Người chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh

70 năm qua, Chiến dịch Biên giới 1950 đã đi vào trang sử vẻ vang của dân tộc, những những chỉ đạo chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với hình ảnh Người trực tiếp chỉ đạo chiến dịch tại trận địa vẫn gây nên sự xúc động mạnh mẽ trong lòng mỗi người dân Việt Nam, tạo nên sức thuyết phục về hình ảnh Người anh hùng dân tộc - Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh – linh hồn của Chiến dịch

Nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng một phần vùng biên giới phía Bắc, phá thế bao vây của địch, tiến tới giành quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, tháng 6/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng quyết định mở Chiến dịch Biên giới, mang mật danh Chiến dịch Lê Hồng Phong II. Bộ Chỉ huy Bộ Chỉ huy Chiến dịch do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày 12/8/1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị cho các cấp Đảng bộ lãnh đạo quân dân địa phương đánh địch mạnh để tiêu hao lực lượng địch, kiềm chế địch, phối hợp với “một chiến dịch lớn” do Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh trực tiếp chỉ đạo; do Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lệnh phát động, đồng thời phát động trong toàn quốc tuần lễ “thi đua giết giặc lập công”.
Từ cuối tháng 8/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra mặt trận cùng Bộ Chỉ huy Chiến dịch trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Người kiểm tra kế hoạch tác chiến, xem xét công tác chuẩn bị hậu phương, theo dõi kịp thời diễn biến của chiến dịch, góp những ý kiến chỉ đạo và động viên cán bộ, bộ đội, dân công.

Do quy mô của Chiến dịch tương đối lớn, có nhiều lực lượng tham gia, trên địa bàn rộng, rừng núi hiểm trở, lại xa căn cứ hậu cần của ta, nên việc chuẩn bị, bảo đảm cho Chiến dịch rất khó khăn. Thấy trước được điều đó, trong Hội nghị Quốc phòng [ngày 2/9], Bác Hồ đã đề nghị Chính phủ tập trung chỉ đạo tiếp tế cho Chiến dịch Biên giới và chỉ thị cho các lực lượng tham gia Chiến dịch: “Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng rất quan trọng. Chúng ta quyết đánh thắng trận này”. Ngày 9/9/1950, Người ra Lời kêu gọi đồng bào ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng: “Đồng bào hãy tiến lên làm gương kiểu mẫu cho nhân dân toàn quốc, giúp cho Chiến dịch được thắng lợi".

Thực hiện Lời kêu gọi của Bác, hàng vạn đồng bào các dân tộc Cao Bằng rời nhà lên đường đi chiến dịch, làm dân công hỏa tuyến bạt núi, mở đường, bắc cầu, vận chuyển lương thực, đạn dược phục vụ chiến dịch.

Ban đầu, ý định tác chiến của Bộ chỉ huy Chiến dịch là đánh Cao Bằng trước, sau đó chuyển xuống đánh Đông Khê, Thất Khê. Nhưng sau khi phân tích tình hình, Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết định đánh Đông Khê để mở màn Chiến dịch. Phân tích chủ trương đánh Đông Khê, Người chỉ rõ: "Ta đánh vào Đông Khê là đánh vào nơi quân địch tương đối yếu, nhưng lại là vị trí rất quan trọng của địch trên tuyến Cao Bằng - Lạng Sơn. Mất Đông Khê, địch buộc phải cho quân đi ứng cứu, ta có cơ hội thuận lợi tiêu diệt chúng trong vận động". Tại Chiến dịch này, lần đầu tiên ta huy động một lực lượng lớn gồm một đại đoàn và 2 trung đoàn chủ lực cơ động của Bộ ba tiểu đoàn chủ lực của Liên khu Việt Bắc và các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du lích hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.

Cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi Chiến dịch Biên giới, trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Trên đường đi, ghé thăm một đơn vị thanh niên xung phong làm đường phục vụ chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng thanh niên bốn câu thơ:

“Không có việc gì khó,

Chỉ sợ lòng không bền,

Đào núi và lấp biển,

Quyết chí ắt làm nên”.

Ngày 13/9, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời Sở Chỉ huy chiến dịch để đến Mặt trận Đông Khê, trực tiếp theo dõi bộ đội đánh trận mở màn chiến dịch. Người chỉ thị cho bộ đội: "Dù khó khăn đến đâu cũng kiên quyết khắc phục đánh cho kỳ thắng trận đầu". Đêm 16/9, quân ta bất ngờ tấn công cứ điểm Đông Khê. Sau 2 ngày chiến đấu ác liệt, quân ta đã tiêu diệt hòan toàn cụm cứ điểm Đông Khê. Ngay lúc này, Người vạch ý đồ tác chiến của ta là "nhử thú vào tròng" để "khép vòng lưới thép" tiêu diệt chúng. Tiếp đó ta truy kích và bắt gọn quân địch rút chạy từ Cao Bằng. Ngày 8/10/1950, quân ta tiêu diệt hai binh đoàn ứng cứu của Pháp.

Trong những ngày truy kích địch, Bác Hồ trực tiếp theo dõi diễn biến và chỉ đạo trận mở màn Chiến dịch tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê tại đài quan sát Chiến dịch, liên tục gửi nhiều thư, điện động viên bộ đội. Như được tiếp thêm sức mạnh, bộ đội ta nhất tề xông lên tiêu diệt địch, giành chiến thắng vang dội.

Sau 29 ngày chiến đấu ở vùng biên giới [từ 26/9-4/10], ta đã tiêu diệt và bắt sống gần 8.300 địch, tiêu diệt 10 tiểu đoàn, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập [Lạng Sơn]. Phối hợp với chiến dịch Biên giới, quân và dân ta tăng cường chiến đấu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Tính chung cả nước ta đã tiêu diệt 12.000 tên địch, giải phóng 5 thị xã, 13 thị trấn và nhiều vùng rộng lớn.

Hình ảnh “Bác Hồ ra chiến dịch”

Đây là lần đầu tiên ta mở một chiến dịch tiến công lớn thắng lợi đánh vào một tuyến phòng thủ mạnh của địch. Chiến dịch đã làm phá sản kế hoạch Rơ-ve, khiến ý chí xâm lược của Thực dân Pháp bị lung lay. Ta mở được đường giao thông quốc tế nối liền Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa sau 5 năm bị đế quốc bao vây. Căn cứ địa Việt Bắc được mở rộng và củng cố, đường liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và Liên khu IV được thông suốt.


Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đài quan sát trận đánh mở màn của bộ đội ở Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới [1950]

Thắng lợi này đã mở ra bước ngoặt quan trọng chuyển cuộc kháng chiến của ta từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, đánh dấu bước trưởng thành lớn của Đảng trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh, đưa cuộc kháng chiến bước vào giai đoạn ta nắm quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ, chuyển hẳn sang liên tục tiến công địch, tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.

Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới đã thể hiện rõ tư duy chiến lược, nghệ thuật quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị tư lệnh tối cao trong Chiến dịch, củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Sau khi Chiến dịch Biên giới kết thúc, Người đã trực tiếp đi thăm chiến trường Đông Khê, Thất Khê; thăm hỏi và động viên các thương binh, các đơn vị tham gia chiến dịch, thăm dân công, gửi thư gửi thư cám ơn và khen ngợi đồng bào Cao - Bắc - Lạng. Trong niềm vui chiến thắng, Người không quên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và nhân dân: “Không vì thắng lợi mà kiêu căng, chủ quan, khinh địch, chúng ta phải nhớ rằng: trong toàn cuộc trường kỳ kháng chiến thì thắng lợi này mới chỉ là bước đầu. Chúng ta cần phải đánh thắng nhiều trận gay go hơn, to tát hơn nữa, mới đi đến thắng lợi hoàn toàn”.

Thấm nhuần lời dạy sâu sắc của Người, cùng với khí thế của chiến thắng Biên giới 1950, quân và dân ta đã anh dũng tiến lên chiến đấu và giành được thắng lợi to lớn hơn trong giai đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến, mà quan trọng là trong chiến cuộc đông xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ.

Với mỗi quyết định, chỉ đạo Chiến dịch của Bác thể hiện một tư tưởng quân sự vĩ đại, một cái đầu nhạy bén trước những biến động của lịch sử; mỗi lời động viên, khích lệ của Bác với nhân dân thể hiện sự gần gũi, tin tưởng, yêu thương.

Việc Người ra chỉ đạo tại mặt trận làm cho mọi người càng thấm sâu ý nghĩa quan trọng của Chiến dịch, là lời động viên mạnh mẽ nhất, xúc động nhất lan truyền trong sâu thẳm toàn thể đội ngũ dân công, bộ đội tham gia Chiến dịch, góp phần động viên, khích lệ chiến sĩ giết giặc lập công.

Những chỉ đạo sáng suốt, nhạy bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như những hình ảnh Bác Hồ ra trận trong Chiến dịch trở thành hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng, có sức hiệu triệu mạnh mẽ để mỗi người dân sẵn sàng hiến dâng sức người, sức của, sẵn sàng hy sinh hết thảy vì chủ quyền non sống. Những quyết định sáng suốt đó, sự động viên kịp thời đó góp phần làm nên thắng lợi của Chiến dịch Biên giới 1950. Điều đó càng thể hiện được tính đúng đắn của đường lối kháng chiến mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn “toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”.

Nguồn tham khảo: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, tập 4.

Theo //hochiminh.vn/

Chân dung đồng chí Lê Trọng Tấn

[Thanhuytphcm.vn]- Đồng chí Lê Trọng Tấn sinh ngày 1 tháng 10 năm 1914 tại làng Nghĩa Lộ, thôn An Định, xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay là phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội trong một gia đình nhà Nho giàu truyền thống yêu nước. Thuở thiếu thời, Lê Trọng Tấn học ở quê nhà, sau ra Hà Nội học tú tài ở Trường Bưởi. Vừa học giỏi, ông lại ham mê bóng đá, võ nghệ, từng là tiền vệ có tiếng của đội bóng Tia chớp [Eclain]. Vì là cầu thủ giỏi, ông được tuyển vào đội bóng đá của không quân Pháp, nhập ngũ vào lính khố đỏ đồn trú tại Sân bay Tông - Sơn Tây, cho nên mọi người quen gọi ông là Đội Tố.

Năm 1944, do được giác ngộ cách mạng, ông đã bí mật tham gia Mặt trận Việt Minh, làm công tác địch vận tại Hoàng Mai - Hà Nội rồi trở thành Ủy viên quân sự của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Hà Đông tháng 8 năm 1945. Tháng 12 năm 1945, ông được kết nạp vào Đảng.

Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, ông nhập ngũ và được điều động phụ trách một chi đội trong đoàn quân Tây Tiến oai hùng xây dựng cơ sở cách mạng, lực lượng vũ trang ở vùng Tây Bắc xa xôi. Chi đội do ông phụ trách phát triển thành Trung đoàn 148 [Trung đoàn Sơn La] do ông làm Trung đoàn trưởng. Sau đó ông được cử làm Quyền Khu trưởng Khu 9, Khu phó Liên khu 10, chỉ đạo xây dựng đội xung phong Lào - Bắc - một đơn vị liên quân đầu tiên giúp đỡ cách mạng Lào. Cuối năm 1949, Bộ Tổng Tư lệnh thành lập hai trung đoàn chủ lực đầu tiên trực thuộc Bộ là Trung đoàn 174 và Trung đoàn 209. Trung đoàn 209 do đồng chí Lê Trọng Tấn làm Trung đoàn trưởng, Trần Độ làm Chính ủy. Đây là hai trung đoàn chủ lực có công lớn trong Chiến dịch Biên giới năm 1950, tiến công làm chủ căn cứ Đông Khê và tiêu diệt hai binh đoàn cơ động của quân Pháp là binh đoàn Lơ Pagiơ và binh đoàn Sáctông.

Đồng chí Lê Trọng Tấn [thứ hai, từ trái sang] và Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng một số cán bộ trao đổi công việc [Nguồn: Báo Quân đội nhân dân]

Ngày 27 tháng 12 năm 1950, Đại đoàn 312 [sư đoàn] được thành lập, ông được Bộ Tổng Tư lệnh bổ nhiệm là Đại đoàn trưởng khi mới 36 tuổi. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Đại đoàn 312 do ông chỉ huy tham gia hầu hết các chiến dịch của quân đội ta: Chiến dịch Hoàng Hoa Thám năm 1951, Chiến dịch Lý Thường Kiệt hè 1951, Chiến dịch Hòa Bình cuối năm 1951, đầu năm 1952, Chiến dịch Tây Bắc Thu Đông 1952. Tháng 12 năm 1952, ông được giao nhiệm vụ đưa Trung đoàn 141 của Đại đoàn 312 vượt qua Mai Sơn sang Mường Hét giúp bạn Lào mở rộng căn cứ Mường Khộp theo yêu cầu của Chính phủ kháng chiến Lào.

Trong Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, Đại đoàn 312 do ông chỉ huy đã lập chiến công cực kỳ xuất sắc và được nhận cờ Quyết chiến, Quyết thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 13 tháng 3 năm 1954, Đại đoàn 312 đánh trận mở màn vào căn cứ Him Lam, tiêu diệt và làm chủ cụm cứ điểm đầu tiên của địch và đến chiều ngày 7 tháng 5 năm 1954, Đại đoàn do ông chỉ huy đã bắt sống tướng Đờ Cát và toàn bộ Bộ Chỉ huy của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc 56 ngày đêm chiến đấu.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, với kinh nghiệm của người chỉ huy dày dạn trận mạc, tháng 12 năm 1954 đến tháng 3 năm 1961, ông được điều động về làm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan lục quân trú đóng ở Sơn Tây để đào tạo đội ngũ sĩ quan chỉ huy thích ứng với đối tượng tác chiến mới. Năm 1958, ông được thụ phong quân hàm Đại tá.

Đại tướng Lê Trọng Tấn [ngoài cùng bên phải] tại Sở chỉ huy chiến dịch Quảng Trị năm 1972 [Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia]

Từ tháng 3 năm 1961, ông được điều động về cơ quan Tổng hành dinh và được đề bạt làm Tổng Tham mưu phó Quân đội Nhân dân Việt Nam phụ trách tác chiến, góp phần lãnh đạo, chỉ huy bộ đội từng bước tiến lên chính quy, hiện đại, sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. Cùng năm này ông được phong quân hàm Thiếu tướng.

Năm 1964, trước yêu cầu mới của chiến trường miền Nam, ông cùng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh và nhiều tướng lĩnh, sĩ quan tài giỏi được điều động bí mật vào chiến trường trên cương vị Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam - Ủy viên Quân ủy Miền. Trong thời gian công tác ở chiến trường Nam Bộ, ông được biết đến với cái tên Ba Long - một vị chỉ huy tài năng trong đánh hiệp đồng binh chủng với các chiến dịch lớn. Vừa vào chiến trường ông đã tham gia lãnh đạo, chỉ huy chiến dịch Bình Giã [1964] rồi được chỉ định làm Tư lệnh chiến dịch Đồng Xoài giữa năm 1965. Thắng lợi của hai chiến dịch quan trọng này cùng với chiến dịch Ba Gia của Quân khu 5 đã đánh gãy xương sống của quân đội Sài Gòn, làm cho “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản, chính quyền Sài Gòn trước nguy cơ sụp đổ, buộc đế quốc Mỹ phải trực tiếp đưa quân chiến đấu Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào chiến trường miền Nam tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ”.

Khi quân chiến đấu Mỹ có mặt ở miền Nam từ giữa năm 1965, chúng lập tức mở cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966. Trên cương vị là Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, ông được cử trực tiếp làm Tư lệnh chiến dịch Bàu Bàng - Dầu Tiếng, từ ngày 12 đến ngày 27 tháng 11 năm 1965, đánh thiệt hại nặng Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn 1 - anh cả đỏ của quân chiến đấu Mỹ. Mùa khô 1966 -1967, quân Mỹ lại mở cuộc phản công chiến lược, đỉnh cao là cuộc hành quân Junction City, đánh thẳng vào căn cứ Trung ương Cục và Bộ Chỉ huy Quân Giải phóng nhằm tiêu diệt cơ quan lãnh đạo cuộc kháng chiến. Trên cương vị là Tư lệnh chiến dịch, đồng chí Lê Trọng Tấn đã trực tiếp chỉ huy cuộc chiến đấu, đánh thắng cuộc hành quân đầy tham vọng và lớn nhất trên chiến trường miền Nam của quân Mỹ.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1968, về mặt quân sự, ông cùng đồng chí Hoàng Văn Thái - Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền đã tổ chức chỉ huy các lực lượng vũ trang đánh thẳng vào các đô thị, đặc biệt là sào huyệt của địch ở Sài Gòn trên chiến trường Nam Bộ, làm rung chuyển nước Mỹ và Mỹ hiểu ra rằng không thể thắng được dân tộc chúng ta trong cuộc chiến tranh này, buộc phải xuống thang chiến tranh.

Năm 1969, từ chiến trường Nam Bộ, đồng chí được điều động trở lại Tổng hành dinh ở Hà Nội, tiếp tục giữ cương vị Tổng Tham mưu phó Quân đội Nhân dân Việt Nam, sát cánh cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Văn Tiến Dũng hoạch định chiến lược bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.

Bộ Tem về Đại tướng Lê Trọng Tấn được phát hành nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia]

Năm 1971, với sự yểm trợ của cố vấn quân sự và hỏa lực của quân đội Mỹ, quân đội Sài Gòn mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra đường 9 - Nam Lào hòng chiếm Sêpôn, cắt đứt đường chi viện chiến lược Trường Sơn, chia cắt ba nước Đông Dương. Đồng chí Lê Trọng Tấn lại được tin tưởng giao trọng trách Tư lệnh chiến dịch quân sự quan trọng này và giành thắng lợi vang dội, đánh tiêu diệt phần lớn sinh lực địch, bảo vệ vững chắc các kho hàng, giữ vững đường vận chuyển chiến lược từ Bắc vào Nam, chủ động kết thúc chiến dịch một cách nhanh chóng.

Sau thắng lợi của chiến dịch đường 9 - Nam Lào, năm 1972, quân Giải phóng miền Nam mở cuộc tiến công chiến lược quy mô lớn trên nhiều chiến trường. Ông lại được cử làm Tư lệnh chiến dịch Bắc Quảng Trị - một trong ba chiến dịch chủ yếu mở đầu cho cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Đây là chiến dịch hiệp đồng binh chủng lớn nhất của quân đội ta cho đến lúc này. Sau 34 ngày đêm chiến đấu, quân và dân ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị, tỉnh đầu tiên của miền Nam được giải phóng, rồi tổ chức phòng ngự, săn lùng tiêu diệt xe tăng Mỹ với cách đánh luồn sâu “nở hoa trong lòng địch”. Đây là biệt tài của ông.

Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ngày 28 tháng 1 năm 1973, quân Việt Nam Cộng hòa lập tức tái chiếm Cửa Việt - là vùng giải phóng của ta. Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn lại được cử vào Quảng Trị chỉ huy bộ đội lập tức khôi phục lại vùng giải phóng Cửa Việt, đẩy quân Việt Nam Cộng hòa về tuyến cũ.

Từ giữa năm 1973, Đại tướng - Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp quyết định thành lập Tổ trung tâm của cơ quan Tổng hành dinh để xây dựng kế hoạch giải phóng miền Nam trong hai năm và giao cho Phó Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn làm tổ trưởng. Trải qua tám lần dự thảo, được Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương cho ý kiến nhiều lần, đến ngày 8 tháng 1 năm 1975, kế hoạch được bổ sung hoàn chỉnh và chính thức được Bộ Chính trị thông qua.

Ngày 24 tháng 10 năm 1973, tại Tam Điệp - Ninh Bình, Quân đoàn I, quân đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta được thành lập, ông lại được tin cậy giao trọng trách kiêm nhiệm Tư lệnh Quân đoàn để xây dựng quả đấm chủ lực mạnh chuẩn bị cho kế hoạch giải phóng miền Nam.

Sau khi chiến dịch giải phóng Tây Nguyên giành thắng lợi, Bộ thống soái tối cao quyết định mở hai chiến dịch liên tiếp nhằm giải phóng Huế và Đà Nẵng, ông lại được tin cậy cử làm Tư lệnh hai chiến dịch then chốt này. Đặc biệt ở chiến dịch Đà Nẵng, địch tập trung về đây hơn 100 ngàn quân, là một căn cứ liên hợp quân sự mạnh, nhưng chấp hành mệnh lệnh của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, ông đã chỉ huy bộ đội đánh chiếm Đà Nẵng đúng ba ngày ba đêm, giải phóng thành phố lớn thứ hai của miền Nam.

Khi Tây Nguyên và các tỉnh duyên hải ven biển miền Trung được giải phóng, ông là người chủ động đề xuất với Thường trực Quân ủy Trung ương cho thành lập cánh quân phía Đông gồm Quân đoàn 2 và Quân đoàn 4 đánh thẳng vào nội đô Sài Gòn. Ông là Tư lệnh cánh quân này. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ông được bổ nhiệm Phó Tư lệnh chiến dịch trực tiếp làm Tư lệnh binh đoàn phía Đông. Mặc dù cánh quân phía Đông phải tiến công đường dài xa nhất nhưng binh đoàn thọc sâu của cánh quân phía Đông do ông làm Tư lệnh đã đánh chiếm Dinh Độc Lập, bắt sống toàn bộ nội các Dương Văn Minh, cắm cờ giải phóng trên nóc Dinh báo hiệu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và bè lũ tay sai của dân tộc ta toàn thắng.

Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, ông trở lại cương vị Phó Tổng Tham mưu trưởng kiêm Viện trưởng Viện Khoa học quân sự, Giám đốc Học viện Quân sự cấp cao - nay là Học viện Quốc phòng, đặt nền móng cho việc đào tạo đội ngũ sĩ quan cấp chiến dịch và chiến lược của quân đội ta.

Tháng 5 năm 1978, ông được cử làm Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Trên cương vị mới, ông đã chủ trì xây dựng nhiều đề án giúp Quân ủy Trung ương trình Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương ban hành nhiều nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cũng như tổ chức, trang bị cho quân đội sau chiến tranh.

Tháng 12 năm 1978, ông được giao trọng trách trực tiếp chỉ huy các lực lượng vũ trang chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và đưa quân giúp bạn giải phóng Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng.

Tháng 2 năm 1979, ông lại được điều về Tổng hành dinh cùng Quân ủy Trung ương - Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc chống quân Trung Quốc xâm lược. Với cương vị Tổng Tham mưu trưởng, ông đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu hiệp đồng, chỉ huy quân và dân sáu tỉnh biên giới phía Bắc, điều chuyển lực lượng từ Campuchia về tăng cường cho phía Bắc để chuẩn bị đánh phản công lớn.

Trong cuộc đời cầm quân quang vinh của mình, ông luôn luôn có mặt ở những chiến trường trọng điểm, trở thành vị tướng đánh hiệp đồng binh chủng giỏi nhất Việt Nam, vị tướng trận hàng đầu, một Giucốp của Việt Nam.

Ngày 5 tháng 12 năm 1986, đồng chí qua đời tại Hà Nội, hưởng thọ 72 tuổi.

Ông là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa IV và khóa V [1976 – 1986], là đại biểu Quốc hội khóa VII [1981 - 1987]. Ông được thụ phong quân hàm Trung tướng năm 1974, Thượng tướng năm 1980 và Đại tướng năm 1984.

Ghi nhận những đóng góp của ông, Đảng, Nhà nước tặng thưởng ông Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, hai Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất và nhiều huân, huy chương cao quý khác.

Tại Hà Nội có tới ba con đường mang tên ông. Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng, Bạc Liêu, An Giang, Hưng Yên, Ninh Bình, Đắk Lắk… đều có những con đường mang tên Đại tướng Lê Trọng Tấn.

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

[Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM]

Tin liên quan

Video liên quan

Chủ Đề