Nhân vật kịch La gì

Nhân vật kịch La gì

Khái niệm: Kịch là một loại hình nghệ thuật tổng hợp vì có sự tham gia của nhiều ngành thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau: kịch bản ( lĩnh vực văn học), đạo điễn, diễn viên, họa sỹ… (thuộc lĩnh vực sân khấu).

Đặc điểm: gồm các mâu thuẫn xung đột kịch

  • Xung đột bên ngoài: giữa nhân vật này với nhân vật khác, nhân vật với gia đình dòng họ…
  • Xung đột bên trong: nội tâm, tâm trạng, cảm xúc của nhân vật.

Hành động kịch: đó là sự tổ chức cốt truyện nhân vật, tình tiết, diễn cố theo một diễn biến chặt chẽ, nhất quán. Hành động kịch do các nhân vật kịch thực hiện, trong quá trình đó nhân vật bộc lộ đặc điểm, tính cách của mình

  • Ngôn ngữ kịch: có 3 loại ( đối thoại, độc thoại và bang thoại)
  • Ngôn ngữ kịch khắc họa đặc điểm ngoại hình và tính cách nhân vật
  • Ngôn ngữ kịch mang tính hành động
  • Gần gũi với đời sống, ít nhiều mang tính khẩu ngữ.

Cốt truyện kịch:

  • Phát triển theo xung đột kịch, qua các giai đoạn: mở đầu, thắt nút, phát triển, cao trào, giải quyết ( cởi nút).
  • Thời gian và không gian kịch
  • Mỗi vở kịch có thể chia thành nhiều màn (hồi). mỗi màn có thể chia thành nhiều lớp.

Phân loại kịch:

Xét theo nội dung ý nghĩa của xung đột kịch phân ra 3 loại sau:

  • Bi kịch: nỗi xót xa, thương cảm,…
  • Hài kịch: tình huống khôi hài, đối lập,..
  • Chính kịch: đề tài cuộc sống.

Căn cứ vào ngôn ngữ trình diễn:

  • Kịch thơ
  • Kịch nói
  • Ca kịch ( tuồng, chèo, cải lương)
  • Kịch câm
  • Nhạc kịch
  • Vũ kịch
  • Kịch rối

Căn cứ vào tính truyền thống hay hiện đại:

  • Kịch dân gian ( chèo, tuồng, cải lương…)
  • Kịch cổ điển ( trước thế kỷ XX)
  • Kịch hiện đại (từ thế kỷ XX)

Tác phẩm điển hình:

  • “Chém thuốc độc” của Vũ Đình Long được công bố tháng 9/1921, ngày 22/11/1921, vở kịch được diễn lần đầu trên sân khấu Nhà hát thành phố Hà Nội..
  • “Tây sương tấn kịch”, “Tòa án lương tâm” của Vũ Đình Long
  • “Bạn và vợ”, “Một người thừa”, “Tòa án âm phủ” của Nguyễn Hữu Kim
  • “Uyên ương”, “ Hoàng Mộng Điệp”, “Hai tối hôn nhân” của Vi huyền Đắc
  • “Chàng ngốc”, “Ông tây An Nam” của Nam xương
  • “Nặng nghĩa tớ thầy” của Tương Huyền
  • “Tiểu thuyết Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh
  • “Tiểu thuyết Nửa chừng xuân” của Khánh Hưng
  • “Mơ Hoa”, “Cuối mùa” của Đoàn Phú Tứ
  • “Vũ Như Tô” của Nguyễn Huy Tưởng

Kịch là một môn nghệ thuật sân khấu, một trong ba phương thức phản ánh hiện thực của văn học. Thuật ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp sở hữu tức là “hành động”, kịch tính (tiếng Hy Lạp cổ điển: δρᾶμα, drama), được bắt nguồn từ “I do” (Tiếng Hy Lạp cổ: δράω, drao). Là sự kết hợp giữa 2 yếu tố bi và hài kịch.

Phân biệt kịch bản văn học và nghệ thuật sân khấu (kịch):

– Kịch bản văn học là tác phẩm văn học, sở hữu đầy đủ đặc điểm của nghệ thuật ngôn từ. Còn sân khấu thuộc nghệ thuật trình diễn.
– Kịch bản văn học viết ra là để trình diễn nên cũng đậm chất sân khấu. Vì thế lúc xem xét kịch bản văn học một mặt phải xem nó như 1 tác phẩm nghệ thuật, mặt khác ko thể tách rời nó khỏi nghệ thuật sân khấu mới thấy hết được những đặc trưng của nó.

Đặc trưng của kịch:

– Xung đột và cách khắc phục xung đột:
+ Xung đột: là biểu hiện cao nhất sự phát triển tranh chấp giữa những lực lượng, những cá tính trong vở kịchà Tạo nên kịch tính, xúc tiến sự phát triển hành động kịch, bộc lộ tính cách nhân vật
·        Tập trung miêu tả xung đột trong đời sống (Xung đột là cơ sở vật chất của kịch – Pha đê ép)
·        Với 2 loại xung đột: Xung đột bên ngoài (NV này với NV khác, NV với gia đình, dòng tộc..), xung đột bên trong (xung đột trong nội tâm NV)
+ Xung đột phát triển tới cao trào à khắc phục (mở nút) à Tư tưởng tác phẩm.

Với 2 xung đột chính:

·        Xung đột giữa giai cấp thống trị thối nát, xa hoa, trụy lạc >< nd>
·        Giữa quan niệm nghệ thuật cao siêu, thuần túy của muôn thuở ><  lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.

– Hành động kịch: là sự tổ chức những tình tiết, sự kiện, biến cố trong cốt truyện theo một trình tự logic, chặt chẽ, chủ yếu theo quy luật nhân quả.
   Được miêu tả căng thẳng, gấp gáp. Hết hành động này tới hành động khác, ngay cả lúc thực hiện những hành động suy tư, ngẫm nghĩ cũng diễn ra rất nhanh.

– Nhân vật kịch: Luôn ở trạng thái căng thẳng (xúc động, xao xuyến, chờ đợi, lo lắng), được xây dựng bằng tiếng nói.
àMối quan hệ: Xung đột kịch được cụ thể hóa thành hành động kịch. Nhân vật kịch là người thực hiện những hành động kịch.
– Tiếng nói kịch:

Đặc điểm:

·        Khắc họa tính cách: Tiếng nói biểu hiện đặc điểm, tính cách, phẩm chất của nhân vât, “cá tính hóa”
VD: Lời thoại của Rô- mê – ô (mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát trong sự lựa chọn)
·        Tiếng nói mang tính hành động: thể hiện tranh luận, tiến công, chống đỡ, thuyết phục, cầu khẩn, đe dọa, ra lệnh…
VD: Lời thoại của Đan Thiềm
·        Tính khẩu ngữ cao: sắp gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
VD: “Làm gì mà quàng quạc chiếc mồm lên thế. Ông đánh ựa cơm ra ngày nay” (Chèo Bài ca giữ nước của Tào Mạt); Chiếc chi nghe kinh người, Giống vật ko biết nhục (Vũ Như Tô)
+ Với 3 loại: Hội thoại, độc thoại (nhân vật tự bộc bạch tâm sự của mình, sở hữu lúc hướng tới 1 người nào đó: Ju-li-et nói 1 mình trong đêm khuya), bàng thoại.
Ðối thoại là nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa những nhân vật. Ðây là dạng tiếng nói chủ yếu trong kịch. Những lời hội thoại trong kịch phải sắc sảo, sinh động và sở hữu tác dung qua lại với nhau nhằm thể hiện kịch tính.
Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với mình, qua đó bộc lộ những dằn vặt nội tâm và những ý nghĩa thầm kín. Ðây là giải pháp quan yếu nhất nhằm biểu hiện nội tâm nhân vật nhưng ko phải là giải pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội tâm, kế bên độc thoại, người ta sở hữu thể thay thế bằng những phút yên lặng, những tiếng vọng, tiếng đế…
Bàng thoại là nói với khán giả. Với lúc đang đối đáp với một nhân vật khác, bỗng dưng nhân vật tiến sắp tới và hướng về khán giả nói vài câu để phân trần, giảng giải một tình cảnh, một tâm trạng cần được chia xẽ, một điều bí mật: loại này chiếm tỉ lệ thấp trong tiếng nói kịch.

Phân loại:

– Về nội dung, ý nghĩa của xung đột sở hữu thể chia kịch ra làm 3 loại: hài kịch, thảm kịch, chính kịch
Thảm kịch là một thể loại kịch mà xung đột chủ yếu nằm ở giữa “yêu sách thế tất về mặt lịch sử và tình trạng ko tài nào thực hiện được điều đó trong thực tế” (Enghel). Thảm kịch đưa lên sân khấu những con người lương thiện, dũng cảm, sở hữu những thèm muốn mãnh liệt với những cuộc đáu tranh căng thẳng, khốc liệt đối với chiếc ác, chiếc xấu nhưng do điều kiện lịch sử,họ phải chịu thất bai. Thất bại của họ gợi lên ở khán giả “sự xót thương và sự sợ hãi để thanh lọc tình cảm” (Aristote) hoặc “để truyền tụng, biểu dương ý chí xoành xoạch vươn lên của con người trước những sức mạnh mù quáng của những thế lực hắc ám”(Biêlinxki).
Hài kịch là thể loại kịch nói chung được xây dựng trên những xung đột giữa những thế lực xấu xa tìm cách che đậy mình bằng những lớp sơn hào nhoáng, giả tạo bên ngoài. Tính hài kịch tạo ra từ sự mất tương thích, kết hợp của nhân vật. Trong một số hài kịch, sở hữu những nhân vật tích cực thể hiện lí tưởng tiến bộ, nhưng nhìn chung nhân vật hài kịch là những nhân vật tiêu cực sở hữu nhiều thói hư tật xấu. Tiếng cười trong hài kịch sở hữu tác dụng giải thóat cho con người khỏi những thói xấu, sở hữu tác dung trau dồi phong hóa, giáo dục đạo đức và thẩm mĩ.
Chính kịch còn gọi là kịch drame, nhắc tới mọi mặt của đời sống con người, đó là con người toàn vẹn, ko bị cắt xén hoặc chỉ tô đậm ở nét bi hoặc hài. Shakespeare là người trước hết đã thể hiện thành công cho loại kịch sở hữu sự pha trộn giữa bi và hài này. Dần dần chính kịch phát triển mạnh vì thích hợp hơn với cuộc sống và con người hiện đại.

Người đăng: chiu

Time: 2021-12-28 16:20:53