So sánh tư tưởng mạnh tử và tuân tử

Tuân Tử (Tiếng Trung: 荀子) (316 TCN – 237 TCN) là một nhà Nho, nhà tư tưởng của Trung Hoa vào cuối thời Chiến Quốc. Cùng với Mạnh Tử, ông là một trong những người nổi bật nhất trong những người kế thừa và phát triển tư tưởng Nho gia của Khổng Tử. Tư tưởng của ông có tầm ảnh hưởng lớn trong việc vận hành của chính quyền dưới thời nhà Hán[1], nhưng có ít ảnh hưởng hơn so với tư tưởng của Mạnh Tử dưới thời nhà Đường.[2]

So sánh tư tưởng mạnh tử và tuân tử

Tuân Tử
荀子

Sinh316 TCN
Nước TriệuMất237 TCN
Nước SởTên khácTuân Huống, Tuân KhanhNghề nghiệpTriết gia Nho giáo

Tuân Tử nghiên cứu những nhà tư tưởng như Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Mặc Tử, Huệ Thi, Công Tôn Long, Thân Bất Hại.[3] Ông có sử dụng một số thuật ngữ của Đạo giáo, mặc dù không ủng hộ triết lý này.[4] Ông là thầy của hai nhà Pháp gia nổi tiếng là Hàn Phi và Lý Tư.

Tuân Tử, tên là Huống, tự là Khanh, nên còn gọi là Tuân Huống hay Tuân Khanh, sinh ra ở nước Triệu vào khoảng năm 316 TCN. Ông đến nước Tề vào năm 15 tuổi. Ông sống và học tập ở đó một thời gian dài. Sau đó, ông qua nước Sở vào năm 286 TCN đến năm 278 TCN. Sau khi Sở bị tấn công và Tề giành lại kinh đô Lâm Truy, ông quay lại Tề, được phong là "Liệt đại phu". Tuy được người Tề hết sức kính nể, đã trước sau ba lần cử làm "tế tửu",[5] một danh hiệu vinh dự trong các buổi quốc yến, nhưng rốt cuộc chẳng được trọng dụng. Sau khi rời Tề sang Tần, ông gặp thừa tướng Phạm Tuy. Nhưng vì sự thẳng thắn trong đối đáp của ông trong việc khen điều hay chê điều dở của Tần mà ông thiếu cơ hội thực hiện lý tưởng của mình ở đó.

Trong khoảng năm 265 TCN đến năm 261 TCN, ông trở về Triệu và từng biện luận phép dụng binh với Lâm Vũ Quân trước mặt Triệu Hiếu Thành vương.[6] Tiếc là ngay ở quê nhà ông cũng không được trọng dụng. Ông bèn quay lại Sở.

Vào năm 255 TCN, Xuân Thân quân mang quân đi tiêu diệt nước Lỗ, mở mang đất Sở về phía bắc. Ông được phong làm huyện lệnh Lan Lăng trong vùng mới chiếm của Lỗ, sau đó định cư luôn ở đây. Tại đây, ông mở trường dạy học và viết sách, sáng lập ra học phái Lan Lăng, tạo dựng phong khí thư hương cho xứ này. Trong số những học trò của ông, có hai người theo trường phái Pháp gia nổi tiếng là Hàn Phi và Lý Tư.

Ông qua đời ở Lan Lăng vào khoảng năm 237 TCN đến năm 235 TCN, thọ 78-80 tuổi.[5]

Tuy ông cũng là người theo tư tưởng Nho gia, khác với tư tưởng của Khổng Tử là dùng "nhân" để trị nước, ông ủng hộ tư tưởng dùng "lễ" và "hình" để trị nước.[7] Đối lập với thuyết "nhân chi sơ tính bản thiện" của Mạnh Tử, bàn về "tính ác", Tuân Tử lại cho rằng "nhân chi sơ tính bản ác". Học thuyết tính ác của Tuân Tử có nghĩa rằng, con người sinh ra vốn dĩ là ác, có được thiện là do quá trình bồi dưỡng, giáo dục mà có. Ông cho rằng, con người khi sinh ra có đầy đủ dục vọng như ham lợi, ham sắc,… Nếu như con người cứ phát triển theo dục vọng thì mối quan hệ giữa người và người sẽ phát sinh ra tranh đấu và tạo nên một xã hội hỗn loạn, do đó mới cần phải có "lễ" để điều chỉnh, sửa đổi bản tính ác của con người. Tuy nhiên, ông lại tin rằng chỉ có giới tinh hoa mới làm được điều này.[8]

Tuân Tử chứng kiến sự hỗn loạn xung quanh sự sụp đổ của nhà Chu và sự nổi lên của nước Tần với tư tưởng của Pháp gia là "tập trung vào sự kiểm soát của nhà nước bằng luật pháp và hình phạt".[9] Do vậy, khác với các nhà Nho khác, ông cho phép những luật để trừng phạt tồn tại đóng vai trò nhất định trong việc quản lý nhà nước.[10] Không giống với các nhà Pháp gia, ông ít chú trọng đến các luật lệ chung mà ủng hộ việc sử dụng ví dụ cụ thể để làm hình mẫu.[8] Hình mẫu vua và chính quyền lý tưởng (quân tử) của ông, được hỗ trợ bởi giới tinh hoa, gần giống với Mạnh Tử, nhưng khác biệt ở chỗ ông phản đối việc cha truyền con nối của chế độ phong kiến mà tin rằng địa vị của một cá nhân trong xã hội cần được xác định bằng khả năng của chính họ.[11]

  • Tuân Tử có quan điểm ngược lại với Mạnh Tử. Ông cho rằng: "Nhân chi sơ tính bản ác" (Bản tính con người là ác).
  • "Nhật tiến nguyệt bộ" (Ngày, tháng, tiến bộ) - Tuân Tử viết trong chương Thiên Luận (天論): Quân tử kính kỳ tại kỷ giả, nhi bất mộ kỳ tại thiên giả, thị dĩ nhật tiến dã (君子其敬在己者、而不慕其在天者、是以日進也), có nghĩa là "Quân tử cung kính người trong mình, mà không thèm muốn người trên trời, thì được tiến bộ hàng ngày".
  • Dubs, Homer (1927). The Works of Hsüntze. London: Arthur Probsthain.
  • Knoblock, John (1988). Xunzi: A Translation and Study of the Complete Works, Books 1-6. 1. Stanford, CA: Stanford University Press. ISBN 978-0804714518.
  • Knoblock, John (1990). Xunzi: A Translation and Study of the Complete Works, Books 7-16. 2. Stanford, CA: Stanford University Press. ISBN 978-0804717717.
  • Knoblock, John (1994). Xunzi: A Translation and Study of the Complete Works, Books 17-32. 3. Stanford, CA: Stanford University Press. ISBN 978-0804722988.
  • Knoblock, John; Zhang, Jue (1999). Xunzi. 1 & 2. Changsha: Hunan Publishing House. ISBN 978-7543820869.
  • Watson, Burton (2003). Xunzi: Basic Writings. New York: Columbia University Press. ISBN 978-0231129657.

  1. ^ John H. Knoblock. Early China, Vol. 8 (1982–83), p. 29. The Chronology of Xunzi's Works. https://www.jstor.org/stable/23351544
  2. ^ de Bary, William Theodore; Bloom, Irene, eds. (1999). Sources of Chinese Tradition: From Earliest Times to 1600. 1. New York: Columbia University Press. pp. 159–160. ISBN 978-0231109390.
  3. ^ Karyn Lai 2017. p.55. An Introduction to Chinese Philosophy. https://books.google.com/books?id=3M1WDgAAQBAJ&pg=PA55
  4. ^ Robins, Dan, "Xunzi", 8. Epistemology, The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Spring 2017 Edition), Edward N. Zalta (ed.), https://plato.stanford.edu/archives/spr2017/entries/xunzi/
  5. ^ a b 佐藤將之. 〈荀子生平事蹟新考〉. 中國知網. [2017-09-30] (中文(繁體))
  6. ^ 佐藤將之. 《參於天地之治:荀子禮治政治思想的起源與構造》. 台北: 台大出版中心. 2016. ISBN 9789863501824 (中文(繁體)).
  7. ^ Hàn Phi Tử, Soạn giả Hàn Phi, Dịch giả Phan Ngọc, Nhà xuất bản văn học, 2001, trang 6
  8. ^ a b Robins, Dan, "Xunzi", 4. Education and Punishment, The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Spring 2017 Edition), Edward N. Zalta (ed.), https://plato.stanford.edu/archives/spr2017/entries/xunzi/
  9. ^ de Bary, William Theodore; Bloom, Irene, eds. (1999). Sources of Chinese Tradition: From Earliest Times to 1600. 1. New York: Columbia University Press. pp. 159–160. ISBN 978-0231109390
  10. ^ (R. Eno), 2010 p.1. LEGALISM AND HUANG-LAO THOUGHT. Indiana University, Early Chinese Thought [B/E/P374]. http://www.indiana.edu/~p374/Legalism.pdf Lưu trữ 2019-03-21 tại Wayback Machine
  11. ^ Robins, Dan, "Xunzi", 2. The Way of the Sage Kings, The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Spring 2017 Edition), Edward N. Zalta (ed.), https://plato.stanford.edu/archives/spr2017/entries/xunzi/

  • Xun Zi trên DMOZ
  • Hsun Tzu historical information and writing excerpts
  • Article from the Internet Encyclopedia of Philosophy
  • Full text of the Xunzi (in Chinese)

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tuân_Tử&oldid=67953243”

Cửa sổ tri thức

11:07, 15/04/2012 (GMT+7)

* Lâu nay tôi thường nghe nói “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng có anh bạn nói rằng cũng có thuyết “nhân chi sơ tính bản ác”. Xin cho biết ai là tác giả của hai thuyết đối nghịch này? Cuộc đời của họ có gì nổi bật? (Trần Quảng, Hải Châu, Đà Nẵng).

- “Nhân chi sơ bản tính thiện” (con người sinh ra bản tính là thiện) là thuyết của Mạnh Tử (372 – 289 TCN; một số tài liệu khác ghi là: 385– 303/302 TCN) - nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử.
Mạnh Tử phát triển thêm tư tưởng của Khổng Tử nhưng ông không tuyệt đối hóa vai trò của vua như Khổng Tử mà chủ trương “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (dân là quý nhất, thứ đến là xã tắc, vua là nhẹ nhất).

So sánh tư tưởng mạnh tử và tuân tử
Mạnh Tử (trái) và Tuân Tử.

Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người lúc ban đầu là Thiện. Đức của một người là quà tặng của thiên thượng (Trời), và được liên thông với thiên thượng. Mọi người đều có bản chất tốt và đạo đức, nếu một người thủ đức và nỗ lực tu thân, anh ta có thể trở thành người giống như các vị vua Nghiêu, vua Thuấn.
Học thuyết của Mạnh Tử gói gọn trong các chữ “Nhân”,  “Nghĩa”,  “Lễ”, “Trí”. Ông chỉ ra rằng để trở thành một con người có lý niệm, người đó cần phải giữ được 4 tiêu chuẩn, “lòng trắc ẩn, thuộc về lòng nhân từ; sự hổ thẹn, thuộc về nghĩa khí; tâm khiêm nhường, thuộc về lễ nghi; tâm thị phi, thuộc về trí tuệ”. Bốn đặc tính của con người này cùng các hành vi tương ứng của họ trở thành nền tảng tạo thành bốn đức tính của lòng nhân từ, nghĩa khí, lễ nghi, và trí tuệ.

“Nhân chi sơ tính bản ác” (con người sinh ra bản tính là ác) là thuyết của Tuân Tử (313 – 238 TCN) - nhà Nho, nhà tư tưởng của Trung Hoa vào cuối thời Chiến Quốc, là một trong Bách gia Chư tử (Học thuật của trăm nhà). Tuân Tử chính là thầy học của Thừa tướng nhà Tần là Lý Tư.

Tuân Tử quan niệm bản tính con người vốn là ác. Bản chất là ác, nhưng vì được giáo dục, nên con người trở nên thiện ít, hoặc thiện nhiều tùy mỗi người. Bản chất là ác nên mới hướng thiện, chứ nếu đã là thiện rồi thì cần gì phải hướng thiện. Vì thế, loài người thường nói hướng thiện, chứ xưa nay không bao giờ nghe từ hướng ác.

Bàn về tư tưởng của Mạnh Tử và Tuân Tử, tác giả Ngô Quân viết trong “Bảy đại triết gia Trung Quốc đời Chu - Tần” như sau:

“Tuân Tử cũng như Mạnh Tử, cả hai đều là nhân vật lịch sử, thừa kế tư tưởng, phát triển học thuyết của đức thầy Khổng Tử, nhưng kết cuộc thì khác nhau về tao ngộ.

Trên lịch sử Trung Quốc, Mạnh Tử đã giành được một địa vị chỉ có dưới một nấc, so với Khổng Tử, sách “Mạnh Tử” được liệt vào mười ba kinh thư, mà tầng lớp trí thức cổ kim, ai nấy đều nên học hỏi theo truyền thống. Còn sách “Tuân Tử” thì trái lại, không được người đời coi trọng, thậm chí có chỗ còn bị coi như dị đoan.

Xét ra thì có hai nguyên nhân, tạo nên hiện lượng bất thường này: Một là, vì Tuân Tử đề ra “Tính ác”, ngược lại với “Tính thiện” của Mạnh Tử; hai là, có hai đệ tử của Tuân Tử sau này, là Hàn Phi cùng Lý Tư, đều là nhân vật chủ chốt, trong thế cuộc dẫn tới bạo chính của nhà Tần.

(…) Tuy nhiên, người ta công nhận, giữa Mạnh Tử và Tuân Tử cũng có nhiều điểm tương đồng sau đây: (a) Cả hai đều tôn sùng Chu công và Khổng Tử, và có ý thức quý dân hơn vua. (b) Đều nhấn mạnh, tánh cách quan trọng của đạo đức và nhân phẩm con người. (c) Khinh miệt thuyết “hợp tung”, “liên hoành” của Tô Tần và Trương Nghi.

(d) Phê phán rất nghiêm khắc các học thuyết khác đương thời”.

ĐNCT