Tại sao người việt nam ghét người trung quốc

Theo giáo sư Thayer, ngoài các nhân tố khách quan mang tính chất địa lý lịch sử, một loạt động thái chèn ép của Trung Quốc đối với Việt Nam trong thời kỳ hiên đại cũng duy trì tâm lý ghét Trung Quốc nơi người Việt Nam, từ việc không muốn Việt Nam thống nhất sau khi chiến tranh kết thúc, ủng hộ Khơme Đỏ đánh phá Việt Nam, trực tiếp xua quân đánh vào miền Bắc năm 1979, cho đến tranh chấp Biển Đông, đánh Việt Nam giành đảo, đem giàn khoan vào khiêu khích trong vùng thềm lục địa của Việt Nam, gây sức ép cấm Việt Nam khoan dầu trong khu vực mà Bắc Kinh cho là của Trung Quốc…

Trong bài phân tích, giáo sư Carl Thayer trước tiên nhắc lại :

Tôi đã từng viết một bài với tựa đề « Sự khắc nghiệt của địa lý: Chiến lược của Việt Nam đề ngăn chặn Trung Quốc ở Biển Đông » để mô tả quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Tôi đã chơi chữ dựa theo tựa đề một quyển sách về lịch sử Úc của Geoffrey Blainey « Sự khắc nghiệt của khoảng cách ». Tác giả muốn nói – đây là tôi nói thay ông ấy - là Úc sẽ dễ chịu hơn nếu là một lục địa ở giữa Đại Tây Dương, giữa Anh Quốc và Hoa Kỳ, giữa tuyến đường vòng quanh trên thế giới từ đất mẹ Anh Quốc. Đấy là tôi chơi chữ với ngụ ý châm biếm.

Việt Nam có đường biên giới chung với Trung Quốc, nhưng dân số của Việt Nam chỉ ở tầm cỡ một tỉnh trung bình của Trung Quốc. Như Brantly Womack từng viết, đó là một quan hệ thật bất cân xứng. Việt Nam đã phải rất cảnh giác, đến mức bị ám ảnh, trước những gì Trung Quốc nói và làm, trong khi Trung Quốc có những lợi ích lớn hơn nhiều.

Một học giả Việt Nam đã có lần nhẹ nhàng chỉ trích tôi về tựa của bài viết vì soi rọi quan hệ Việt-Trung một cách tiêu cực. Ông lập luận rằng có một khía cạnh tích cực trong việc Việt Nam ở gần Trung Quốc. Việt Nam đã rút tỉa được cái hay trong văn hóa, ngôn ngữ Trung Quốc và điều này đã giúp cho việc hình thành nhà nước Việt Nam.

Giáo sư Thayer đã ghi nhận quá trình chống Trung Quốc xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam, từ thời Hai Bà Trưng cho đến gần đây:

Sử sách đã ghi nhận là nhiều triều đại Trung Quôc đã xâm lăng Việt Nam ít nhất là 11 lần. Việt Nam đã thành công trong việc đánh bật kẻ xâm lược. Chuyện Hai Bà Trưng chống lại Trung Quốc đã trở thành huyền thoại của Việt Nam qua bao nhiêu thế hệ. Dù không thành công, nhưng Hai Bà Trưng đã cho thấy tình thần bất khuất của người Việt Nam, muốn độc lập và chống lại sự xâm lược của ngoại bang.

Tất cả người Việt Nam ngày nay đều biết về lịch sử các mối quan hệ giữa Việt Nam với các triều đại Trung Quốc, và đó là nền tảng cơ bản của tâm lý bài Trung Quốc ngày nay.

Đối với giáo sư Thayer, cách giải thích đó chưa đầy đủ:

Người Việt Nam có cảm nhận là Trung Quốc đã bán rẻ ước nguyện thống nhất của Việt Nam vào đầu thập niên 1970. Trung Quốc tìm hỗ trợ của Mỹ để chống lại « chủ nghĩa đế quốc xã hội chủ nghĩa » của Liên Xô và đã khuyên Việt Nam đặt việc thống nhất đất nước là một mục tiêu lâu dài, giống như trường hợp của Trung Quốc đối với Đài Loan. Và ngay tháng Giêng 1973, khi Hiệp Định Paris về chấm dứt cuộc chiến và vãn hồi hòa bình ở Việt Nam dược ký kết, Trung Quốc đã giảm ngay trợ giúp quân sự cho Việt Nam. Việt Nam đã phải dựa vào hỗ trợ quân sự của Liên Xô để thống nhất đất nước khi lệnh ngưng bắn trong Hiệp Định Paris bị phá vỡ.

Ít lâu sau khi chiến tranh với Mỹ kết thúc, Việt Nam lại phải đối phó với mối đe dọa Khờme Đỏ được Trung Quốc hậu thuẫn. Lực lượng này đã nhiều lần tràn qua Việt Nam, tàn sát nhiều dân làng Việt Nam. Việt Nam thoạt đầu đã trả đũa bằng một số chiến dịch đột kích qua biên giới, nhưng sau cùng đã mất kiên nhẫn và tràn qua chiếm đóng Cam Bốt trong một thập niên. Các lãnh đạo Việt Nam mà tôi có dịp phỏng vấn vào năm 1981, đã giải thích là chiến lược của Trung Quốc là muốn Việt Nam sa lầy ở Cam Bốt và bị kiệt quệ.

Từ tháng Giêng đến tháng 3/1979, Trung Quốc trả đũa bằng cách đưa quân đánh chiếm vùng phía bắc của Việt Nam với lý do bình định vùng biên giới và « dậy cho Việt Nam một bài học ». Tranh chấp biên giới Trung Quốc Việt Nam kéo dài cho đến năm 1987. Hai năm sau thì Việt Nam ổn định tình hình Cam Bốt, rút quân khỏi nước láng giềng.

Biển Đông trở thành điểm nóng, dân chúng biểu tình chống Trung Quốc

Quan hệ Việt Nam Trung Quốc được bình thường hóa vào tháng 11/1991. Một năm sau đó, Trung Quốc thông qua một đạo luật tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Điều đó lại đẩy Bắc Kinh vào thế tranh chấp với Hà Nội.

Bối cảnh là Trung Quốc đã có kế hoạch trước, tấn công vào lực lượng của Việt Nam Cộng Hòa ở Hoàng Sa [để chiếm toàn bộ quần đảo này] vào tháng Giêng năm 1974, và sau đó lại tấn công vào quân đội của nước Việt Nam thống nhất ở Gạc Ma [Johnson Reef – quần đảo Trường Sa] vào tháng 3/1988.

Cuộc biểu tình công khai chống Trung Quốc đầu tiên diễn ra tại Hà Nội vào cuối năm 2007 sau khi có tin tức được loan truyền là quy chế thị trấn Tam Sa [Sansha] trên đảo Phú Lâm [Woody Island] thuộc quần đảo Hoàng Sa đã được nâng lên thành địa cấp thị [thành phố cấp địa khu]. Một năm sau, các cuộc biểu tình chống Trung Quốc lại diễn ra khi các vận động viên rước đuốc Olympic Bắc Kinh trên khắp lãnh thổ Việt Nam.

Biển Đông đã nổi lên thành điểm nóng ở Việt Nam vào năm 2009 khi các quốc gia ven biển đến hạn đệ trình lên Liên Hiệp Quốc các đề xuất kéo dài thềm lục địa của mình. Việt Nam và Malaysia đã có một đề nghị chung, và Việt Nam cũng đồng thời đưa ra một đề nghị riêng. Trung Quốc, lần đầu tiên, đã công bố bản đồ 9 đường gián đoạn để yêu sách toàn bộ Biển Đông. Điều đó dẫn đến các vụ va chạm trên biển thường xuyên trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam [EEZ] khi Trung Quốc tìm cách ngăn không cho Việt Nam thăm dò dầu khí.

Trung Quốc cũng áp dụng các biện pháp thô bạo đối với ngư dân Việt Nam trong vùng biển xung quanh quần đảo Hoàng Sa, tịch thu cá họ đánh bắt được, tước đoạt các thiết bị vô tuyến điện, các công cụ hải hành và mọi tài sản có giá trị. Nhiều ngư dân Việt Nam đã bị Trung Quốc bắt giữ [thực ra là bị bắt làm con tin] để đòi tiền chuộc.

Năm 2013, Việt Nam đã hủy bỏ chính sách có từ trước đó là xem Trung Quốc là môt nước xã hội chủ nghĩa thân hữu. Hiện nay, Việt Nam đánh giá quan hệ với Trung Quốc trên lợi ích quốc gia chứ không còn là trên cơ sở ý thức hệ. Việt Nam đã thông qua một chiến lược vừa hợp tác và vừa đấu tranh với Trung Quốc. Các hạn chế trên các phương tiện truyền thông đã được nới lỏng để cho phép một cái nhìn ít tô hồng hơn về người hàng xóm phương bắc.

Bước ngoặt của vụ giàn khoan HD-981

Một bước ngoặt xuất hiện vào năm 2014 khi Trung Quốc mang một giàn khoan dầu khổng lồ vào cắm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, kèm theo một hạm đội gồm 100 con tàu đủ loại, bao gồm tàu chiến, tàu hải giám, tàu kéo và tàu đánh cá có vũ trang. Nhiều chiếc đã cố ý đâm vào tàu Việt Nam và dùng vòi rồng công suất mạnh tấn công tàu Việt Nam.

Sự cố này đã làm dấy lên những cuộc biểu tình chống Trung Quốc khắp nơi ở Việt Nam, với một số vụ biến thành bạo động làm người Trung Quốc tử vong. Ở đỉnh điểm cuộc khủng hoảng đó, một nhóm cán bộ hồi hưu đã lưu hành một bản kiến nghị kêu gọi Việt Nam « thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc ».

Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay xem hành vi xâm lăng của Trung Quốc ở Biển Đông là một mối đe dọa trên sự tồn tại của chủ quyền Việt Nam. Việc Trung Quốc xây dựng và quân sự hoá 7 hòn đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa gần các thực thể do Việt Nam kiểm soát được xem như là bằng chứng về mối đe dọa này.

Tâm lý chống Trung Quốc còn dựa trên suy nghĩ cho rằng chế độ hiện tại không tích cực bảo vệ sự toàn vẹn và chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Chính quyền Việt Nam có thể là đã chiến thắng trước tòa án công luận thế giới vào năm 2014, nhưng sau đó lại lùi bước trước áp lực của Trung Quốc trong hai năm 2017 và 2018, khi đình chỉ thăm dò dầu khí trong vùng biển quanh Bãi Tư Chính [Vanguard Bank].

Những yếu tố khác

Nếu thêm vào « nồi súp Biển Đông » các gia vị khác như là chính sách Trung Quốc sử dụng lao động Trung Quốc trong các dự án viện trợ và phát triển ở Việt Nam, và nghi vấn rộng khắp về sự thông đồng giữa các doanh nhân Trung Quốc với giới lãnh đạo Việt Nam ở địa phương và trung ương, ta sẽ có một hợp chất bài Trung Quốc tai hại.

Điều đó đã được thấy rõ qua các cuộc biểu tình khắp nơi chống lại dự luật Đặc Khu Hành Chính và Kinh Tế trong tháng này. Trên cơ sở an ninh quốc gia, những người biểu tình phản đối hợp đồng cho thuê trong 99 năm đối với các doanh nghiệp Trung Quốc.

Phân biệt và kỳ thị người gốc Á đã có từ lâu

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Người gốc Á ở Detroit, Mỹ, hưởng ứng các cuộc biểu tình toàn quốc phản đối phân biệt và kỳ thị người gốc Á

Suốt hơn mười năm qua, cuộc sống của tôi mỗi năm chia làm ba phần, ở châu Âu nơi có công việc, ở châu Á nơi có gia đình, và ở châu Úc nơi có bạn trai. Vì ảnh hưởng của đại dịch, cả năm qua tôi sống ở một trong những bang bảo thủ nhất Australia: bang Queensland.

Khi cuộc sống chỉ giới hạn ở một thành phố nhỏ bé ven biển, tôi thốt nhiên nhận thấy ngoài những điều tôi hằng yêu mến, nước Úc cũng có một phần giống châu Âu và Mỹ.

Đó là khi bạn có làn da vàng, hầu hết thiên hạ sẽ tự động cho rằng bạn là người Trung Quốc. Đó là khi con virus corona bị gọi là "virus China" [tổng thống Trump], thì cứ có làn da vàng là bạn có thể mang hình hài của một con virus.

Vào mỗi buổi chiều khi chúng tôi đi dạo trên bờ biển, không ít lần tôi nhận thấy những ánh mắt tò mò dõi theo. Có người ngoái lại và thì thầm bàn tán. Một lần tôi hắng giọng ho, ngẩng lên thì thấy vài khuôn mặt nhìn tôi chằm chằm.

Quảng cáo

Vụ nổ súng ở Atlanta: Biden lên án nạn phân biệt chủng tộc chống người châu Á

Mỹ: Đánh trả kẻ tấn công, cụ bà Trung Quốc được khen ngợi vì lòng dũng cảm

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Bãi biển Burleigh Heads ở bang Queensland, Úc

Các cuộc tấn công vào người gốc Á tăng mạnh khắp thế giới

Tôi may mắn không phải là nạn nhân của hàng ngàn cuộc tấn công nhằm vào dân Á thời gian gần đây [COVID hate crime]. Nhưng ngay từ đầu đại dịch, tôi đã cảm nhận được sự đề phòng từ những người không quen biết xung quanh.

Đầu tháng ba năm ngoái, khi bước chân vào toa xe điện ở Amsterdam, một người phụ nữ bỗng ngẩng lên, nhìn tôi rồi sợ hãi thì thầm: "Người Trung Quốc?". Khi đó, các ca bệnh ở châu Âu chủ yếu lan từ Ý. Tôi không nén được cười, nhưng vẫn ra vẻ sợ hãi không kém, rồi thì thầm: "Người Ý?".

Từ đó đến nay, sự đề phòng đã biến thành thù ghét và hành động tội ác. Theo số liệu trích dẫn tại một bài viết trên Time, tại New Zealand, 54% người gốc Trung Quốc bị phân biệt đối xử; tổng số các cuộc tấn công nhằm vào dân gốc Á tăng 300% tại Anh; tới 12% các cuộc tấn công vào người Á ở Úc là các tình thế mang tính đe dọa bạo lực. Đỉnh điểm của làn sóng thù ghét người Á là cuộc thảm sát tại Mỹ hai tuần trước khi một tên sát nhân xả súng vào ba tiệm thẩm mỹ và giết chết 8 nạn nhân, 6 người trong số đó là phụ nữ gốc Á.

Nhưng sự thù ghét người Á không phải chờ đến COVID mới xuất hiện. Trận đại dịch này chỉ là cái cớ để cái cây thù hằn ấy nẩy nở mạnh mẽ hơn.

Mỹ: Nạn thù hằn kỳ thị nhắm vào dân châu Á tăng 150%

Câu chuyện từ Pháp: Dịch cúm do virus corona và 'nạn kỳ thị'

Phân biệt chủng tộc và kỳ thị người gốc Á tại Mỹ

Để thấy rõ lịch sử của tệ phân biệt chủng tộc nhằm vào người Á, chúng ta có thể lấy Mỹ làm ví dụ - miền đất mà hầu hết mọi thành viên đều là dân di cư.

Từ giữa thế kỷ 19, người Trung Quốc đã chấp nhận làm các công việc nguy hiểm trong hầm mỏ. Ngay lập tức, họ trở thành nạn nhân của làn sóng kỳ thị với lý do "cướp cơm của người da trắng".

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Ảnh chụp khoảng năm 1852, cho thấy thợ mỏ Trung Quốc làm việc cùng thợ mỏ da trắng ở Aubine Ravine, California

Năm 1853, Ling Sing bị một người da trắng là George Hall bắn chết. Hall bị khép tội tử hình với ba nhân chứng người Trung Quốc. Tuy nhiên, toà án tối cao California không những xử trắng cho Hall mà còn tạo tiền đề cho một đạo luật phân biệt chủng tộc, theo đó, dân gốc Á, hệt như dân da đen, là một chủng tộc hạ đẳng, "không đủ trí tuệ và khả năng làm chứng" [testify] để kết tội kẻ khác, trong trường hợp này là dân da trắng.

Sau người Trung Quốc, hàng loạt các cộng đồng gốc Á khác như Nhật, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Thái Lan, Lào, Hmong, Bangladesh ...vv đều trở thành đối tượng bị phân biệt và kỳ thị, với nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, phải đến khi làn sóng kỳ thị người Nhật diễn ra trong giai đoạn Nhật tăng tốc phát triển thị trường ô tô ở Mỹ thì lịch sử mới được chứng kiến một bước ngoặt có ý nghĩa.

Năm 1982, một chàng trai trẻ gốc Trung Quốc tên là Vincent Chin tới quán bar trước ngày anh chuẩn bị cưới vợ. Hai người đàn ông da trắng xô xát với Chin, cho rằng anh là người Nhật và kết tội người Nhật khiến dân lao động Mỹ trong ngành ô tô thất nghiệp. Sau khi rời quán bar, họ lái xe đi tìm anh và dùng gậy đánh bóng chày quật anh trọng thương. Anh tử vong sau đó mấy ngày. Hai kẻ sát nhân sau đó chỉ hưởng án treo và bị phạt 3000 đôla.

Vụ án của Vincent Chin là giọt nước tràn ly. Nó đánh dấu một thời điểm lịch sử: Sự ra đời của phong trào chống sự phân biệt chủng tộc và kỳ thị người châu Á. Cái chết của Vincent Chin đã đem lại sự bảo trợ pháp lý và sự ủng hộ mang tính xã hội cho hàng chục cộng đồng gốc Á trên khắp nước Mỹ. Bộ phim tư liệu "Who killed Vincent Chin" trở thành dấu ấn đáng ghi nhớ của điện ảnh Mỹ.

Chụp lại video,

Chống lại nạn kỳ thị người châu Á: 'Hãy dũng cảm đứng lên'

Phân biệt chủng tộc và kỳ thị với người Việt Nam

Những người tị nạn [thuyền nhân] Việt Nam tới Mỹ sau khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc. Quá trình nhập cư này không quá khó khăn chính là nhờ đạo Luật Nhập Cư năm 1965. Đây là kết quả của cuộc đấu tranh dân quyền do người da đen khởi xướng. Nhờ đó mà tất cả mọi người bất kể màu da, sắc tộc, tôn giáo đều có thể vào Mỹ định cư.

Đối mặt với làn sóng thuyền nhân, cộng đồng da đen ở Mỹ đã mạnh mẽ kêu gọi tiếp nhận người tị nạn. Trên tờ New York Times năm 1978, với tựa đề "Cộng đồng da đen thúc giục Mỹ tiếp nhận người tị nạn Đông Dương", tác giả viết: "Là những công dân trong cộng đồng da đen đang đối diện với thiếu thốn kinh tế nên chúng tôi đồng cảm với những người anh em châu Á đang trong trại tị nạn."

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Một gia đình người Việt tỵ nạn đặt chân tới trại Pendleton, California, năm 1975

Khi đến được Mỹ, nhiều người Việt ở Texas chủ yếu làm nghề đánh bắt tôm. Họ gặp vô số khó khăn khi cộng đồng người da trắng kìm hãm, hối thúc các cửa hàng không mua bán với chủ thuyền người Việt, hoặc lobby chính phủ để số lượng thuyền và đăng ký bị kiểm soát chặt chẽ hơn.

Tuy nhiên, bằng sự chăm chỉ, chấp nhận khó khăn và bán giá rẻ hơn, người Việt dần dần vươn lên vị trí cao hơn trong bậc thang kinh tế và xã hội. Hệt như tình trạng với người Trung Quốc, sự thành công của họ trở thành nỗi lo sợ "cướp cơm của người da trắng".

Nguy hiểm hơn, họ còn rơi vào tầm ngắm của nhóm Ku Klux Klan [KKK] - một tổ chức da trắng thượng đẳng với lịch sử dày đặc các tội ác dã man với người da đen. Bốn thuyền đánh cá của người Việt bị đốt, các vùng đánh bắt cá bị cấm cản, một ngôi nhà bị đốt cháy bằng bom.

Xung đột lên đến đỉnh cao khi hai anh em một gia đình người Việt vì tự vệ mà giết chết một người đàn ông da trắng. KKK ngay lập tức tổ chức một cuộc tuần hành với hơn 750 người, tố cáo những chủ thuyền người Việt là cộng sản nằm vùng.

Kỳ thị tích cực cũng có những hậu quả tiêu cực

Nhiều người châu Á sống ở Âu Mỹ cảm thấy tự hào khi thỉnh thoảng được ca ngợi là sắc dân mẫu mực [Model Minority], chăm chỉ làm ăn, con cái thành đạt. Thoạt đầu, đó có vẻ là điều thuận lợi.

Tuy nhiên, mặt sau của những lời khen vẫn là những định kiến. Người Á bị mặc định bảo thủ, ngây thơ chính trị, và luôn là người ngoài cuộc. Dù sống nhiều đời ở quê hương mới, họ vẫn bị coi là ngoại bang vì định kiến không nhiệt tình tham gia vào các cuộc đối thoại làm thay đổi xã hội. Chăm chỉ kiếm tiền, họ cần im lặng ngoan ngoãn sống như một kẻ xa lạ trong nhà mà không ai cần đề phòng.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Một phụ nữ giơ cao chiếc nón Việt với dòng chữ "Stop Hate" [chấm dứt thù hằn] tại công viên Columbus, Chinatown, New York ngày 21/3/2021

Họ phải thành công, nhưng một cách vừa phải. Chạm một mức nào đó, người da trắng sẽ coi họ là đối thủ và dùng kỳ thị làm vũ khí để ngăn cản họ tranh chấp địa vị thống trị xã hội.

Cùng là dân di cư, nhưng người da trắng coi quê mới như là đất của mình chứ không phải do tranh chấp với người bản địa. Người da đen vốn bị ép di cư thì không bao giờ bị đuổi "cút trở về đất nước của mày" [Go back where you come from]. Người Á và người Mỹ la tinh là hai đối tượng hay bị "đuổi" nhất. Họ bị cho rằng chết sẽ quay đầu về quê hương, tiền gửi về cố quốc, không cố gắng nói tiếng bản xứ, kinh doanh và sống co cụm, không trung thành với quê hương mới.

Thứ hai, vài lời khen tặng đó tạo ra ảo tưởng rằng người Á không bị kỳ thị và không bị đối xử bất công. Nếu họ kêu ca, đó là trường hợp cá biệt và không cần quan tâm.

Lời khen tặng che đi sự thật là người Á thành công chủ yếu là dân gốc Ấn với tỷ lệ 8% sống dưới mức nghèo đói. Chỉ có gần 26% người Việt có bằng đại học hoặc bằng chuyên môn cao. Đây là con số thấp so với người Thái [43%], Bangladesh [44%], Filipino và Indonesia [48%], Nhật [50%], Trung Quốc [53%], Pakistan và Hàn Quốc [54%], cao nhất là Ấn Độ [72%].

Tệ hơn, ảo tưởng người Á đầy đủ giỏi giang khiến họ không được hưởng nhiều phúc lợi xã hội. Thậm chí một số trường đại học top đầu ở Mỹ đã bí mật loại sinh viên gốc Á khỏi danh sách những người trúng tuyển.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Một số trường đại học top đầu ở Mỹ đã bí mật loại sinh viên gốc Á khỏi danh sách những người trúng tuyển, theo TS Nguyễn Phương Mai [Hình minh họa]

Hệ lụy thứ ba của kỳ thị tích cực là áp lực khủng khiếp để luôn xuất hiện với tư cách sắc dân mẫu mực, dù vẫn phải chịu đủ liều lượng phân biệt kỳ thị như mọi sắc dân thiểu số khác.

Áp lực này khiến người Á có tỷ lệ trầm cảm và ý nghĩ muốn tự tử khá cao. Văn hoá Á vốn coi trầm cảm là bệnh tâm thần, đáng xấu hổ, khiến áp lực càng trở nên nguy hiểm, khi phát hiện ra thì đã muộn. Một số trường học đã phải có tư vấn riêng nhằm vào học sinh sinh viên châu Á.

Kỳ thị người Á và dục hóa phụ nữ Á Đông

Năm 2019, ca sĩ Kacey Musgraves làm dậy sóng khi biểu diễn và diện chiếc áo dài của Việt Nam mà không mặc quần. Ngoài cuộc tranh luận về cưỡng đoạt văn hoá [cultural appropriation], chuyên gia trang điểm nổi tiếng gốc Việt Michelle Phan lên tiếng phản đối chiếc áo dài không quần là một hành động dục tính hoá phụ nữ châu Á [sexual fetishization of Asian women], gắn liền hình ảnh họ với sự phục tùng tình dục.

Bỏ qua Twitter tin, 1

Cuối Twitter tin, 1

Sự dục hoá phụ nữ Á Đông bắt đầu ở phương Tây vào thế kỷ thứ 19 với hình ảnh geisha trên đồ gốm sứ, tạo ấn tượng phụ nữ Á đẹp như một thứ đồ trang trí. Trong văn hoá đại chúng, từ "China doll" - búp bê Trung Hoa - cũng hàm ý tương tự, ám chỉ người phụ nữ đẹp, im lặng, thụ động, thậm chí bị phi nhân hoá như một thứ đồ để chơi và phục vụ.

Bước vào thế kỷ 20, phụ nữ Á Đông tiếp tục gắn liền với hình ảnh những người đàn bà ngoan ngoãn, phục tùng, trẻ con, ngây ngô, và sẵn sàng phục vụ tình dục. Điều này trở nên tệ hại hơn với những cuộc chiến ở châu Á nơi nhục dục là mặt sau của đạn pháo.

Trong thế chiến hai, lính Nhật bắt giam hàng nghìn phụ nữ Hàn Quốc và Trung Quốc làm nô lệ tình dục. Trong chiến tranh Việt Nam, nước láng giềng Thái Lan trở thành nơi để lính Mỹ thoả mãn nhu cầu tình dục. Trong văn hoá và phim ảnh đại chúng, nhiều phụ nữ Việt xuất hiện với các khung hình nông cạn về lao động tình dục hoặc là người tình của lính Mỹ.

Bước vào xã hội hiện đại, phụ nữ Á Đông vẫn tiếp tục bị nhìn qua lăng kính như vậy. Trên những website hẹn hò, những cô gái châu Á thường bị coi là mục tiêu tình dục, với các lý do nhục dục như "chưa ngủ với gái Á bao giờ", "gái Á đẹp kiểu lạ lùng", "ngủ với gái Á rất biết phục tùng".

Một số website tìm vợ qua môi giới hay bộ phim tư liệu Seeking Asian Female [Tìm vợ người Á] cũng tiết lộ rằng đàn ông mong đợi ở cô dâu châu Á sự ngoan ngoãn vâng lời của một nô lệ tình dục. Trên các trang sex, phụ nữ châu Á đóng phim khiêu dâm cũng thường bị đặt vào các tư thế bị chiếm hữu, khuất phục, tra tấn, hoặc ép buộc.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Nhiều quán bar đèn đỏ ở Bangkok mọc lên để phục vụ lính Mỹ trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam [hình minh họa]

Việc coi phụ nữ châu Á là yếu đuối, ngoan ngoãn, dễ phục tùng, không dám đối kháng và tố cáo tội ác cũng là một trong những lý do khiến họ trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công thời đại dịch khi 68% nạn nhân là phụ nữ, thậm chí các bà già.

Với cuộc thảm sát 6 phụ nữ gốc Á tại Mỹ, thủ phạm cũng thú nhận ra tay vì cho rằng các cơ sở thẩm mỹ là mầm mống của tội lỗi tình dục mà anh ta muốn triệt bỏ.

Văn hóa khoan dung

Chính vì các hệ luỵ lịch sử như vậy, người da màu, bất kể đến từ đâu, đều có chung một thách thức là chủ nghĩa da trắng thượng đẳng. Người da đen đã trả giá bằng máu và sinh mạng cho những quyền bình đẳng cơ bản mà người da màu ngày nay đang tận hưởng.

Nhưng cuộc chiến ấy chưa kết thúc, quá khứ chưa khép lại. Và vì thế, văn hoá khoan dung [tolerance] trở thành yếu tố then chốt để tồn tại cùng nhau.

Ví dụ, văn hoá khoan dung khiến ta nhìn ra xa hơn sự hiềm khích mang tên Việt Nam - Trung Quốc. Mối thù ấy với ta có thể sâu đậm, nhưng với thiên hạ có khi là tiểu tiết.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Người da màu, bất kể đến từ đâu, đều có chung một thách thức là chủ nghĩa da trắng thượng đẳng

Khi ta hiểu rằng người đời thường đánh đồng dân da vàng với nhau, sự thù hằn mà họ chứng kiến khi ta chửi rủa Trung Quốc không làm họ cảm thông với ta hơn. Khi dân da vàng bị vơ đũa cả nắm, không nạn nhân nào đủ thời gian để thanh minh: "Khoan đã, tôi không phải người Trung Quốc".

Văn hoá khoan dung, vì thế, giúp ta không vô tình tự vả vào mặt mình. Nó giúp ta phân biệt được người Trung Quốc và chính phủ Trung Quốc.

Nó cũng giúp ta không để sự thù ghét che lấp một sự thật rằng, đôi khi, ta cũng có thể là đồng minh của kẻ thù.

* PGS.TS Nguyễn Phương Mai làm việc tại ĐH Khoa học Ứng dụng Amsterdam, Hà Lan, với chuyên môn quản trị đa văn hoá kết hợp với kiến thức thần kinh não bộ [neuroscience]. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

Video liên quan

Chủ Đề