dục lại, do vậy có thể trong năm không phối giống được.

Ngựa đực:

Ngựa đực có tuổi phát dục ở giai đoạn 36 đến 40 tháng, nhưng ngựa đực được đưa vào phối giống sau 48 tháng tuổi. Ngựa đực lai 50% máu Cabadin có một số đặc điểm sinh học trong 1 lần xuất tinh: V[ml]: 60-80; A[%] > 65%; C [triệu/ml]: 60-70; pH: 6,1 – 6,2.

3. Kỹ thuật phối giống cho ngựa cái

Đặc điểm động dục của ngựa cái: Chăn ngựa trên bãi chăn, ngựa cái ngơ ngác tìm đực, thả đàn tự do sẽ theo đến gần ngựa đực, cong đuôi, đái rắt, ngựa đực lại gần con cái quay mông lại gần ngựa đực. Ngựa cái đến khi chịu đực sẽ cho ngựa đực ngửi, cắn phần sau, hai chân sau nhún xuống, muốn cho ngựa đực giao phối. Kiểm tra cơ quan sinh dục của ngựa cái thấy cổ tử cung mềm, hai sừng tử cung mềm và chùng, buồng trứng phát triển. Thời điểm gần rụng nang trứng đã tăng trưởng tích dịch căng tròn cứng, khi nang trứng đang xẹp có phần nang mềm hoặc lùng nhùng.

Xác định thời điểm phối giống:

Theo dõi được ngựa cái động dục [tính là ngày thứ nhất] sẽ cho ngựa cái phối giống từ ngày thứ 5 đến ngày thứ 7 từ khi chịu đực, hoặc phối giống ngày 4-7 từ khi chịu đực.

Trạm truyền giống tạo ngựa lai phải có giá khống chế ngựa cái và giá chờ của ngựa đực. Chỉ cho ngựa đực lên phối giống ngựa cái khi dương vật đã đủ độ cương và phải được vệ sinh sạch sẽ. Có người hướng dẫn hỗ trợ cho phối giống, sau phối giống lần cuối cùng phải ghi chép ngày phối, dự kiến ngày đẻ để giúp cho việc đỡ đẻ, lên khẩu phần ăn cho phù hợp trong thời gian ngựa mang thai.

4. Chăm sóc ngựa chửa đẻ

Ngựa chửa: Cho ngựa mẹ ăn từ 1-1,5 kg/ngày [nguồn thức ăn tinh là ngô, cám, thóc…] lượng thức ăn thô cần bằng 12-15% khối lượng cơ thể, ngựa chăn thả 4 giờ trong ngày có thể thu nhặt được 35-40% nhu cầu thức ăn thô còn lại phải được bổ sung cho đủ và cho ăn làm nhiều bữa, ngựa chửa cần được ăn thêm bữa buổi tối.

Chăm sóc: Ngựa chửa nên nhốt mỗi ngựa một ô chuồng, diện tích 4,5-5m2 cho 1 ngựa, nền chuồng lát gỗ hoặc lát gạch, được dọn phân sạch sẽ. Tắm cho ngựa trong những ngày nắng ấm, chải lông cho ngựa trong những ngày trời giá, lạnh. Chuồng ngựa cần được che chắn rét trong mùa đông.

Ngựa nuôi sinh sản kiêm làm việc cần được nghỉ làm việc trước 20 ngày đẻ và sau đẻ 1 tháng. Trong thời gian chửa, lượng hàng thồ < 30% khối lượng cơ thể.

Ngựa đẻ: Kiểm tra dự đoán ngày đẻ bằng theo dõi đặc điểm lâm sàng, đó là: hai  bầu vú căng, núm vú vểnh ra 2 bên, vắt có sữa non trắng, sút hông, âm hộ sệ, thường xuyên cong đuôi, đái rắt.

Chuồng ngựa có rác độn, chắn xung quanh không để ngựa con ra ngoài. Ngựa thường đẻ vào đêm lúc 8-10 giờ đêm và 3-4 giờ sáng. Tư thế ngựa đẻ nằm và nhổm mông lên; khi thai ra, ngựa mẹ đứng dậy liếm con. Trong khi trực đỡ đẻ cần chú ý nhau ra, sau đẻ 1-2 giờ, ngựa ít sát nhau hơn các gia súc khác.

Ngựa con sinh ra phải được thắt cuống rốn bằng chỉ chắc, sau cắt để cuống rốn dài 1,5-2cm, chấm sát trùng bằng cồn iod. Lau cho ngựa con khô, cho con bú. Những ngựa đẻ lứa đầu thường chưa chịu cho con bú phải nên khống chế mẹ tập cho con bú.

5. Chăm sóc ngựa con

Ngựa con rất hiếu động, chạy nhảy nhiều nên ngựa con phải có toang chắn trong ô chơi ít nhất 10 ngày, thời gian này, ngựa mẹ được chăm sóc tại chuồng và sân chơi, đặc biệt chu kỳ động dục sau đẻ của ngựa mẹ phải khống chế ngựa con khi phối  giống cho ngựa mẹ.

- Ngựa con lúc 35 ngày tuổi đã liếm thức ăn tinh và cỏ từ bãi chăn. Ngựa con cần được bổ sung thức ăn tinh từ lúc ngựa 40 ngày tuổi, lượng thức ăn cho ăn tăng dần từ 0,1 kg ngày đầu bổ sung đến 0,3 kg ở giai đoạn 6 tháng tuổi. Thức ăn thô được cắt ngắn 5-7 cm, cho ăn vào bữa chiều và tối, lượng ăn bằng 10% khối lượng cơ thể. Máng ăn cho ngựa con được làm bằng gỗ hoặc máng xi măng, đạt độ cao 0,4-0,5 m để ngựa con dễ ăn. Thức ăn tinh nên bổ sung cho ngựa con ăn vào buổi trưa.

6. Thú y

Tiêm phòng bệnh tiên mao trùng cho ngựa mẹ 2 lần trong năm vào tháng 3 và tháng 9. Băng thuốc Trypanydum liều tiêm 0,02 g/100 kg P, pha d2 0,2% có thể tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch.

Tẩy ký sinh trùng tiêu hoá cho ngựa con ở 21 ngày tuổi bằng Levamysol 7% tiêm bắp với liều 1 ml/ 15 kg P.

>>>Kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng dê hậu bị giống

>>>>Kinh nghiệm chọn và nhân giống hươu

Page 2

Dê đang nuôi ở Quảng Trị hiện có 3 giống chính:  Dê địa phương [dê cỏ], dê Bách thảo và dê Alpine.

1. Dê dịa phương [dê cỏ]:

Là dê lâu đời tại địa phương, có màu lông pha tạp không thuần nhất, đa số màu nâu hoặc đen loang trắng, tai nhỏ, không cụp. Dê đực và dê cái đều có râu và sừng. Dê cỏ nuôi  chủ yếu để lấy thịt với đặc điểm:

Khả năng sinh trưởng chậm, tầm vóc nhỏ bé:

– Khối lượng trưởng thành:  Con cái: 25 – 32 kg/con;  Con đực: 35 – 37 kg/con.

– Tỷ lệ thịt xẻ đạt: 39 – 41%

Tuổi phối giống lần đầu là: 6 – 7 tháng tuổi đẻ 1,4 lứa/năm [2 năm 3 lứa] tỷ lệ đẻ 1 con /lứa là 70% ; 2 con/lứa là  25%; 3 con/lứa là 5% [1,3 con/lứa ].

2. Dê Bách Thảo:

Dê Bách Thảo là dê kiêm dụng sữa thịt. Màu lông tương đối đồng nhất là màu lông đen loang sọc trắng, tai to, cụp, không có râu cằm, phần lớn không có sừng.

Khối lượng trưởng thành: Dê cái: 40 – 45 kg/con; Dê đực: 75 – 80 kg/con;  Sơ sinh: 2,6 – 2,8 kg/con. Tỷ lệ thịt xẻ đạt: 42 – 44 %.

Khả năng sinh sản tương đối tốt. Tuổi phối giống lần đầu: 7 – 8 tháng;  Số con bình quân: 1,7 con/ lứa. Số lứa đẻ bình quân 1,8 lứa / năm.

Dê hiền lành, có thể nuôi nhốt hoàn toàn hoặc kết hợp nuôi thả ở các vùng ở Quảng Trị đều cho kết quả  tốt.

3. Dê Alpine:

Là giống dê sữa của Pháp được Trung tâm khuyến nông khuyến lâm Tỉnh nhập về năm 2002, nuôi tại Cam Lộ. Dê có màu lông chủ yếu là màu vàng, đôi khi đốm trắng. Khối lượng trưởng thành: con cái đạt 40 – 42 kg/con. Con đực: 50 – 55 kg/con.

II. PHƯƠNG PHÁP CẢI TẠO ĐÀN DÊ

Xuất phát từ những nhược điểm của dê cỏ nên ta dùng dê Bách Thảo để cải tạo, cải tiến năng suất, chất lượng dàn dê cỏ địa phương.

Phương pháp cải tạo là dùng đực giống dê Bách Thảo cho nhảy trực tiếp với dê cái  địa phương tạo ra con lai F1 có năng suất, chất lượng cao hơn hẳn dê địa phương. Phương pháp này đơn giản, rẻ tiền, dễ làm và có thể áp dụng được tất cả mọi nơi kể cả vùng sâu vùng xa.

Dê lai F1 có đặc điểm:

– Khối lượng sơ sinh: cao hơn 20% so với dê cỏ.

– Khối lượng 30 ngày tuổi đạt: 9 – 11 kg/ con, cao hơn 2,5 – 3 kg/con so với dê cỏ cùng tuổi.

– Khối lượng 60 ngày tuổi đạt: 16 – 17 kg/con tăng hơn 40% so với dê cỏ.

III. KỸ THUẬT CHĂN NUÔI DÊ

1. Cách chọn giống:

– Chọn dê con: Dê con phải có khối lượng sơ sinh 1,8 – 2 kg/con [con cái], và 2,3 kg/con [con đực]. Lúc cai sữa đạt khối lượng 6,5-7,5 kg/con trở lên thì chọn làm hậu bị. Các dê được chọn phải từ các lứa đẻ sinh đôi trở lên của các dê mẹ đẻ từ lứa thứ 2 đến lứa thứ 8. Bố mẹ chúng là dê  đực ở độ tuổi 2 đến 5 năm.

– Chọn dê cái: Là con của dê mẹ cho nhiều sữa, dê con mau lớn, ngoại hình thanh mảnh; đầu nhỏ nhẹ; mình dài, phần sau phát triển hơn phần trước; da mỏng, lông mịn; bầu vú to, mềm mại, đều.

– Chọn dê đực giống: Dê đực khoẻ mạnh, hăng hái, không khuyết tật; đầu to, ngắn, trán rộng; thân hình cân đối, không quá béo, hoặc gầy. Phần thân sau chắc chắn, bắp nở đều, bốn chân chắc khoẻ, 2 hòn cà đều và cân đối. Dê đực phải là dê của con mẹ cho nhiều sữa, dê con tăng trọng nhanh, khả năng chống bệnh tốt. Dê  đực 6 tháng tuổi không đạt 15 kg trở lên không sử dụng làm giống.

2. Phối giống: Tuổi bắt đầu phối giống của dê cái là 7 – 8 tháng tuổi, dê đực 5 – 6 tháng tuổi. Khi bắt đầu phối giống dê cái phải đạt khối lượng 17 – 18 kg, dê đực phải đạt khối lượng 15 – 16 kg.

– Tỷ lệ đực/cái thích hợp là: 1/20 – 1/25.

– Những dê cái có ngoại hình, thể chất và khối lượng đạt yêu cầu thì phải theo dõi sát các kỳ động dục để phối giống kịp thời.

– Thời điểm phối giống thích hợp là 24 giờ kể từ sau khi dê cái có biểu hiện động dục.

– Không cho giao phối đồng huyết và không cho dê đực non phối với dê cái già.

– Dê cái trên 7 năm tuổi và dê đực trên 8 năm tuổi cần được loại thải.

3. Thức ăn cho dê:

–  Thức ăn thô xanh:

Dê là loại ăn tạp, nguồn thức ăn chính là cỏ và các loại lá cây. Dê có thể ăn các loại lá cây mà trâu, bò không ăn được. Nhưng dê không thích ăn các loại cỏ và lá cây bị ướt, nên khi chăn thường phải thả dê vào khoảng 9 – 10 giờ sáng.

Ngoài chăn thả dê ở bãi chăn thì nên cho dê ăn thêm cỏ ở chuồng 2 – 3 kg/con.

Có thể trồng một số cây họ đậu và một số giống cỏ làm thức ăn cho dê như:

          + Cỏ hoà thảo: Cỏ Voi, cỏ Lông Pa Ra

          + Cây họ đậu: Keo dậu, điền thanh…

          + Các cây khác: cây mía, cây mít, cây sung…

Thời gian qua Trung tâm Khuyến nông khuyến ngư tỉnh đã nhập về các loại cây, cỏ, dùng làm thức ăn cho dê rất tốt như: cây chè Khỗng Lồ, đậu Sơn Tây và cỏ Voi. Các loại cây này cho năng suất cao, dinh dưỡng cao, trồng để làm thức ăn bổ sung cho dê đều rất tốt.

– Thức ăn hỗn hợp: Gồm các loại cám gạo, ngô, bột sắn… tuỳ theo lứa tuổi, khả năng sinh sản và tiết sữa cho dê mà ăn từ  0,2 – 0,8 kg/con/ ngày.

– Có thể bổ sung một lượng muối ăn và khoáng đa vi lượng dưới dạng đã chế biến để dê sử dụng tuỳ thích.

– Tuyệt đối tránh thức ăn chua, hôi, mốc, ướt. Hàng ngày cho dê ăn no, đủ các chất dinh dưỡng. Nếu thiếu hụt khẩu phần, dê sinh trưởng kém, thành thục chậm, giảm thể trọng, giảm sản lượng sữa, sinh sản kém, dê gầy dễ bị sinh bệnh.

– Dê thích ăn ở độ cao do vậy cần treo máng thức ăn lên cao cách mặt đất 0,4-0,5 m, cây lá cho ăn thêm cũng nên treo cao để Dê dễ ăn.

4. CHUỒNG TRẠI:

Làm chuồng trại nơi cao ráo, thoát nước, ở cuối hướng gió đảm bảo đông ấm hè mát.

– Phải làm chuồng sàn, cách mặt đất 50 – 80 cm.

– Vật liệu làm chuồng đơn giản, bằng gỗ, tre, nứa, lá…

– Sàn chuồng làm bằng thanh tre, gỗ, nứa thẳng, nhẵn, bản rộng 2,5 cm; cách nhau 1,5 cm đủ lọt phân và tránh cho dê không bị lọt chân.

– Chuồng nên có ngăn riêng cho dê đực giống, dê hậu bị, dê chữa gần đẻ, dê mẹ và dê con dưới 3 tuần tuổi và các loại dê khác.

– Có sân chơi cao ráo, không đọng nước, định kỳ lấy phân ra khỏi chuồng và vệ sinh tẩy uế chuồng trại bằng vôi bột 1 tháng 1 lần.

– Diện tích chuồng nuôi: Phải bảo đảm:

+ Dê trên 6 tháng tuổi: 0,7 – 1 m2 /con

+ Dê dưới 6 tháng tuổi: 0,3 – 0,5 m2 /con.

5. Các biện pháp chăm sóc dê sinh sản:

– Dê chữa: 150 ngày [dao động trong vòng 146 – 157 ngày] trong thời gian chữa cần chăn thả dê gần chuồng, nơi bằng phẳng, tránh đuổi đánh đập. Tách xa dê đực giống để tránh nhảy dê chữa, dễ gây sẩy thai.

– Trước khi đẻ 5 – 10 ngày nhốt riêng dê chữa. Dê sắp đẻ, bầu vú căng sữa, dịch nhờn chảy ở âm hộ, sụp mông. Cho cỏ khô, sạch vào lót ổ và chuẩn bị đỡ đẻ cho dê.

– Sau khi dê đẻ cần lấy khăn mềm, sạch, lau khô lớp màng nhầy ở mồm, mủi để tránh ngạt thở cho dê con.

– Thắt cuống rốn bằng chỉ cách bụng 1cm rồi cắt ngoài chỗ thắt và sát trùng bằng cồn Iod. [I ốt] .

– Sau khi đẻ 30 phút cho dê bú sữa đầu ngay nhằm tăng cường sức khoẻ và sức đề kháng của dê con.

– Không cho dê mẹ ăn nhau thai, cho dê mẹ uống nước muối 0,5% hoặc nước đường 10%.

– Để dê con nằm ở ổ ấm, nuôi nhốt dê mẹ và dê con 3 – 4 ngày, cho ăn tại chuồng, sau đó chăn thả gần nhà.

– Từ ngày thứ 4 đến ngày 21. Nuôi dê con trong cũi [ô riêng] đảm bảo ấm áp, khô sạch, cho bú ngày 3 – 4 lần. Khi 10 ngày tuổi tập cho dê con ăn thức ăn dễ tiêu, cỏ non sạch và khô ráo.

– Không chăn thả dê con trước 21 ngày tuổi và dê mẹ sau khi đẻ 7 – 10 ngày

– Đến 21 – 30 ngày tuổi cho dê con chăn thả theo đàn.

– Dê con sau 3 tháng tuổi tách riêng dê đực, cái và phân đàn theo hướng sản xuất.

Chăm sóc nuôi dưỡng dê cái sinh sản

– Đối với dê cái nên cho phối giống lần đầu khi dê đạt tuổi và trọng lượng tối thiểu cần thiết như dê Bách Thảo thường phải 7-9 tháng tuổi khối lượng phải đạt 19-20kg. Trong thực tế sản xuất áp dụng bằng cách bỏ qua 2 lần dộng dục đầu tiên của dê cái sau đó mới phối giống. Đối với dê cái đang sinh sản, thường sau khi đẻ 1,5-2 tháng dê đã phục hồi sức khoẻ mới cho phối giống lại

– Tuyệt đối không cho dê đực giống phối với dê cái có quan hệ là anh chị em ruột hoặc là con cháu của dê đực giống đó.

– Chu kỳ động dục của dê là 19-21 ngày, động dục kéo dài 1-3 ngày, khi động dục âm hộ hơi sưng đỏ hồng, chảy dịch nhờn, kêu la bỏ ăn, nhảy lên lưng con khác, nếu đang tiết sữa thì giảm sữa đột ngột. Sau khi phát hiện được triệu chứng dê động dục bằng cách quan sát theo dõi hoặc sử dụng đực đeo bao dương vật phát hiện thì sau 18-36 giờ cho dê giao phối là thích hợp. Trong sản xuất thường khi phát hiện dê động dục ngày hôm nay thì sáng sớm hôm sau cho giao phối 2 lần vào buổi sáng và chiều là phù hợp.

– Phải có sổ theo dõi phối giống để ghi chép ngày phối, kết quả phối giống và dự định ngày dê đẻ để đỡ đẻ cho dê.

Sau khi phối giống theo dõi nếu đến chu kỳ động dục bình thường [21 -23 ngày] mà không thấy dê động dục trở lại là có thể dê đã thụ thai. Thời gian mang thai của dê trung bình là 150 ngày [biến động từ 145- 157 ngày] vì vậy phải chuẩn bị đỡ đẻ cho dê trước 140 ngày.

Khi dê có chửa, nhu cầu dinh dưỡng của dê tăng dần lên đặc biệt ở 2 tháng cuối cùng dê cái chịu kiếm ăn hơn, phàm ăn hơn bình thường, biểu hiện ở thể trạng bên ngoài là lông mượt và tăng cân. Cần đáp ứng đủ số lượng và chất lượng thức ăn để dê nuôi thai tốt và có nhiều sữa sau khi sinh.

Đối với dê đang cho sữa, thì tuổi thai càng lớn, lượng sữa của dê mẹ khai thác càng giảm để bào thai phát triển tốt và tránh được sản lượng sữa giảm ở các chu kỳ sau.

* Chú ý: Cho dê cạn sữa từ từ bằng cách giảm dần số lần vắt sữa như ngày 1 lần, rồi 2 ngày 1 lần, 3 ngày 1 lần và cắt hẳn..

Không chăn dê quá xa chuồng và tránh dồn đuổi, đánh đập dê, tuyệt đối không nhốt dê đực giống trong đàn cái đang chửa.

Đối với dê chửa lần đầu cần xoa bóp nhẹ bầu vú để kích thích tuyến sữa phát triển và tập cho dê quen dần với việc vắt sữa sau này.

Dự tính ngày dê đẻ để chuẩn bị trực, chủ động đỡ đẻ và chăm sóc dê con sơ sinh được chu đáo.

– Dê sắp đẻ nên nhốt riêng từng con ở chuồng đã được vệ sinh tiêu độc khô, sạch, kín ấm và yên tĩnh.

– Trước khi đẻ 5-10 ngày nên giảm bớt thức ăn tinh ở những dê cái có năng suất sữa cao để tránh viêm vú, sốt sữa.

– Có người trực dê đẻ, chuẩn bị cũi, lót ổ nằm cho dê con sau khi sinh và các loại dụng cụ như cồn iốt, giẻ lau, kéo, chỉ để cắt rốn cho dê sơ sinh.

– Dê sắp đẻ có những biểu hiện: Dê khó chịu, đi đái luôn, bầu vú và âm hộ sưng đỏ, bụng sa, bầu vú căng. ở âm hộ có dịch đặc chảy thành dòng và xuất hiện bọc nước ối là dê sắp đẻ. Khi nước ối vỡ ra là dê đẻ. Bình thường thai sẽ được đẩy ra từ từ theo nhịp rặn của dê mẹ. Thường dê đẻ từ 1 -4 giờ tuỳ theo số lượng thai và vị trí thai.

– Nếu dê con đang ra mà bị kẹt, khó đẻ, dê mẹ thường kêu la, cần hỗ trợ bằng cách đưa tay đã sát trùng vào đẩy thai theo chiều thuận, khi lôi thai ra cần cẩn thận, hai lay nắm phần thân phía ngoài kéo nhẹ ra theo nhịp rặn của dê mẹ.

Điều quan trọng trước khi can thiệp là xác định đúng vị trí ngôi thai hiện tại

– Khi dê con ra được ngoài, dê mẹ tự liếm con, song vẫn phải lấy khăn sạch, mềm, khô lau hết nhớt từ miệng, mũi, tai, mình, 4 chân của dê. Sau đó, vuốt sạch máu từ cuống rốn trở ra phía ngoài, dùng dây chỉ chắc thắt chặt cuống rốn cách bụng khoảng 3-4cm, dùng dao sắc hay kéo cắt cuống rốn phía ngoài 1-1,5 cm rồi sát trùng bằng cồn iốt 5% hoặc dung dịch ôxy già. Sau khi đẻ hết con [khoảng 30 phút đến 4 giờ] nhau ra, không để dê mẹ ăn nhau. Trường hợp đẻ khó hoặc sau đẻ 4 giờ mà nhau vẫn chưa ra thì mời Bác sĩ thú y can thiệp. Dê mẹ đẻ xong cho uống nước ấm có pha muối 0,5% hoặc nước đường 5- 10%. Hàng ngày cho dê mẹ ăn thức ăn thô, xanh non, thức ăn tinh chất lượng tốt theo khẩu phần xác định. Không cho dê mẹ ăn quá nhiều thức ăn tinh và củ quả để tránh dê bị chướng bụng đầy hơi.

– Sau đó, rửa sạch bầu vú và âm hộ, vệ sinh khô sạch nơi dê vừa đẻ. Trường hợp nếu dê mẹ sưng nầm sữa thì chườm nước nóng và vắt sữa cho khỏi tắc các tia sữa.

4. Chăm sóc nuôi dưỡng dê vắt sữa

Nuôi dưỡng tốt và chăm sóc chu đáo. Nuôi dưỡng tốt và chăm sóc chu đáo dê sữa sẽ cho năng suất cao.

a] Đảm bảo đủ tiêu chuẩn, khẩu phần của dê sữa:

Ưu tiên cho dê mẹ ăn thức ăn thô xanh non, ngon, chất lượng tốt, bổ sung thêm protein thô từ 15-17%, thức ăn tinh hỗn hợp, premix khoáng sinh tố và muối ăn. Lựa chọn các loại thức ăn mà dê ưa thích để có nhiều sữa.

b] Dê có năng suất sữa trên 2 lít/con/ngày [ở tháng thứ 1 và tháng thứ 2] cần cho ăn và vắt sữa 2-3 lần/ngày.

c] Cho uống nước sạch thoả mãn [từ 3-5 lít/con/ngày] yêu cầu nước sạch có thường xuyên ở các máng trong chuồng và ngoài sân chơi. Bổ sung thường xuyên premix khoáng cho dê 0,5kg/tháng/con trong suốt thời gian vắt sữa.

d] Tạo điều kiện cho dê vận động ở sân chơi hoặc bãi chăn khô ráo gần chuồng nuôi 3-5 giờ/ngày, kết hợp xoa chải, bắt ve rận.

e] Theo dõi sự thay đổi khối lượng của dê mẹ, 1-2 tháng đầu dê mẹ sẽ sụt trọng lượng từ 5-7% nhưng từ giữa tháng thứ 2 dê sẽ hồi phục dần và ổn định khối lượng. Nếu nuôi dưỡng không tốt, thiếu khoáng, hao hụt khối lượng dê mẹ lớn hồi phục chậm, sản lượng sữa sẽ giảm,dê không động dục trở lại, đôi khi sẽ bị bệnh bại liệt.

g] Dê cho sữa nhất là con cao sản thường dễ bị bệnh viêm vú, vì vậy hàng ngày khi vắt sữa phải quan sát theo dõi tình trạng con vật, bầu vú màu sắc mùi vị của sữa, nếu thấy khác thường cần can thiệp kịp thời bằng biện pháp chườm nước nóng, xoa bóp bằng nước muối ấm 10%, dán cao tan hoặc bằng các biện pháp thú y thông thường khác.

Video liên quan

Chủ Đề