Những cải cách về chính quyền trung ương và địa phương của vua Lê Thánh Tông

CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [266.08 KB, 32 trang ]

C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
CHUYÊN ĐỀ: CẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG – NHÂN TỐ QUYẾT
ĐỊNH DẪN TỚI SỰ HƯNG THỊNH CỦA TRIỀU ĐẠI LÊ SƠ
I. Hoàn cảnh lịch sử
1. Thuận lợi
Đầu thế kỉ XV do không đoàn kết được nhân dân, nhà Hồ chịu sự thất bại
trước cuộc xâm lược của nhà Minh. Vì vậy từ 1407, Đại Việt lại rơi vào ách đô
hộ tàn bạo của nhà Minh. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở miền ngược
cũng như miền xuôi nhưng đều thất bại. Từ năm 1417 – 1428 khởi nghĩa Lam
Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi bùng nổ ở Thanh Hóa và
giành được thắng lợi. Sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, đầu năm 1428 Lê
Lợi lên ngôi hoàng đế, sáng lập nhà Lê, đặt lại tên nước là Đại Việt. Trải qua
các đời vua đầu nhà Lê sơ: Thái Tổ [1428 – 1433], Thái Tông [1433 – 1442],
Nhân Tông [1442 – 1459], đất nước đang dần được khôi phục và bước vào giai
đoạn phát triển trên tất cả các lĩnh vực.
Về chính trị, đó là sự ổn định, chính quyền trung ương ngày càng mang
tính chất tập trung. Ngay từ năm 1427, khi còn bao vây Đông Đô, Lê Lợi đã
bước đầu xây dựng bộ máy chính quyền. Đến khi đất nước được giải phóng,
nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho nhà Lê là xây dựng chính quyền mới. Về cơ bản
từ đời vua Thái Tổ đến đời vua Nhân Tông, nhờ nhận được sự ủng hộ, tin tưởng
của nhân dân trước một triều đại mới – triều đại đã đánh bại quân xâm lược
Minh, giành lại độc lập, chủ quyền cho dân tộc mà nhiệm vụ trên được thực
hiện một cách thuận lợi. Tuy các triều vua đầu nhà Lê vẫn dựa vào quy chế của
các triều đại Lý, Trần nhưng bộ máy nhà nước đó đã có một bước tiến về mức
độ tập trung chính quyền có ý nghĩa đặt nền móng vững chắc cho cả một triều
đại và nền độc lập phồn vinh của quốc gia Đại Việt trong 4 thế kỉ, tạo tiền đề
cho những bước đột phá giai đoạn sau. Bên cạnh đó, để củng cố tình hình chính
trị, ngay sau khi lên ngôi vua, Lê Lợi đã cùng các đại thần bàn định một số luật
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
lệ và lo đến lập pháp. Việc ban hành pháp luật đã góp phần ổn định chính trị, cơ


sở để bộ luật Hồng Đức của Lê Thánh Tông hình thành và hoàn chỉnh hơn.
Về kinh tế, nhà Lê sơ đã có sự phát triển nhanh chóng. Đất nước giải
phóng, chính trị bước đầu đi vào ổn định là những điều kiện cơ bản quan trọng
giúp nền kinh tế nhà Lê sơ phát triển. Chính sách trọng nông và những biện
pháp tích cực đối với nông nghiệp của nhà nước cùng với sự lao động sáng tạo,
cần cù của nhân dân đã làm cho nền nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi và
phát triển, đời sống nhân dân được ổn định. Bên cạnh đó, thủ công nghiệp và
thương nghiệp cũng có điều kiện phát triển. Sau này, nhân dân còn nhớ lại cuộc
sống thời ấy bằng sự ca ngợi:
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng, trâu chẳng buồn ăn”
Về văn hóa, giáo dục, giai đoạn đầu của nhà Lê sơ đạt nhiều thành tựu.
Đó là sự thịnh đạt của nền giáo dục - khoa cử, là sự phát triển của văn học, nghệ
thuật.
Việc củng cố đất nước trên cơ sở tập quyền và bước đầu đạt được nhiều
thành tựu trên tất cả các lĩnh vực là những điều kiện thuận lợi để vua Lê Thánh
Tông tiếp nối các tiên đế trong sự nghiệp đưa Đại Việt phát triển đến đỉnh cao.
2. Khó khăn
Bên cạnh việc được thừa hưởng những lợi thế đặc biệt của các tiên đế nhà
Lê thì Lê Thánh Tông cũng phải giải quyết những khó khăn mà các triều đại
trước chưa thực hiện được ngay sau khi ông lên ngôi. Đó là:
* Chế độ chính trị bước đầu suy thoái, thiếu ổn định
- Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước phân tán, quyền lực của nhà
nước chính quyền trung ương bị hạn chế
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn [1418 - 1427] thắng lợi. Năm 1428, Lê Lợi
lên ngôi Hoàng đế, bắt tay vào xây dựng chính quyền mới theo thiết chế cũ
của nhà Trần.
Đứng đầu triều đình là vua. Sau vua là chức Tả, Hữu tướng quốc kiểm

hiệu Bình chương quân quốc trọng sự, rồi đến các chức Tam Tư, Tam Thái,
Tam thiếu. Chức Thiếu úy được Lê Thái Tông đặt từ lúc còn khởi nghĩa, sau
khi dẹp yên giặc Minh mới đặt Thái Úy, cùng với chức Thái, ba chức Thiếu
đều là trọng trách của đại thần. Các trọng chức của đại thần văn võ chỉ trao
cho các thân thuộc nhà vua và bầy tôi có công. Dưới là hai ngạch văn ban, võ
ban. Văn ban có chức Đại hành khiển, đặt theo quan chế của nhà Trần. Dưới
Đại hành khiển là Thượng thư đứng đầu bộ, bấy giờ mới chỉ có ba bộ: Bộ Lại,
Bộ Lễ và Bộ Hộ. Bên cạnh đó có một số cơ quan chuyên trách như: Nội mật
viện [hoặc Khu mật viện], Ngũ hình viện, Bí thử giám, Ngự sử đài, Hàn lâm
viện, Quốc tử giám…Võ ban có các chức Đại Tổng quản, Đại đô đốc; Đô tổng
quản. Những chức này chỉ huy quân thường trực kinh thành và vệ quân ở các
đạo, dưới có các chức võ tướng cao cấp khác.
Ở địa phương, năm 1428, Thái Tổ chia lại nước làm 5 đạo: Đông, Tây,
Nam, Bắc [tương ứng với Bắc Bộ ngày nay] và Hải Tây [từ Thanh Hóa đến
Thuận Hóa]. Mỗi đạo do Hành khiển đứng đầu. Dưới đạo là Lộ do An Nam
phủ xứ đứng đầu như thời Trần. Các lộ về mặt quy mô không đồng đều. Dưới
Lộ là huyện, châu, xã. Đơn vị hành chính cơ sở là xã, gồm 3 loại: xã lớn 100
người trở lên, xã vừa 50 người trở lên và xã nhỏ 10 người trở lên.
Nhìn chung, tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến thời Lê Thái Tổ chủ
yếu vẫn dựa vào quy chế tổ chức của các triều đại trước. Thiết chế chính trị
như trên còn chưa chặt chẽ, chưa hoàn chỉnh, mang tính phân tán. Nhược điểm
này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV. Như vậy, trong hoàn cảnh mới,
thiết chế chính trị đó vẫn tiếp tục được duy trì đã không còn phù hợp với yêu
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
cầu phát triển của đất nước, của xu thế thời đại nên cải cách tất yếu phải diễn
ra. Và Lê Thánh Tông đã nhận thức được điều này.
* Chính quyền trung ương chưa vững mạnh, nội bộ vương triều mâu
thuẫn
Sau khi vua Lê Thái Tổ qua đời, các vua kế vị thường còn ít tuổi. Thái

Tông lên ngôi lúc 10 tuổi, Nhân Tông lên ngôi lúc 2 tuổi, không đủ khả năng
kiềm chế mâu thuẫn nội bộ, không chấm dứt được tình trạng giết hại nhau. Các
công thần lần lượt bị giết trong đó phải nói đến vụ án Lệ Chi Viên của Nguyễn
Trãi. Tình trạng quan lại lộng quyền, tham nhũng, ăn chơi xa hoa bộc lộ khá
phổ biến. Thực trạng đó càng làm cho nhà nước tập quyền suy yếu. Để xây
dựng một nhà nước quân chủ trung ương tập quyền vững mạnh đòi hỏi phải
tiến hành cải cách về thiết chế chính trị, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước và
hành chính từ trung ương đến địa phương, giải quyết mâu thuẫn giữa tập trung
và phân tán.
* Cơ cấu kinh tế - xã hội phát triển chưa vững chắc
Suốt một thời gian dài từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, xã hội phong kiến
nước ta luôn chịu sự tác động và ít nhiều mang đặc trưng của phương thức sản
xuất châu Á, trong đó có đặc trưng về ruộng đất công làng xã. Các làng xã
mang nặng tính tự trị, tự quản, vẫn trực tiếp nắm quyền quản lý và phân chia
ruộng đất công theo luật tục của làng, mặc dù phải chịu dưới quyền sở hữu của
nhà nước. Nhà nước Lê sơ từ Lê Thái Tổ đến Lê Nghi Dân [1428 -1460], tuy
đã thực hiện được một số biện pháp và chính sách nhằm xác lập quyền sở hữu
tối cao của Nhà nước về ruộng đất vẫn chưa hoàn toàn được xác lập. Quan hệ
sản xuất địa chủ - nông dân lệ thuộc vẫn chưa trở thành quan hệ kinh tế chủ
đạo thống trị trong xã hội. Do đó, chế độ quân chủ quan liêu vẫn chưa có cơ sở
vững chắc để được xác lập. Để hoàn thành quá trình phong kiến hóa, để xây
dựng một nhà nước tập quyền mạnh đặt cơ sở vững chắc cho sự thống nhất
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
quốc gia thì rõ ràng phải tiến hành những chính sách và biện pháp cải cách
không chỉ trong lĩnh vực chính trị, chính quyền mà cả trong lĩnh vực kinh tế,
xã hội.
Như vậy, đến năm 1460, Lê Thánh Tông lên ngôi kế thừa những thành
tựu của triều đại trước, có những điều kiện mới để xây dựng đất nước, song
cũng đứng trước những khó khăn, thử thách và có nguy cơ đưa xã hội đi vào

khủng hoảng như cuối thời nhà Trần. Dựa vào điều kiện thuận lợi và khó khăn
của đất nước ở thế kỉ XV, có thế nói với tư chất thông minh, quyết đoán, Lê
Thành Tông đã lấy đó là cơ sở để đưa ra và thực hiện những cải cách đúng đắn
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - giáo dục nhằm đưa đất
nước Đại Việt đạt được sự phát triển rực rỡ về mọi mặt.
II. Nội dung cải cách
1. Cải cách hành chính
Vào những năm 60 khi đất nước đã ổn định, vua Lê Thánh Tông khi mới
lên ngôi đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính lớn từ trung ương đến địa
phương nhằm “cốt để cho lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng kiềm
chế nhau, uy quyền không bị lạm dụng, lẽ phải không bị lung lay khiến mọi
người có thói quen theo đạo, giữ phép không có lầm lỗi làm trái nghĩa, phàm
hình, để theo trọn cái trí của Thái Tổ, Thái Tông ta mà giữ được trị an lâu dài”.
Lê Thánh Tông trước tiên bãi bỏ các quan chức và cơ quan trung gian
giữa vua và bộ phận thừa hành, đó là Thượng thư sảnh, Môn hạ sảnh, Khu mật
viện cùng các viên quan cao cấp nhất như Tướng quốc [Tể tướng], Đại hành
khiển, tả, hữu Bộc xạ… Vua trực tiếp nắm quyền kể cả quyển tổng chỉ huy quân
đội, chỉ đạo mọi công việc trọng yếu và làm việc trực tiếp với các cơ quan thừa
hành. Giúp vua bàn bạc và chỉ đạo công việc khi cần thiết có các đại thần như
Thái sư, Thái phó, Thái bảo, Thái Úy, Thiếu sư, Thiếu bảo…
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Tiếp đến, tách 6 bộ Lại, Lễ, Binh, Hình, Hộ, Công ra khỏi Thượng thư
sảnh lập thành 6 cơ quan riêng biệt phụ trách các mọi mặt công việc của triều
đình. Đứng đầu các bộ là chức Thượng thư chịu trách nhiệm trực tiếp với vua về
hoạt động của bộ mình phụ trách.
Lê Thánh Tông rất đề cao công tác thanh tra, giám sát quan lại. Hệ thống
tổ chức thanh tra, giám sát quan lại được tổ chức khá chặt chẽ từ triều đình đến
các địa phương. Ở trung ương, để tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt
động các quan lại ở 6 Bộ, ngoài Ngự sự đài đã có từ thời Trần, Lê Thánh Tông

đặt thêm 6 Khoa, mỗi Khoa chịu trách nhiệm theo dõi, giám sát hoạt động của
quan lại Bộ đó: “Bộ Lễ nghi thức không hợp thì Lễ khoa được phép đàn hặc. Bộ
Hộ thì có Hộ khoa giúp đỡ, khoa hình xét lại sự thẩm đoán của bộ Hình”…
Ở địa phương, năm 1466, Lê Thánh Tông bãi bỏ các đơn vị trung gian
lớn là 5 đạo, thống nhất cả nước chia làm 12 đạo thừa tuyên [Thanh Hóa, Nghệ
An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang,
Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn] và 1 phủ Trung Đô. Năm
1471, vua Lê Thánh Tông đặt thêm đạo thừa tuyên thứ 13 là Quảng Nam; dưới
đạo thừa tuyên là phủ, châu, huyện, xã. Bỏ đơn vị trấn và lộ, đổi lộ làm phủ,
trấn làm châu. Ở mỗi đạo thừa tuyên có Tam ti chuyên trách: Đô Tồng binh sứ
ty [Đô ty] phụ trách về quân sự Thừa tuyên sứ ti [Thừa ti] trông coi mặt dân
sự; Hiến sát sứ ti [Hiến ti] phụ trách công việc thanh tra, giám sát các quan lại
địa phương mình, thăm nom tình hình đời sống nhân dân. Các ti chịu trách
nhiệm trực tiếp trước triều đình theo hệ thống dọc.
Ngoài ra còn có Giám sát ngự sử ở 13 đạo, các cơ quan hà đê, khuyến
nông ti chuyên chăm lo đê điều và sản xuất nông nghiệp.
Dưới đạo là phủ. Các phủ có Tri phủ đứng đầu; các huyện, châu có Tri
huyện, Tri châu. Ở xã, chức xã quan được đổi gọi là Xã trưởng.
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Đơn vị hành chính xã cũng được Nhà nước quy định chặt chẽ và cụ thể:
Xã lớn [đại xã] có từ 500 hộ dân trở lên được bầu 5 xã trưởng; trung xã có từ
300 hộ đến dưới 500 hộ có 4 xã trưởng; xã nhỏ [tiểu xã] có 100 đến 300 hộ có 2
xã trưởng, dưới 60 hộ có 1 xã trưởng. Điều đó thể hiện vai trò của Nhà nước
cũng như mối quan hệ gắn kết giữa trung ương và địa phương.
Ở miền thượng du, các bản mường vẫn được giao cho tù trưởng, lang đạo
cai quản như cũ. Riêng mạn biên giới phía Bắc, nhà Lê cử thêm một số tướng
giỏi người miền xuôi lên trấn thị và biến thành “phiên thần” đời đời nối nhau
cai quản địa phương.
Như vậy hệ thống hành chính thời Lê Thánh Tông rất gọn gàng, rành

mạch, nhất quán, không chồng chéo lẫn nhau, đảm bảo tính thống nhất trong
chính quyền từ trên xuống. Nếu so sánh bộ máy hành chính với các triều vua
Lý, Trần thì hệ thống hành chính quốc gia thời Lê sơ đặc biệt là ở thời Lê
Thánh Tông đã thể hiện một bước tiến cơ bản – đạt đến đỉnh cao mô hình Nhà
nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Mọi quyền hành đều tập trung
trong tay vua. Hệ thống các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương
được xếp đặt rõ ràng, có phân công nhiệm vụ, quyền hành cụ thể, không dẫm
đạp lên nhau, có quan hệ rõ ràng theo chiều dọc, đảm bảo quyền lực của nhà
vua và sự thống nhất chính trị của cả nước.
2. Cải cách quân đội và củng cố quốc phòng
Cùng với quá trình xây dựng bộ máy chính quyền quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền, nhà Lê sơ cũng rất chú trọng tổ chức xây dựng và củng
cố lực lượng quốc phòng.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, đầu năm 1429 Lê Lợi
cho 25 vạn quân trở về làm ruộng, giữ lại 10 vạn quân thường trực. Số quân còn
lại chia làm 6 quân ngự tiền đóng ở kinh thành, có nhiệm vụ bảo vệ kinh đô và
cung điện nhà vua, và quân 5 đạo đóng giữ ở các địa phương. Trong số 10 vạn
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
quân, Lê Lợi chia làm 5 phiên, cứ lần lượt thay nhau về làm ruộng chỉ giữa lại
một phiên thường trực. Mỗi khi có việc dụng binh, nhà nước mới điều động
toàn bộ quân đội.
Đến năm 1466, toàn bộ hệ thống quân đội được Lê Thánh Tông tiến hành
cải tổ. Quân đội được chia làm 2 loại: quân thường trực bảo vệ kinh thành gọi là
cấm binh hay thân binh và quân ở các đạo gọi là ngoại binh. Về ngoại binh, Lê
Thánh Tông bỏ các đạo, chia binh làm 5 phủ, mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5
hoặc 6 sở. Sau này, Thánh Tông cho đặt thêm các vệ quân ở các đô ti xa.
Để tăng cường hiệu lực quốc phòng và sức mạnh quân đội, Lê Thánh
Tông cũng có sự cải cách về hành chính quân sự - quốc phòng. Binh chế nhà Lê
năm 1467 quy định quân số ở các đơn vị thống nhất như sau: mỗi ti gồm 100

người, mỗi sở gồm 400 người, chia làm 20 đội, mỗi đội 30 người. Nhà nước
thực hiện chính sách “ngụ binh ư nông” trong quân đội, nghĩa là quân đội được
chia thành 2 – 3 phiên, theo định kì một phiên túc trực làm nhiệm vụ và luyện
tập võ nghệ, còn lại về làm ruộng. Với cách tổ chức quân đội như vậy, nhà Lê
đã hình thành một cơ cấu tổ chức quân đội hoàn chỉnh, chặt chẽ, bao gồm quân
triều đình và quân địa phương, Nhà nước vừa có lực lượng quân đội thường trực
mạnh vừa có lực lượng dự bị đông đảo có thể điều động khi cần thiết.
Về chủng loại, quân đội nhà Lê gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị
binh. Ngoài ra còn có các đơn vị chuyên sử dụng một loại súng gọi là hỏa đồng.
Vũ khí đơn giản có đao, kiếm, giáo mác, cung tên,…
Nhà Lê rất chú ý đến rèn luyện quân đội. Hàng năm đều có ngày duyệt
tập ở kinh thành hay địa phương. Năm 1467, Thánh Tông quy định cứ 3 năm tổ
chức một kì thi khảo võ nghệ của quân sĩ và định lệ thưởng phạt.
Chế độ tuyển quân được quy định chặt chẽ, thông thường cứ một hộ có 3
đinh thì lấy 1 người làm lính, 1 người dự bị. Vì vậy tuy số lượng quân thường
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
trực không nhiều nhưng khi cần huy đông có thể tập hợp được 26 đến 30 vạn
quân.
Thời kì này quân đội đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của triều đình mà
người đứng đầu là nhà vua; các vương hầu quý tộc không có quyền tổ chức
những đội quân riêng như trước nữa; xu hướng tập trung quyền lực lớn ở triều
đình ngày một phát triển. Chế độ binh dịch xây dựng chính quy. Quân lính được
chia ruộng đất công của làng xã và được luân phiên về tham gia sản xuất, nhằm
đảm bảo nhân lực cho lao động, giảm bớt người thoát li sản xuất, đỡ phần chi
phí quân sự, bảo đảm cân đối giữa kinh tế và quốc phòng.
Trên cơ sở một đội quân mạnh, nhà Lê đã có chính sách biên giới rất
cương quyết. Với các nước láng giềng nhỏ bé ở phía Tây và Nam như Ai Lao,
Chân Lạp, mỗi lần xâm lấn bờ cõi đều lập tức bị đánh tan. Đối với nhà Minh ở
phía Bắc, nhà Lê thực hiện chính sách vừa mềm mỏng, khôn khéo nhưng cũng

rất kiên quyết nhằm giữ vững chủ quyền, giữ vững “thước núi, tấc sông” mà cha
ông để lại. Trong lời dụ của Lê Thánh Tông nêu rõ: “Một thước núi, một tấc
sông của ta lẽ nào tự tiện vứt bỏ được. Phải kiên quyết tranh luận không để họ
lấn dần,…nếu kẻ nào dám đem một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho
giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng”.
3. Hoàn chỉnh pháp luật
Ngay sau khi lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã rất chú ý đến việc xây dựng
pháp chế, ông nhận định rằng: “Từ xưa tới nay, trị nước phải có pháp luật,
không có pháp luật thì sẽ loạn”, nên vào năm 1428 ông đã “hạ lệnh cho các
quan Tư Không, Tư Đồ, Thiếu úy, Hành khiển bàn định pháp lệnh cai trị quân
dân, để người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng
để răn dạy quân dân biết là có pháp luật. Mọi công việc đều có các cơ quan
phụ trách riêng”. Qua các đời Thái Tông, Nhân Tông nhà nước đã xây dựng
thêm một số quy tắc, điều luật về kiện tụng, quyền thừa kế Đến thời vua
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Thánh Tông, năm 1483 vua sai triều thần tập hợp những điều lệ đã ban hành ở
các đời vua trước, tham khảo pháp luật đời Lý, Trần, pháp luật nhà Tùy, Đường,
Minh [của Trung Quốc] rồi căn cứ vào tình hình mới trong nước mà soạn ra bộ
luật mới. Đó là bộ luật Hồng Đức mà sau này được sửa chữa, bổ sung để lập
thành bộ Lê triều Hình luật.
Bộ luật gồm 722 điều, chia làm 6 quyển, gồm 16 chương bao nhất, gồm
những quy định về hình sự, dân sự, đất đai, hôn nhân, gia đình, về tố tụng và cả
những quy định luật hành chính, về hội hôn và điền sản. Bộ luật Hồng Đức tổng
hợp, điều chỉnh toàn bộ những quan hệ xã hội căn bản nhất, rường cột nhất tạo
nên cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của nhà Lê.
Nội dung cơ bản của bộ luật nhằm khẳng định và củng cố sự thắng lợi
của giai cấp địa chủ, trấn áp mọi hành động chống đối nhà nước phong kiến,
xâm phạm đến lợi ích của giai cấp thống trị.
Bộ luật bảo vệ quyền thống trị của nhà nước trung ương tập quyền.

Những hành động chống đối triều đình, chống đối lễ giáo phong kiến đều bị
ghép vào tội “thập ác” – 10 tội nghiêm trọng nhất bị xét xử không ân giảm đối
với bất kì trường hợp nào. Bộ luật cũng bảo vệ lợi ích của giai cấp phong kiến,
đặc quyền của tầng lớp quý tộc, đồng thời củng cố trật tự xã hội phong kiến, bảo
vệ chế độ gia tộc phụ quyền và các nguyên tắc về đạo đức phong kiến.
Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mĩ tục. Những nghi lễ về hôn
nhân, về trang phục đều được quy định chặt chẽ.
Trong Quốc triều hình luật có những điều luật nhằm bài trừ nạn tham
những, hối lộ, lãng phí, của công, ức hiếp dân lành và chú trọng phần nào đến
việc bảo vệ lợi ích của dân. Như điều 184 quy định: “Các quan tuy làm việc ở
ngoài nếu không biết làm việc lớn, trừ việc hại, để dân trăm họ phải phiêu bạt đi
nơi khác, hộ khẩu bị hao hụt và có trộm cướp tụ tập ở trong hạt thì xử tội bãi
chức hay tội đồ”.
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Bộ luật rất chú ý đến việc thống nhất các thành phần dân tộc của quốc gia
Đại Việt. Một số điều luật thể hiện sự chú ý của Nhà nước đối với các dân tộc ít
người ở miền núi, như điều 40 quy định: “Người miền thượng du cùng phạm tội
với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Người thượng du phạm tội với
người trung châu thì theo luật mà định”.
Bộ luật cũng có những điều bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ nhất là về
quyền lợi kinh tế. Con gái được hưởng quyền chia gia tài bình đẳng như con
trai, trong trường hợp gia đình không có con trai thì con gái được hưởng quyền
thừa kế hương hỏa [điều 390]. Hoặc về mặt hôn nhân, người con gái đã đính
hôn nhưng chưa làm lễ thành hôn mà người con trai bỗng mắc bệnh không thể
cứu chữa, hoặc phạm tội, hoặc phá sản thì người con gái được phép xin từ hôn
hoặc trả lại sính lễ. Những quy định nói trên nhằm bảo vệ quyền lợi của người
phụ nữ được ghi vào luật pháp thời Lê thể hiện tính dân tộc, sự tôn trọng người
phụ nữ, sự tiến bộ của luật pháp lúc bấy giờ.
Luật Hồng Đức đã đề cập hầu hết đến các hoạt động xã hội và mang tính

dân tộc sâu sắc. Bộ luật đánh dấu một trình độ phát triển cao của tư tưởng pháp
lý của dân tộc Đại Việt. Bộ luật biểu hiện rõ nét tính chất giai cấp và quyền lực
của nhà nước phong kiến đối với nhân dân, nhưng đây cũng là bộ luật tương đối
tiến bộ nhất trong thời đại phong kiến Việt Nam, mang đậm nét sáng tạo và tinh
thần thực tiễn của giai cấp phong kiến Việt Nam trong giai đoạn đi lên của nó.
Vì vậy nó đã được sử dụng trong suốt bốn thế kỉ [XV - XVIII].
Nhà sử học Phan Huy Chú coi pháp luật thời Lê như “mẫu mực để trị
nước, khuôn phép để buộc dân” [trong thời kì phong kiến]. Giáo sư
Oliveroldman, chủ nhiệm khoa luật Đông Á [Đại học Luật Haward] nhận xét:
“Bộ luật thời Lê của nước Việt Nam truyền thống là một công trình bất hủ của
vùng Đại Đông Á truyền thống… trong đó có nhiều điều đã có thể so sánh
ngang về mặt chức năng với những quan điểm pháp luật ở Phương Tây cận
đại”.
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
4. Cải cách kinh tế, phát triển nông nghiệp
Vua Lê Thánh Tông được đánh giá là một vị vua minh quân không chỉ
bởi ông đã tiến hành những cải cách vừa có lợi cho chính quyền của ông mà
những cải cách đó còn phát huy được tiềm năng của kinh tế nông nghiệp, góp
phần phát triển kinh tế của đất nước. Ngay sau khi lên ngôi, Thánh Tông đã ban
hành các chính sách phát triển kinh tế, đặc biệt với tư tưởng “trọng nông ức
thương”, thì ruộng đất trở thành vấn đề trung tâm của cải cách kinh tế. Các chế
độ ruộng đất tiếp tục được củng cố, hoàn thiện bởi những chính sách cải cách
phù hợp.
- Chế độ lộc điền với chính sách ban cấp ruộng lộc cho quý tộc, quan lại
Thời nhà Lê, chế độ lộc điền là đem ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà
nước ban cấp cho tầng lớp quan lại cao cấp. Chế độ được thi hành ngay từ thời
vua Lê Thái Tổ nhưng chưa trở thành quy chế. Đến thời vua Thánh Tông, chính
sách này mới được quy định và ban hành thống nhất trong cả nước.
Ruộng đất dùng để ban cấp chủ yếu gồm loại ruộng đất công làng xã.

Lộc điền gồm 2 loại: một loại cấp vĩnh viễn gọi là ruộng đất thế nghiệp, một
loại cấp tạm thời trong một đời, sau khi chết 3 năm phải hoàn trả lại cho nhà
nước. Theo quy định năm 1477, tổng diện tích ruộng đất cấp cho thân vương
là 2090 mẫu, trong đó có 640 mẫu cấp vĩnh viễn, tòng tứ phẩm được cấp 39
mẫu.
Chế độ lộc điền là hình thức ban cấp ruộng đất quy mô của nhà Lê nhằm
ưu đãi tầng lớp quý tộc quan lại cao cấp, biến họ trở thành những địa chủ lớn.
Chế độ này góp phần củng cố và phát triển chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất
cũng như góp phần xác lập quan hệ sản xuất địa chủ, tá điền và chế độ bóc lột địa
tô phù hợp với bước phát triển mới của chế độ sở hữu tư nhân lớn về ruộng đất và
của những quan hệ sản xuất phong kiến. Do đó, chế độ lộc điền đã đánh dấu một
bước tiến trong quá trình hình thành và xác lập chế độ phong kiến Việt Nam.
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
- Chính sách quân điền đối với ruộng đất công làng xã.
Cũng như chính sách lộc điền, chính sách quân điền đã được thực ngay từ
những triều vua đầu tiên của nhà Lê sơ. Đến đời vua Thánh Tông từ năm 1477,
chính sách quân điền mới được chính thức ban hành và từ năm 1481, đã thực
hiện thống nhất trên quy mô cả nước theo nguyên tắc:
+ Tất cả mọi người từ quan tam phẩm đến cô nhi quả phụ đều được chia
ruộng công. Những gia đình nông dân thường đã có ruộng đất riêng đầy đủ thì
không được cấp
+ Ruộng xã nào chia cho dân xã ấy, xã nào ruộng quá nhiều, người ít thì
cho phép lấy bớt ruộng xã nhiều chia cho xã bên cạnh ruộng ít, người nhiều.
+ Dân trong xã tùy theo thứ hạng được cấp phần ruộng đất khác nhau.
Quan tam phẩm được 11 phần, ngũ phẩm được 9,5 phần… Cô nhi, quả phụ được
3 phần.
+ Ruộng công làng xã cứ 6 năm chia lại một lần. Mọi người cày cấy ruộng
công đều phải nộp tô cho nhà nước. Riêng quan tứ phẩm trở lên do lộc điền ít nên
không phải nộp tô.

Chính sách quân điền là một đòn tấn công mạnh mẽ nhằm phủ định quyền
chi phối ruộng đất công của làng xã theo tục lệ, buộc làng xã phải tuân thủ những
nguyên tắc quy định về phân chia và hưởng thụ bộ phận ruộng đất công theo quy
định của nhà nước. Trên nguyên tắc, ruộng đất công làng xã không được đem
mua bán, chuyển nhượng, quyền đó thuộc nhà nước trung ương, nhà vua.
Nhà nước trung ương, nhà vua với chính sách quân điền đã trở thành người
chủ lớn nhất trong cả nước và nông dân làng xã trở thành tá điền của nhà nước,
làng xã rơi xuống địa vị là người quản lý ruộng đất cho nhà nước trung ương và
nhà vua. Như vậy, chính sách quân điền cũng đã góp phần quan trọng vào việc
xác lập và thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến – quan hệ sản xuất
địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỉ XV. Tuy nhiên, chính sách này còn chứa
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
đựng sâu sắc tính giai cấp và bộc lộ những hạn chế khi chính nó lại là nguyên
nhân làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa nhà nước phong kiến với nông dân. Chính
sách quân điền của Lê Thành Tông đã trói buộc người nông dân vào ruộng đất để
bóc lột thuế và chịu mọi gánh nặng sưu dịch của nhà nước trong điều kiện nền
kinh tế hàng hóa đang có điều kiện thuận lợi và chế độ tư hữu đang ngày càng
thắng thế.
- Chính sách khẩn hoang và lập đồn điền
Bên cạnh việc củng cố các chế độ ruộng đất, nhà Lê ngay từ rất sớm còn
đưa ra những chính sách khuyến khích nông dân các làng xã khai hoang lập
làng để phục hồi nền kinh tế nông nghiệp, đặc biệt thời vua Lê Thánh Tông.
Điều 349 trong bộ luật Hồng Đức quy định việc khai hoang, khai thác hết diện
tích cày cấy thành pháp lệnh của nhà nước.
Ngoài ra, Lê Thánh Tông còn đẩy mạnh việc khai hoang lập đồn điền.
Chính sách này được bắt đầu thi hành từ thời Thái Tổ và được mở rộng dưới
thời Thánh Tông. Chỉ dụ năm 1481 nêu rõ mục đích lập đồn điền của nhà nước
“để khai thác hết sức nông nghiệp, mở rộng nguồn súc tích cho nước”. Lực
lượng được huy động bao gồm cả quân lính đồn trú, tù binh, tội nhân. Nhà nước

đặt ra cơ quan chuyên trách công việc khai hoang, lập đồn điền do các chức
quan chánh, phó sứ đồn điền phụ trách. Các quan có nhiệm vụ mộ dân nghèo
không ruộng lưu tán đến đây khai hoang và phân chia ruộng đất cho họ cày cấy.
- Chính sách phát triển nông nghiệp.
Để phát triển nông nghiệp, Lê Thành Tông còn đưa ra nhiều chính sách.
Trước tiên là chính sách tăng cường sức sản xuất. Nhằm tăng cường sức lao động
cho nông nghiệp vào vụ cần kíp, Lê Thánh Tông không chỉ cho quân đội được
thay phiên nhau về làm ruộng mà còn huy động cả các lực lượng “phi nông
nghiệp” khác như lực lượng thợ bách tác cho mùa vụ. Những việc xây dựng, tu
sửa không được huy động sức dân vào lúc đương mùa vụ. Thậm chí thời Lê còn
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
quy định chỉ cho phép chuộc ruộng vào các tháng 3, tháng 6 là những tháng rỗi
rãi. Nếu giữa kì làm ruộng mà cưỡng đòi chuộc thì theo luật, người vi phạm bị
đánh 80 trượng và bị tội đồ.
Nhà Lê rất chăm lo đến thủy lợi, đê điều. Các thừa tuyên đều có chức
quan hà đê chuyên phối hợp với các quan phủ, huyện trông nom, sửa đắp đê
điều. Năm 1498, mỗi xã phải cử một xã trưởng chuyên trách việc đê điều và
khuyến nông. Trường hợp đê vỡ, triều đình lập tức cử quan đi khám xét, huy
động nhân dân, quân lính, công tượng, học sinh Quốc tử giám đi sửa đắp, cứu
hộ. Việc đào kênh, khơi ngòi được tổ chức.
Ngoài ra, nhà nước còn quy định mọi công trình xây dựng cần điều động
dân phu đều phải tiến hành ngoài thời vụ cày cấy, gặt mùa, “hễ công việc gì có
hại cho nghề nông thì không được khinh động sức dân”. Pháp luật nhà Lê bảo
vệ chặt chẽ sức kéo trong nông nghiệp. Tội ăn trộm trâu bò bị trừng phạt nặng.
Năm 1489, Thánh Tông ra lệnh cấm giết trâu bò ban đêm.
5. Cải cách về văn hóa, giáo dục
Cùng với việc xây dựng thiết chế mới, Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển
giáo dục, đào tạo nhân tài.
Năm 1462, vua Thánh Tông đặt lệ “Bảo kết thi hương” quy định rõ thủ

tục giấy tờ của những người ứng thí. Sau đó cứ 3 năm, nhà nước mở 1 kì thi.
Vua khuyến khích việc học tập thi cử bằng cách đặt lệ xướng danh, treo bảng,
ban áo mũ, phẩm tước, dựng bia tiến sĩ và lệ vinh quy bái tổ. Những biện pháp
nói trên đã góp phần quan trọng phát triển giáo dục trong nước.
Vua Thánh Tông cho xây dựng lại Văn Miếu, mở rộng Thái học viện,
làm kho Bí thư để chứa sách, mở thêm Tú lâm cục và Sùng văn quán để bồi
dưỡng con em quý tộc, quan lại cao cấp… Nội dung học tập được quy định đầy
đủ rõ ràng, các học quan được tuyển chọn cẩn thận. Nhờ đó, việc học do nhà
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
nước tổ chức được đẩy mạnh, đồng thời việc học trong dân gian do tư nhân mở
trường cũng được khuyến kích phát triển
Bên cạnh sự phát triển về giáo dục, Lê Thánh Tông còn có đóng góp nhất
định đối với nền văn hóa Đại Việt thế kỉ XV. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô
Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư
hạ là những giá trị văn hóa tiêu biểu của triều đại Lê Thánh Tông. Nói tới công
lao của ông đối với nền văn hóa dân tộc, không thể không kể đến việc ông hủy
án, minh oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm lại thơ văn Nguyễn Trãi đã bị tiêu
hủy. Chính Lê Thánh Tông đã cho tạc bia về Nguyễn Trãi: "Ức Trai tâm
thượng quang khuê tảo" [Tấm lòng Ức Trai sáng tựa sao Khuê]. Lê Thánh Tông
còn tự lập ra hội Tao Đần gồm 28 ông Tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó gọi
là “Tao Đàn nhị thập bát tú”.
Về tư tưởng, tôn giáo, thời Lê sơ đã đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn. Vua
Lê Thánh Tông đã đưa các giáo lý nhà Nho vào các huấn điều trong bản 24
huấn điều của Lê Thánh Tông. Những quy định khắt khe của Nho giáo cũng
được đưa vào luật Hồng Đức. Còn đối với Đạo giáo và Phật giáo, ông thi hành
chính sách chặt chẽ hơn. Năm 1461, nhà nước cấm quan lại, nhân dân không
được xây thêm chùa quán mới, không được tự tiện đúc chuông, tô tượng. Hoạt
động của bọn thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ bị ngăn cấm.
Có thể xem thời Lê sơ, đặc biệt là triều vua Lê Thánh Tông đã có nhiều

đóng góp tiến bộ cho nền văn hóa và giáo dục thi cử phong kiến đương thời.
III. Tác dụng của cuộc cải cách đối với xã hội Việt Nam thế kỉ XV –
XVI
1. Hoàn chỉnh bộ máy nhà nước, ổn định chính trị
Hệ thống hành chính thời Lê Thánh Tông thể hiện được tính chất tập
trung từ dưới lên trên, từ địa phương đến trung ương, đề cao quyền hành toàn
diện của người đứng đầu nhà nước. Điều này rất quan trọng với một quốc gia
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
thống nhất trên cơ sở nông nghiệp, kinh tế hàng hóa chưa phát triển, giao thông
liên lạc còn khó khăn. Đồng thời nó cũng thể hiện mong muốn của người cải
cách: “Các chức lớn nhỏ cùng ràng buộc nhau, nặng nhẹ cùng giữ gìn nhau, lẽ
phải của nước không bị chuyện riêng, việc lớn của nước không đến lung lay,
khiến mọi người có thói quen tốt làm hợp đạo đúng phép”.
2. Phát triển kinh tế
Các chế độ ruộng đất dưới thời Lê Thánh Tông đã góp phần quan trọng
vào sự xác lập và thống trị của những quan hệ sản xuất phong kiến: quan hệ sản
xuất địa chủ - tá điền trong xã hội ở thế kỉ XV, khẳng định sự sở hữu nhà nước
về ruộng đất Những chính sách này còn có tác dụng giải quyết vấn đề ruộng đất,
tạo đà cho nền nông nghiệp phát triển.
Ngoài ra, nhờ những biện pháp phát triển kinh tế, cho đến nửa sau thế kỉ
XV, diện tích ruộng đất khai hoang đã được khôi phục, diện tích sản xuất tăng
lên, ngân khố nhà nước vì thế cũng được tăng thêm. Những chính sách đó cũng
góp phần là gia tăng bộ phận nông dân tư hữu, tự do điều hòa mâu thuẫn giai
cấp, ổn định xã hội, phát triển kinh tế.
Bên cạnh mặt tích cực, những chính sách kinh tế cũng bộc lộ những hạn
chế như coi trọng nông nghiệp, chưa chú trọng phát triển thủ công nghiệp,
thương nghiệp, hạn chế phát triển kinh tế hàng hóa. Và ngay trong chính sách
quân điền cũng thể hiện hạn chế của nó khi ràng buộc người nông dân vào
ruộng đất để thu thuế, ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội.

3. Văn hóa, giáo dục
Với những chính sách về giáo dục – khoa cử, Lê Thánh Tông đã phần nào
tạo ra một hệ thống quan lại trí thức có tài, đủ năng lực quản lí đất nước. Và
những đóng góp của Lê Thánh Tông trong lĩnh vực văn hóa, giáo dục đã góp
phần làm phong phú hơn kho tàng văn hóa Đại Việt nói riêng và văn hóa dân
tộc Việt Nam nói chung.
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận hạn chế của chính sách văn hóa
do Lê Thánh Tông đưa ra trong việc độc tôn Nho giáo, hạn chế Phật giáo. Đây
là nguyên nhân gây nên những mâu thuẫn trong giới những người theo đạo, là
một trong những mầm mống gây nên sự bất ổn định về xã hội.
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
Việc giảng dạy chuyên đề và phương pháp dạy chuyên đề đang là vấn đề
được quan tâm hiện nay tại các trường chuyên, nhất là đối với bộ môn Lịch sử.
Với đặc thù kiến thức lịch sử bao gồm nhiều yếu tố: sự kiện lịch sử, các niên
đại, địa danh, nhân vật lịch sử, các biểu tượng, khái niệm lịch sử, các quy luật,
… Do đó phương pháp giảng dạy chuyên đề lịch sử phải đáp ứng được mục tiêu
bài học, kiến thức chuyên môn và phát huy được tính tích cực của học sinh.
Thực tế cho thấy không có một phương pháp dạy học nào là toàn năng có thể
phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học. Mỗi phương pháp và hình thức
dạy học đều có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc sử
dụng nhuần nhuyễn các phương pháp giảng dạy và việc phối hợp đa dạng các
phương pháp, hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình là phương hướng quan
trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học.
Nhận thức được sự quan trọng trong việc sử dụng các phương pháp dạy
học phù hợp với đặc thù bộ môn và với từng kiến thức chuyên đề, trong quá
trình giảng dạy chúng tôi cũng đã sử dụng khéo léo các phương pháp dạy học
truyền thống và đổi mới phương pháp – sử dụng các phương pháp dạy học mới.
Với tuổi đời và tuổi nghề còn non trẻ, chúng tôi xin mạnh dạn đề xuất một số

phương pháp dạy học chuyên đề “Cải cách Lê Thánh Tông – nhân tố quyết
định dẫn tới sự hưng thịnh của triều đại Lê sơ thế kỉ XV” như sau:
1. Phương pháp sử dụng sách giáo khoa và các tài liệu học tập khác
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Nhằm nâng cao hiệu quả học tập chuyên đề, trước khi bắt đầu chuyên đề,
chúng tôi đã giới thiệu và cung cấp cho học sinh một số tài liệu học tập cơ bản
như:
1. Sách giáo khoa Lịch sử 10 nâng cao – Nhà xuất bản Giáo dục
2. Đại cương Lịch sử Việt Nam tập I – Nhà xuất bản Giáo dục
3. Một số chuyên đề lịch sử Việt Nam – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
Hà Nội
Sách giáo khoa là tài liệu cơ bản, bắt buộc trong học tập của học sinh, bên
cạnh đó với học sinh học chuyên, ngoài sách giáo khoa các em còn được tiếp
cận với các sách chuyên ngành nâng cao. Đó là phương tiện cơ bản để các em
tiếp thu kiến thức. Do đó, trong mỗi chuyên đề chúng tôi luôn có sự định hướng
tài liệu học tập cho các em [phần lớn là những tài liệu phù hợp với nội dung học
rập và khả năng nhận thức của học sinh] và hướng dẫn các em một số phương
pháp sử dụng tài liệu có hiệu quả như:
- Hướng dẫn học sinh xác định kiến thức cơ bản trong bài viết của sách
giáo khoa, và tư liệu.
- Trình bày kiến thức lĩnh hội được từ sách giáo khoa thông qua tóm tắt,
lập sơ đồ, bảng niên biểu
- Gạch chân các thuật ngữ lịch sử khó hiểu, những vấn đề cần thắc mắc.
Trên cơ sở đó, giáo viên vừa kiểm tra được nhận thức của học sinh qua
các câu hỏi vấn đáp, đàm thoại, các bài tập làm nhanh trên lớp, hoặc làm việc
nhóm.
Cụ thể: Chúng tôi yêu cầu học sinh khai thác kiến thức sách giáo khoa
phần nội dung cải cách hành chính để các em điền thông tin vào khung sơ đồ
trống tổ chức bộ máy nhà nước thời vua Lê Thánh Tông. Hoặc chúng tôi yêu

cầu học sinh xác định các từ “chốt”, từ “khóa” cơ bản trong mỗi nội dung cuộc
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
cải cách của vua Lê Thánh Tông như: về hành chính đó là chế độ quân chủ
chuyên chế trung ương tập quyền đạt đến đỉnh cao, về luật pháp là: đề cập đến
các mặt hoạt động xã hội và mang tính dân tộc sâu sắc,…
2. Phương pháp dạy học nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư
duy, khả năng nhận biết và giải quyết vấn. Học sinh được đặt trong một tình
huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nhận thức, thông qua
việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kĩ năng và phương pháp
nhận thức. Dạy học nêu vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích cực
nhận thức của học sinh. Vì vậy, phương pháp này được sử dụng thưởng xuyên
trong dạy học lịch sử.
Cụ thể: Chúng tôi nêu vấn đề để học sinh cùng thảo luận về cuộc cải
cách hành chính của Lê Thánh Tông: Các học giả nước ngoài cho rằng hệ
thống hành chính quốc gia thời Lê Thánh Tông rập khuôn mô hình nhà Minh
Trung Quốc, không có gì mới và đặc sắc. Liệu ý kiến đó có đúng hay không?
Với vấn đề được đưa ra chúng tôi đã định hướng cho học sinh qua 3 bước:
Bước 1: Nhận biết vấn đề: hệ thống hành chính quốc gia thời Lê Thánh
Tông rập khuôn mô hình nhà Minh Trung Quốc, không có gì mới và đặc sắc.
Bước 2: Tìm các phương án giải quyết
Bước 3: Quyết định phương án giải quyết.
Trong dạy học nêu vấn đề giáo viên nên là người định hướng, hỗ trợ học
sinh nhận thức vấn đề và giải quyết vấn đề dựa trên kiến thức đã được học một
cách linh hoạt, còn bản thân học sinh mới là người chủ động trong việc giải
quyết vấn đề.
Để giải quyết được vấn đề chúng tôi đưa ra, học sinh cần có các nhiệm vụ
sau: Thứ nhất, đọc tài liệu, tìm hiểu vấn đề. Khi tiếp xúc với các tài liệu khác
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm

C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
nhau, học sinh phát huy được vai trò chủ thể nhận thức trong quá trình học tập;
thứ hai, viết dàn ý kết quả giải quyết vấn đề. Đây là công việc cần được học
sinh thực hiện sau khi nghiên cứu tài liệu, dàn ý lập ra thể hiện tư duy nhận thức
của học sinh; thứ ba, trình bày kết quả; thứ tư, trao đổi, thảo luận và bổ sung
kiến thức cho nhau.
Trong quá trình học sinh thảo luận, chúng tôi luôn là người định hướng
để học sinh tự bóc tách từng vấn đề. Trong đó ở nội dung cơ bản, chúng tôi định
hướng cho học sinh nhận thức được vấn đề sau: Trong cuộc cải cách hành chính
của Lê Thánh Tông, chúng ta không phủ nhận việc Lê Thánh Tông mô phỏng
bộ máy hành chính của nhà Minh. Tuy nhiên khi so sánh cụ thể các cơ quan
hành chính của hai bên, ta thấy Lê Thánh Tông rất ý thức về sự sáng tạo và tính
dân tộc của mình. Ở Trung ương, Lê Thánh Tông không đặt nội các như nhà
Minh, ở địa phương Lê Thánh Tông thay Án sát ti bằng Hiến sát sứ ti có chức
năng khác hẳn. Những việc làm của Lê Thánh Tông không những đa dạng hơn
mà còn mang tính dân tộc rất sâu sắc. Mặc dù có học tập mô hình nhà Minh
nhưng cần khẳng định tính sáng tạo, tự chủ, dân tộc của nhà nước quân chủ thời
Lê Thánh Tông. Nó thể hiện sự tập trung từ dưới lên, từ địa phương đến trung
ương, đề cao quyền hành toàn diện của người đứng đầu nhà nước. Những ưu
điểm trên của hệ thống hành chính thời Lê sơ khiến nó được duy trì hơn bốn thế
kỉ.
3. Phương pháp đàm thoại
Đàm thoại là phương pháp hỏi – đáp nằm trong nhóm phương pháp góp
phần phát huy tư duy độc lập của học sinh trong dạy học [còn gọi là phương
pháp vấn đáp, đối thoại]. Phương pháp này là một trong những phương pháp
được sử dụng thường xuyên trong dạy học lịch sử. Nó rất có ưu thế trong việc
hình thành kiến thức trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập, tích cực của học sinh
đồng thời tạo nên không khí sôi nổi, hào hứng giúp học sinh lĩnh hội kiến thức
sâu sắc và bền vững.
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm

C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Trong thực tế dạy học ở trường phổ thông hiện nay có nhiều hình thức
trao đổi, thường có các dạng đàm thoại phổ biến sau: Đàm thoại mở đầu, tái
hiện; đàm thoại phân tích và khái quát; đàm thoại tìm tòi phát hiện; đàm thoại
ôn tập, tổng kết.
Để sử dụng có hiệu quả cao, trong quá trình dạy học cần chú ý những vấn
đề sau:
+ Việc đặt câu hỏi trong đàm thoại có ý nghĩa rất quan trọng, vì vậy phải
xây dựng hệ thống câu hỏi chính có những câu hỏi phụ để gợi ý khi cần thiết
+ Khi đặt câu hỏi cho toàn lớp, cần chú ý thu hút sự tập trung của từng
học sinh và câu hỏi phải vừa sức
+ Có thể phối hợp với các phương pháp khác như thuyết trình
Cụ thể: Khi dạy Mục II/4. Cải cách kinh tế, phát triển nông nghiệp, phần
Chính sách quân điền đối với ruộng đất công làng xã, để học sinh hiểu được tác
dụng và hạn chế của chính sách này, chúng tôi sử dụng phương pháp vấn đáp là
chủ yếu [trọng tâm sử dụng loại vấn đáp phân tích và khái quát], kết hợp với
phương pháp thuyết trình.
Sau khi sử dụng phương pháp thuyết trình để trình bày các nguyên tắc
của chính sách này, chúng tôi đưa ra hệ thống câu hỏi chính, phụ phù hợp với
cấp độ nhận thức của học sinh:
- Câu hỏi chính: Qua những nguyên tắc của chính sách quân điền, em có
nhận xét gì về chính sách này?
- Câu hỏi phụ, gợi ý:
+ Những nguyên tắc đó thể hiện điều gì?
+ Chính sách quân điền có tác dụng và hạn chế gì đối với sự thống trị
của nhà nước phong kiến Đại Việt?
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Sau đó, chúng tôi đưa ra kết luận nhằm làm rõ tác động của chính sách
quân điền của Lê Thánh Tông đối với sự phát triển của đất nước.

Hệ thống câu hỏi trên giúp phân hóa kiến thức, giúp học sinh nhận thức
được đâu là câu hỏi chung, câu hỏi gợi mở để giải quyết vấn đề về tác dụng
của chính sách quân điền và góp phần phát huy tính tích cực của học sinh.
4. Phương pháp thuyết trình
Phương pháp thuyết trình là phương pháp giáo viên dùng lời để trình bài,
giải thích, thông báo thông tin của bài học. Đây là phương pháp đã được sử
dụng lâu đời nhất trong lịch sử dạy học.
Phương pháp này giúp học sinh nắm vững tri thức một cách có hệ thống;
phát triển được tư duy trừu tượng cho học sinh; giáo viên có thể chủ động và
tiết kiệm về thời gian; nều sử dụng khéo léo kết hợp với nêu vấn đề thì có thể
phát huy được tính tích cực, độc lập suy nghĩ của học sinh
Để nâng cao hiệu quả của phương pháp cần chú ý những vấn đề cơ bản
sau đây:
+ Nội dung thuyết trình cần được chọn lọc, tránh lan man, tuỳ tiện.
+ Ngôn ngữ rõ ràng, chính xác, dễ hiểu, gợi cảm, có sức hấp dẫn.
+ Nên hướng dẫn trước cho học sinh ghi chép, kết hợp với nghe và suy
nghĩ.
+ Kết hợp với các phương pháp khác.
Cụ thể: Để dạy mục I/2. Khó khăn, phần Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước phân tán, quyền lực của nhà nước chính quyền trung ương bị hạn
chế, chúng tôi sử dụng phương pháp thuyết trình là chủ yếu, kết hợp với
phương pháp đàm thoại [vấn đáp].
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Trước tiên, chúng tôi đặt vấn đề để học sinh hiểu được nội dung chính:
Bộ máy nhà nước giai đoạn đầu thời Lê Sơ mang nhiều đặc điểm của nhà
Trần. Vậy theo em bộ máy nhà nước thời Lê Sơ giai đoạn đầu có đặc điểm gì?
Sau đó, chúng tôi trình bày tổ chức bộ máy chính quyền trung ương và
địa phương của các triều vua đầu nhà Lê, rồi chốt lại: Tổ chức bộ máy nhà
nước thời Lê Thái Tổ chủ yếu vẫn dựa vào quy chế tổ chức của các triều đại

trước. Thiết chế chính trị như trên rõ ràng chưa chặt chẽ, chưa hoàn chỉnh,
mang tính phân tán. Nhược điểm này đã bộc lộ ngay từ nửa sau thế kỷ XIV với
sự sụp đổ của nhà Trần.
5. Phương pháp sử dụng sơ đồ
Sơ đồ nhằm cụ thể hóa nội dung sự kiện bằng những mô hình, hình học
đơn giản, diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị, mối quan hệ
giữa các sự kiện lịch sử Xây dựng sơ đồ, mô hình hóa nội dung học tập chính
là kết nối các sự kiện lịch sử với nhau theo logic phát triển bên trong của các
kiến thức lịch sử. Việc sử dụng sơ đồ hóa kiến thức trong dạy học lịch sử có tác
dụng rất quan trọng trong việc giúp học sinh tiếp thu nhanh kiến thức, dễ nhớ và
dễ hiểu.
Cụ thể: Để dạy phần xây dựng và củng cố chính quyền, chúng tôi cung
cấp sơ đồ trống về tổ chức bộ máy Nhà nước thời Lê Thánh Tông, yêu cầu học
sinh đọc sách, điền thông tin kiến thức vào sơ đồ trống. Việc sử dụng sơ đồ tổ
chức bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tông có hai tác dụng cơ bản: thứ nhất,
định hình kiến thức cho học sinh, hiểu được “khung sườn” cơ bản của bộ máy
nhà nước từ trung ương đến địa phương dưới cuộc cải cách của Lê Thánh Tông;
thứ hai: học sinh là người tích cực chủ động trong việc tự hình thành kiến thức
và hoàn thiện kiến thức, còn giáo viên đóng vai trò là người hỗ trợ, định hướng
cho học sinh
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm
C ẢI CÁCH CỦA LÊ THÁNH TÔNG
Để học sinh hiểu sâu kiến thức, chúng tôi cung cấp sơ đồ tổ chức bộ máy
nhà nước thời Lý – Trần, yêu cầu học sinh quan sát, so sánh hai tổ chức bộ máy
nhà nước, trên cơ sở đó rút ra được kết luận về sự khác biệt và tiến bộ trong
cuộc cải cách của Lê Thánh Tông: Nếu so với những triều vua thời Lý – Trần,
hệ thống hành chính quốc gia thời Lê sơ đặc biệt ở thời Lê Thánh Tông đã thể
hiện một bước tiến cơ bản. Và có thể nói nó đã đạt đến đỉnh cao của mô hình
nhà nước quân chủ chuyên chế quan liêu tập quyền. Quyền lực tuyệt đối nằm
trong tay vua, các chức quan trung gian như Thừa Tướng, Đại hành khiển đều bị

bãi bỏ, 6 bộ được thành lập và chịu trách nhiệm trước vua, vua trực tiếp nắm
mọi quyền hành. Dù tính chuyên chế tăng cường lên nhưng không vì thế mà vua
bỏ quan hay không cần đến sự góp ý của các đại thần. Hệ thống cơ quan hành
chính được sắp xếp rõ ràng, có sự phân công nhiệm vụ. Trong 6 bộ, thì bộ Lại
//123doc.org/trang-ca-nhan-165450-nguyen-van-chuyen.htm

Cải cách tại cấp đạo của vua Lê Thánh Tông và một số bài học kinh nghiệm

Ngày đăng: 30/10/2015 03:14
Mặc định Cỡ chữ

Cải tổ hệ thống chính quyền địa phương luôn là vấn đề được các triều đại phong kiến Việt Nam quan tâm. Song, công cuộc cải tổ hệ thống chính quyền địa phương dưới triều vua Lê Thánh Tông được coi là thành công nhất. Với phương châm không dàn trải, bên cạnh cấp xã, vua Lê Thánh Tông đặc biệt chú trọng cải tổ cấp đạo, đó là cấp đơn vị hành chính địa phương cao nhất - nơi trực tiếp chịu sự chỉ đạo của chính quyền trung ương. Chính quyền cấp đạo thời vua Lê Thánh Tông đã đạt tới sự hoàn thiện về tổ chức, hiệu quả trong hoạt động. Nghiên cứu cải cách ở cấp đạo để tìm ra những hạt nhân hợp lý phục vụ cho công cuộc cải cách hệ thống chính quyền địa phương hiện nay là việc làm cần thiết.

Ảnh minh họa: internet
1. Những cải cách tại cấp đạo của vua Lê Thánh Tông
1.1. Nguyên nhân dẫn tới chú trọng cải cách ở cấp đạo
Đăng cơ sau chính biến cung đình, vua Lê Thánh Tông trị vì 38 năm [1460 - 1497], luôn đeo đuổi mục tiêu xây dựng bộ máy nhà nước theo mô hình tập quyền chuyên chế. Sự tập trung quyền lực cao độ vào nhà vua không chỉ ngăn chặn cảnh tranh giành ngôi báu giữa những người cùng huyết tộc mà còn giúp dân tộc có cơ sở chống nguy cơ tái Bắc thuộc, thực hiện tốt hơn chức năng trị thủy ổn định đời sống nhân dân. Để thâu tóm quyền lực, vua Lê Thánh Tông tiến hành cải tổ toàn bộ bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương. Ngoài cấp xã tại địa phương, ông đặc biệt chú trọng cải cách ở cấp đạo bởi hai nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, phần lớn chính sách của nhà nước trung ương đều bắt đầu triển khai từ cấp đạo. Nếu chính quyền cấp đạo không hoạt động hiệu quả thì chính sách của nhà nước chỉ dừng lại trên văn bản.
Thứ hai, đơn vị hành chính cấp đạo trước thời vua Lê Thánh Tông còn nhiều điểm bất cập:
- Địa dư hành chính rộng: theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, cương vực của nước Đại Việt vào giai đoạn ấy được chia thành 5 đạo: Đông đạo, Bắc đạo, Tây đạo, Nam đạo và Hải Tây đạo đã tạo ra địa dư hành chính quá rộng. Địa dư hành chính rộng lớn lại thêm địa hình phức tạp khiến chính quyền cấp đạo khó có thể quản lý dân cư một cách hiệu quả.
- Quyền hành của chính quyền cấp đạo quá lớn. Sách Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn chép: "Chia trong nước thành 5 đạo, mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi vệ quân đặt một viên tổng quản, để cho cấp lớn cấp nhỏ, cấp trên cấp dưới đều có sự liên hệ ràng buộc vào nhau. Lại đặt chức Hành khiển vào các đạo để giữ sổ sách, ghi tên quân dân"[1]. Quyền hành của Hành khiển và Tổng quản quá lớn dễ dẫn đến lộng quyền, lạm quyền của đội ngũ quan chức địa phương. Ngoài việc trông coi về hành chính, Hành khiển còn phụ trách cả về kiểm tra, giám sát và tư pháp. Tổng quản toàn quyền trông coi về quân sự.
1.2. Những cải cách của vua Lê Thánh Tông ở cấp đạo
Cải cách ở cấp đạo được vua Lê Thánh Tông thực hiện suốt thời gian tại vị, nhưng tương đối nhất quán theo phương châm được ông khái quát trong Dụ hiệu định quan chế ban hành năm 1471: "Trách nhiệm có nơi quy kết, khiến quan to quan nhỏ đều ràng buộc với nhau; chức khinh, chức trọng cùng kìm chế lẫn nhau. Uy quyền không bị lợi dụng thế nước vậy là khó lay"[2]. Với phương châm ấy, vua Lê Thánh Tông đã thực hiện 3 cải cách lớn:
Cải cách thứ nhất: Chia nhỏ địa dư của đơn vị hành chính cấp đạo.
Từ năm đạo hành chính vào giai đoạn đầu Hậu Lê, năm 1466 ông đã: "Đặt 13 đạo thừa tuyên: Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Hưng Hóa, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn và phủ Trung Đô"[3]. Cùng với việc chia đặt đơn vị hành chính cấp đạo trên văn bản, ranh giới hành chính trên thực địa cũng được nhà nước xác định. Lần đầu tiên trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, bản đồ hành chính của quốc gia Đại Việt đã được xây dựng: "Ra lệnh cho 12 thừa tuyên điều tra hình thế sông, núi, sự tích xưa nay của các nơi trong hạt của mình, vẽ thành bản đồ ghi chú rõ ràng rồi gửi về Hộ bộ để làm bản đồ địa lý"[4]. Việc xây dựng bản đồ hành chính không chỉ dựa trên sự xác định về địa hình, địa vật mà còn dựa trên sự điều tra kỹ càng về truyền thống văn hoá để làm căn cứ pháp lý quy kết trách nhiệm và giúp chính quyền cấp đạo quản lý dân cư một cách hiệu quả.
Cải cách thứ hai: Xây dựng Tam ty để trao và thực hiện hoạt động quản lý tại đơn vị hành chính cấp đạo.
Nhận thấy những bất cập của tình trạng trao quyền quản lý địa phương cho các chức danh cá nhân, vua Lê Thánh Tông đặt ra các cơ quan quản lý tại cấp đạo. Theo ghi chép của Lịch triều hiến chương loại chí và Đại Việt sử ký toàn thư đến năm 1467, Tam ty gồm Thừa chính sứ ty [Thừa ty], Đô binh sứ ty [Đô ty] và Hiến sát sứ ty [Hiến ty] đi vào hoạt động: "Kể từ nay, kỳ đại duyệt binh sắp xong thì ba ty Đô, Thừa, Hiến sở tại, mỗi ty cử hai người lên bản vệ giữ lệnh, báo cáo…"[5]. Cùng với việc thành lập, cơ cấu tổ chức của từng ty cũng dần được kiện toàn. Tam ty có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có chức năng nhiệm vụ rõ ràng:
- Đô ty: đứng đầu là Đô tổng binh sứ mang hàm Chánh tam phẩm, Tổng binh đồng tri có hàm Tòng tam phẩm và Tổng binh thiêm sự giữ hàm Chánh tứ phẩm. Đô ty phụ trách quân sự và tuần phòng, canh giữ những nơi hiểm yếu.
- Thừa ty: đứng đầu là Thừa chính sứ mang hàm Tòng tam phẩm, giúp việc là các chức Tham chính mang hàm Tòng tứ phẩm, Tham nghị hàm Tòng ngũ phẩm. Thừa ty phụ trách về hành chính, dân sự [hộ khẩu, thóc tiền, kiện tụng…].
- Hiến ty: đứng đầu là Hiến sát xứ có hàm Chánh ngũ phẩm, Phó hiến sát xứ giữ hàm Chánh thất phẩm. Hiến ty đảm trách công việc kiểm tra, giám sát và tư pháp [nói bày, đàn hặc, khám đoán, xét hỏi, khảo khóa, tuần hành..].
Chế độ Tam ty do vua Lê Thánh Tông ban hành đã chấm dứt hoàn toàn thời kỳ trao quyền quản lý đơn vị hành chính địa phương cao nhất cho các cá nhân. Quyền hành tại cấp đạo được trao cho nhiều cơ quan có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có chức năng nhiệm vụ rõ ràng. Sự phân định quyền hành đó góp phần hạn chế sự khuynh đảo của quan chức địa phương; quyền lực của nhà vua do vậy cũng được tăng cường thêm một bước.
Cải cách thứ ba: tăng cường giám sát ở cấp đạo.
Với việc đặt ra Hiến ty, công việc kiểm tra, giám sát cấp đạo đã được trao cho một cơ quan chuyên trách. Vua Lê Thánh Tông chú trọng tới việc trao thẩm quyền cho Hiến ty. Thẩm quyền của Hiến ty sau khi hiệu định vào năm 1473 khá rộng: "chuyên giữ các chức vụ tâu bày, xét hỏi, tâu hặc khám xét, xét kiện, hội đồng đối chiếu, soát lại, xét công tội, đi tuần hành…"[6]. Mặc dù chức năng giám sát đã được trao cho Hiến ty, nhưng để tăng cường giám sát cấp đạo, vua Lê Thánh Tông đã đặt ra các Giám sát ngự sử. Theo ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư, công việc giám sát cấp đạo của Giám sát ngự sử được bắt đầu từ năm 1467: "Lấy bọn Quốc tử giám giáo thụ Nguyễn Nhân Tuỳ, huyện thừa Đinh Bô Cương… làm Giám sát ngự sử tại các xứ Hải Tây, Hải Đông…"[7]. Để hặc tấu sai lầm của quan chức tại chính quyền cấp đạo, Giám sát ngự sử ngoài việc tuần hành khám xét theo chỉ dụ của nhà vua còn có thẩm quyền điều tra xét xử các vụ việc quan chức tại địa phương tham ô, nhũng lạm, xét xử thiếu khách quan: "Chức trách của Ty phong hiến là xét hặc, trước nay đã quy định là phải chia tách thì giường mối trông coi mới được hoàn chỉnh và thành nề nếp. Kể từ nay, các ngươi: những nha môn trong kinh mà cáo giác nhân viên nào tham tang, phạm pháp và hết thẩy công việc lợi hại thì do phần ty đó xét hỏi, thi hành; nếu là ba ty bên ngoài trị lý dân chúng, khi phát hiện ra quan lại tham ô, hoặc có đơn khống tố về kiện tụng oan ức, cùng tất cả việc riêng tư xảy ra trong phủ, huyện, châu thì do phân ty các đạo xét xử thi hành"[8].
Những cải cách của vua Lê Thánh Tông tạo ra mô hình tổ chức khá hoàn thiện tại chính quyền cấp đạo. Không chỉ có sự chuyển giao hoạt động điều hành từ chức quan sang cơ quan mà quan trọng hơn, quyền hành tại cấp đạo được trao dựa trên sự phân định thành ba quyền: chính, binh, hình. Quyền chính được trao cho Thừa ty, quyền binh được trao vào Đô ty và quyền hình được trao vào Hiến ty. Sự phân định quyền hành cùng với việc tăng cường kiểm tra giám sát đã giúp nhà vua quản lý và điều hành cấp đạo ngày càng hiệu quả hơn.
2. Một số bài học kinh nghiệm từ công cuộc cải cách tại cấp đạo của vua Lê Thánh Tông
Vấn đề hoàn thiện, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI bên cạnh nhấn mạnh mục tiêu cải cách bộ máy chính quyền trung ương, còn chú trọng cải cách hệ thống chính quyền địa phương: "Tiếp tục phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương". Tuy nhiên, trên thực tế chính quyền địa phương nói chung, chính quyền địa phương cao nhất nói riêng vẫn bộc lộ nhiều bất cập. Nghiên cứu công cuộc cải cách của vua Lê Thánh Tông tại cấp đạo cho thấy đã có những thành công nhất định và có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho công cuộc cải cách chính quyền địa phương hiện nay.
Bài học kinh nghiệm thứ nhất: chú trọng nhân tố con người.
Lấy Nho giáo làm tư tưởng chính trị pháp lý, vua Lê Thánh Tông đặc biệt chú trọng tới nhân tố con người khi tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước. Nho giáo cho rằng: sự an nguy, thịnh trị của quốc gia không phụ thuộc vào hình thức chính thể mà hoàn toàn lệ thuộc vào tư cách của người cầm quyền. Từ quan điểm đó, khi cải cách chính quyền cấp đạo, yếu tố năng lực và phẩm hạnh của quan chức cấp đạo được đặc biệt chú trọng. Vua Lê Thánh Tông có quy định về chuyên môn, tư cách đạo đức, phương thức tuyển chọn khác nhau tuỳ vào vị trí đảm trách của quan chức.
- Về chuyên môn và tư cách, nếu đứng đầu Trấn ty phải là võ quan, đứng đầu Thừa ty phải là văn quan: "Các Trấn thủ kiêm Thừa tuyên sứ chỉ xuất thân từ con đường võ nghệ, không am hiểu văn học mà kiêm giữ hai chức, sợ ảnh hưởng tới việc quân. Nay Phó tổng binh thôi kiêm giữ chức Thừa tuyên sứ. Còn chức Thừa tuyên thì chọn quan văn học". Yêu cầu về chuyên môn và tư cách đạo đức đối với quan chức Hiến ty thể hiện rõ trong đạo Chiếu ban hành năm 1496: "Hiến ty là chức tâu hạch, nếu có khuyết viên nào thì chọn người đã đỗ tiến sĩ, quan văn, võ các nha môn, Nho chỉ huy sứ các vệ, ty đã trúng thi hội, thực đúng là đã giữ phép công, làm việc giỏi, cương trực, không né sợ quyền quý, không phạm lỗi để thuyên bổ chức Hiến sát phó sứ"[9].
- Về phương thức tuyển bổ, dù có nhiều phương thức tuyển bổ, nhưng quan chức tại chính quyền cấp đạo luôn được tuyển bổ dựa trên phương thức bảo cử: "Quan Thừa ty các xứ trách nhiệm rất nặng nề, trong khi chọn bổ phải được mọi người đều bằng lòng. Kể từ nay, quan Thừa ty các xứ có khuyết thì Lại bộ tâu lên đưa xuống cho triều thần theo như lệ của hai ty Đô, Hiến mà bảo cử quan viên trong ngoài, người nào làm nổi chức ấy, đưa cho Lại bộ thi hành"[10]. So với khoa cử [lựa chọn qua các khoa thi], nhiệm tử [bổ nhiệm con cháu công thần và quan chức cao cấp], bảo cử là phương thức tuyển bổ có những yêu cầu riêng:
Đối tượng được bảo cử là người đã nắm giữ chức vụ và kinh qua hoạt động quản lý. Theo quy định của nhà Lê, cứ 3 năm là một kỳ khảo khóa, ngoài yêu cầu về năng lực chuyên môn, để được bảo cử trở thành quan chức cấp đạo ít nhất phải có 12 năm kinh nghiệm: "Thừa ty, Hiến sát là những phương diện quan, trách nhiệm đã tôn, quyền uy cũng trọng, khi tuyển bổ phải dùng người tốt. Nếu đã bị khuyết Tham nghị thì dùng quan từ lục phẩm trở lên, có tài năng kiến thức và uy tín, nhậm chức đủ 4 lần khảo khoá trở lên; Hiến sát thì dùng quan các nha môn, khoa đài, Quốc tử giám, Lục tự mà thanh liêm, sáng suốt, từng trải đủ 4 lần khảo khoá trở lên được mọi người suy tôn ca ngợi, theo lệ mà tuyển bổ"[11].
Thủ tục tiến hành bảo cử khá phức tạp, sau khi được quan chức trong kinh, ngoài tỉnh đề cử, Bộ Lại trình nhà vua phê duyệt và bổ nhiệm. Sau khi bổ nhiệm, quan chức cấp đạo bộc lộ yếu kém về chuyên môn và đạo đức thì người đề cử phải liên đới chịu trách nhiệm: "Nếu dám lấy tình riêng, tuyển bổ bậy những kẻ phẩm trật thấp, tại chức ít ngày, để đến nỗi dư luận không hay, Lại khoa xét hỏi trị tội"[12]. Hình phạt dành cho người đề cử không đúng đối tượng được quy định trong điều 174 bộ Quốc triều hình luật: "Những người làm nhiệm vụ đề cử mà không cử được người giỏi thì bị biếm hoặc phạt theo luật nặng nhẹ, nếu vì tình riêng hoặc lấy tiền thì tội tăng thêm hai bậc"[13].
Với những quy định chặt chẽ về đối tượng, thủ tục, trách nhiệm mà người đề cử phải gánh chịu khi bảo cử, vua Lê Thánh Tông không chỉ khắc phục được hiện tượng bè cánh mà còn lựa chọn những quan chức đủ đức, đủ tài để gánh vác công việc tại chính quyền cấp đạo.
Bài học kinh nghiệm thứ hai: chú trọng giám sát và tạo hành lang pháp lý cho cơ quan thực hiện chức năng giám sát hoạt động.
Cùng với xây dựng và hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, vua Lê Thánh Tông còn tạo dựng hành lang pháp lý cho các cơ quan kiểm tra, giám sát hoạt động. Theo văn bản ban hành năm 1473, Hiến ty có hành lang pháp lý rất rộng để thực hiện quyền kiểm tra, giám sát. Để thực hiện việc kiểm tra, giám sát, Hiến ty toàn quyền tuần hành, khám xét tại đơn vị hành chính cấp đạo. Những sai lầm của quan lại tại cấp đạo được phát hiện thông qua hàng loạt hoạt động mà Hiến ty được phép tiến hành: xét kiện phúc thẩm, khảo hạch quan chức. Hiến ty có quyền hội đồng [trực tiếp cùng tiến hành] giải quyết các công việc cần kíp, quan trọng tại cấp đạo. Năm 1484, vua Lê Thánh Tông lệnh cho cả hai ty Thừa và Hiến cùng hội đồng ổn định đời sống nhân dân, khắc phục hậu quả khi đê điều bị vỡ "Kể từ nay, xứ nào trong hạt có đê điều bị vỡ, ngập mất lúa mùa mà có thể giữ nước để làm vụ chiêm thì hai ty Thừa, Hiến lệnh cho các quan hà đê, khuyến nông các phủ, huyện, châu phải nhân dịp nước rút dần, nghĩ trước kế chống đói cho dân, xem xét địa thế, tuỳ theo tiện nghi, đốc thúc dân làng cơi bờ đắp ruộng, cần phải giữ lấy nước để làm vụ chiêm"[14]. Tương tự như Hiến ty, Giám sát ngự sử cũng có hành lang pháp lý khá rộng để thực hiện công việc kiểm tra, giám sát một cách khách quan. Ngự sử giám sát lệ thuộc về mặt tổ chức đối với Ngự sử đài: "Kể từ nay, Giám sát ngự sử có sai đi công cán ở nơi khí độc như các xứ Yên Bang, Hưng Hoá, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Nam thì sai Giám sát ngự sử cai đạo". Quy định đó của vua Lê Thánh Tông góp phần tạo nên sự khách quan trong hoạt động của các Giám sát ngự sử. Trên cơ sở kiểm tra giám sát, Cai đạo ngự sử, Hiến ty có quyền đề xuất biện pháp xử lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hành chính tại địa phương mình giám sát. Hiến sát sứ xứ Thanh Hóa đề xuất biện pháp chế tài không được thăng cấp nếu quan chức không chăm lo xây dựng đường sá, làm thuỷ lợi: "Hiến sát sứ của Hiến sát sứ ty các xứ Thanh Hóa là Nguyễn Tộ tâu rằng: nếu là quan phủ, huyện không chăm đôn đốc làm đê, đường, cừ, đập thì không được thăng cấp"[15]. Đảm bảo nguồn thu cho nhà nước, Giám sát ngự sử đạo Hải Dương đề nghị: đối với dân đinh, nếu vì lý do chính đáng không thực hiện nghĩa vụ lao dịch, đề nghị nhà vua phải bắt nộp tiền: "Những sĩ tử đương đi thi mà gặp kỳ lên phiên thì phải nộp tiền. Vua y theo"[16].
Bài học kinh nghiệm thứ ba: chức luôn phải gắn liền với trách.
Lựa chọn, bổ nhiệm quan chức một cách cẩn trọng là căn cứ xác đáng để vua Lê Thánh Tông trao nhiệm vụ quản lý cho chính quyền cấp đạo. Từ khi được bổ nhiệm, chức - trách của quan chức luôn gắn liền. Ngoài việc tăng cường sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan chuyên trách, vua Lê Thánh Tông còn đặt ra nhiều biện pháp để buộc quan chức làm tròn trách nhiệm của mình.
- Đặt chế độ khảo hạch chặt chẽ: giống như mọi quan chức trong bộ máy nhà nước, quan chức cấp đạo buộc phải khảo khóa theo thông lệ. Với mục đích kiểm tra một quá trình làm việc để phân loại và thăng giáng quan chức, phép khảo khóa thời vua Lê Thánh Tông quy định phải xét kỹ thành tích, công trạng theo tiêu chí: "Nếu quả là có lòng chăm nom yêu thương, được nhân dân yêu mến và trong nơi cai quản ít có kẻ trốn tránh thì mới xứng chức. Nếu vơ vét, quấy nhiễu, gây tệ riêng tư và trong nơi quản có nhiều người trốn tránh thì là không xứng chức"[17].
- Ban hành văn bản đốc thúc, định tiến độ giải quyết các công việc quan trọng để quan chức cấp đạo thực hiện. Mặc dù trao thẩm quyền quản lý cho Tam ty, nhưng đối với các công việc liên quan tới sự phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, triều đình còn thường xuyên ban hành văn bản đốc thúc. Chỉ tính từ năm 1471 đến năm 1478, nhà vua ba lần ban hành văn bản đốc thúc chính quyền cấp địa phương đắp đê, khơi ngòi, làm đường: "Ra sắc chỉ cho các quan thừa ty, sứ ty và các quan phủ huyện các xứ thừa tuyên đắp đê, làm đường"[18]. Không chỉ đốc thúc, vua Lê Thánh Tông còn quy định tiến độ buộc chính quyền địa phương các cấp hoàn thành công việc: "Bọn các ngươi giữ trọng trách ở một phương, thân yêu dân là trách nhiệm. Thế mà không biết thể theo lòng nhân của triều đình yêu nuôi dân chúng, chỉ chăm làm những việc roi vọt, sổ sách. Nay sứ ty và phủ huyện các ngươi phải mau mau đi xem xét những nơi núi chằm bờ biển trong hạt, chỗ nào hình thế có thể khơi đắp ngòi, cừ, đê, đập để làm ruộng… trong hạn trăm ngày, phải lần lượt trình tâu cẩn thận"[19].
- Sa thải quan chức thiếu trách nhiệm hoặc không khách quan khi thi hành công vụ. Dù đã được tuyển bổ thận trọng và giám sát chặt chẽ, song trong quá trình thực thi công vụ quan chức tại chính quyền cấp đạo vẫn bộc lộ nhiều điểm bất cập. Hiện tượng thiếu trách nhiệm hoặc không khách quan trong thi hành công vụ vẫn không phải hiếm gặp. Trước tình trạng tha hóa đó, giáng chức là biện pháp chế tài chủ yếu nhà vua sử dụng để trừng trị quan chức: "Giáng chức bọn Thừa tuyên sứ các xứ Bắc đạo Lê Công khác, mỗi người một bậc vì trong xứ có nhiều sâu cắn lúa mà không biết tâu trước, chỉ ngồi nhìn tai họa của dân"[20].
Bằng nhiều biện pháp khác nhau đó, vua Lê Thánh Tông đã tạo dựng được đội ngũ quản lý với chức vụ và trách nhiệm luôn tương xứng; uy tín và hiệu lực quản lý tại cấp đạo ngày càng được tăng cường.
Gần 600 năm đã trôi qua, kinh nghiệm tổ chức chính quyền địa phương trực thuộc trung ương của vua Lê Thánh Tông vẫn còn nguyên giá trị. Xây dựng hệ thống chính quyền địa phương có uy tín, gần dân, chức - trách của người quản lý không thể tách rời là mục đích mà tất cả các nhà nước qua mọi thời đại đều hướng tới. "Ôn cố tri tân", hy vọng những kinh nghiệm tổ chức chính quyền cấp đạo phục vụ hữu hiệu cho công cuộc cải cách bộ máy chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay./.
ThS. Vũ Thị Yến - Đại học Luật Hà Nội
-------------------------
Ghi chú:
[1] Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử, Nxb. Đồng Tháp, 1996, tr. 71.
[2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học - Xã hội, H.1993, tr.454, 411; 422; 413; 463; 432; 506; 515; 486; 496; 496; 491; 499; 500; 447; 459; 457; 430.
[13] Viện Sử học Việt Nam, Quốc triều Hình luật, Nxb Pháp lý, H.1991, tr.84.

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Đề cương ôn tập Lịch sử nhà nước và pháp luật [CÓ ĐÁP ÁN]

Bởi HILAW.VN Cập nhật 05/10/2021
1
Chia sẻ

Đề cương ôn tập môn Lịch sử nhà nước và pháp luật có đáp án cho các bạn tham khảo.

Vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước thời vua Lê Thánh Tông và nêu nhận xét Cho biết những cải cách của vua Lê Thánh Tông nhằm mục đích gì

Video liên quan

Chủ Đề