Top 100 cuốn sách đoạt giải năm 2022
Bạn đang quan tâm đến Các tác phẩm đoạt giải nobel văn học phải không? Nào hãy cùng PHE BINH VAN HOC theo dõi bài viết này ngay sau đây nhé! Show
Video đầy đủ Các tác phẩm đoạt giải nobel văn họcGiải thưởng Nobel Văn học là giải thưởng cao quý nhất đối với người theo sự nghiệp văn học khi các tác phẩm đoạt giải Nobel luôn là những cuốn sách đáng đọc nhất trong đời mỗi con người nên đọc ít nhất một lần. Ngay sau đây Phê Bình Văn Học sẽ giới thiệu đến bạn đọc 12 cuốn sách đoạt giải Nobel Văn Học đáng xem nhất từ từ thập niên 1900 đến 2020. 12 Cuốn Sách Đoạt Giải Nobel Văn Học Hay nhất thế giới1. Sông Đông êm đềm – Mikhail SolokhovSông Đông êm đềm là bộ tiểu thuyết vĩ đại nhất của nhà văn Nga Mikhail Aleksandrovich Sholokhov. Với tác phẩm này, Sholokhov đã được tặng Giải Nobel văn học năm 1965. Sông Đông êm đềm miêu tả một giai đoạn lịch sử mười năm từ 1912 đến 1922 trong phạm vi địa lý rộng lớn: mặt trận miền Tây nước Nga trong Thế chiến thứ nhất, Ukraina, Ba Lan, România cho đến Sankt-Peterburg, Moskva nhưng chủ yếu diễn ra ở hai bờ sông Đông và tập trung vào một làng Cossack ven sông. Trong phần đầu của tiểu thuyết, Sholokhov đã quay lại quá khứ của gia đình Melekhov từ thời người ông nội với cô vợ người Thổ Nhĩ Kì bị người dân Cossack xa lánh và dị nghị do lối sống kì lạ. Gregori Melekhov là con thứ hai trong một gia đình ông nội là người Cossack, bà nội là người Thổ Nhĩ Kỳ. Gregori đem lòng yêu Aksinia, vợ một người hàng xóm và nhằm ngăn cản mối quan hệ này, gia đình Melekhov cưới Natalia cho chàng. Để được tiếp tục sống bên nhau, Gregori và Aksinia cùng bỏ nhà đi làm thuê. Tủi nhục, phẫn uất, Natalia đã quyên sinh nhưng không chết. Gregori phải đi lính khi đến tuổi và cùng với những chàng trai Cossack khác, trong đó có người anh Pyotr nhập ngũ trước đó chiến đấu chống lại quân Áo, Đức trong những năm đầu của Thế chiến thứ nhất. Tham gia chiến tranh, do cứu sống một Trung tá bị thương, chàng được tặng Huân chương thánh Gorge đồng thời cảm nhận thấy tính chất tàn bạo, vô nghĩa của chiến tranh và luôn day dứt về điều đó. Ở quê nhà, Aksinia sống trong cơ cực, cô đơn, tuyệt vọng, đứa con đầu lòng cũng không sống nổi vì bệnh tật, nàng đã chấp nhận quan hệ với Evgeni, con trai của chủ nhà. Bị thương và về phép, biết được chuyện của Aksinia, Gregori quay trở về sống với Natalia và sau khi chàng trở lại quân ngũ ít lâu thì Natalia sinh đôi một trai, một gái. Cách mạng tháng Mười nổ ra, trong những ngày hỗn loạn ấy, Gregori bị xô đẩy hết từ “bên Đỏ” rồi lại sang “bên Trắng”. Mặc dù chán ghét và không ý thức được mình chém giết để làm gì nhưng vó ngựa Cossack của Gregori vẫn phiêu bạt khắp các chiến trường, lao vào những trận đánh đẫm máu. Bất chấp những gì đã xảy ra, Gregori và Aksinia vẫn yêu nhau và họ đã nối lại quan hệ. Tuyệt vọng, Natalia nhờ một bà lang băm bỏ đi giọt máu của mình và Gregori mà nàng đang mang trong người rồi chết do mất máu, trước khi chết Natalia đã tha thứ cho Gregori. Không lâu sau, con gái của Gregori và Natalia cũng chết do bệnh tật. Sau khi giải ngũ về quê, đã chán ghét cảnh chém giết trên chiến trường chàng chỉ mong có một cuộc sống bình yên cùng Aksinia. Bất chấp điều đó và mặc dù giữa em gái Gregori với Miska Kosevoi, một người bạn của chàng đã trở thành đại diện cho chính quyền Xô viết trong vùng yêu nhau tha thiết, chàng luôn sống trong sự đe dọa phải trả giá cho những gì đã gây ra khi chống lại chính quyền mới. Lo sợ trước nguy cơ bị bắt giam và xét xử, Gregori bỏ trốn theo quân thổ phỉ của Fomin. Chính quyền Xô viết ngày càng được củng cố và toán phỉ của Fomin không còn đất dung thân, Gregori đem Aksinia bỏ trốn đi một nơi xa mong có được cuộc sống yên ổn nhưng trên đường trốn chạy bị phát hiện, truy đuổi, Aksinia trúng đạn chết trên tay Gregori. Cùng trong lúc này, Gregori đã đem tất cả vũ khí thả xuống sông Đông như một hành động giã từ vũ khí. Trở về vùng sông Đông, anh gặp lại con trai. Anh được biết bố mẹ đã mất, anh trai (lính bảo hoàng) bị em rể (hồng quân) giết. Tất cả những gì còn lại của Gregori trên đời là đứa con trai duy nhất. Hình ảnh cuối cùng của bộ tiểu thuyết là cảnh Gregori bồng đứa con về nhà. 2. Tên tôi là đỏ – Orhan Pamuk– Đạt Giải Nobel Văn Chương 2006 – Ẩn dấu bên trong bức màn bí ẩn, đầy lôi cuốn của câu chuyện trinh thám với những án mạng bi thảm, Tên tôi là Đỏ đã đưa độc giả trở về 4 thế kỷ trước, giữa thành Istanbul hoa lệ, khám phá chiều sâu tâm hồn của một dân tộc. Câu chuyện bắt đầu vào mùa đông năm 1591, trong lễ kỷ niệm một ngàn năm Hegira, Hoàng đế Thổ ra lệnh cho Enishte – một nhà tiểu họa tài ba, thực hiện một cuốn sách ca ngợi đế quốc của mình, và phải được minh hoạ theo phong cách Venice, vốn là lối vẽ của phương Tây. Trong bối cảnh lịch sử, văn hóa của Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ XVI, đây là một điều bị ngăn cấm, ai thực hiện có thể sẽ gặp nguy hiểm. Nhận trọng trách từ Đức vua, Enishte bí mật giao cho những nhà tiểu họa bậc thầy: Zeytin, Zarif, Leylek, Kelebek, mỗi người một phần việc riêng để hoàn thành cuốn sách mà không một ai thấy được thành phẩm hoàn chỉnh. Thế nhưng, cuốn sách chưa kịp làm xong thì những vụ án mạng đã xảy ra. Zarif – người thợ mạ vàng tài hoa bị giết chết thảm khốc và ném xác xuống giếng hoang. Sau đó, Enishte bị hạ sát ngay tại nhà bằng chiếc bình mực cổ. Kẻ sát nhân đã để lại những vết tích kỳ lạ trên cuốn sách dang dở. Bao mối hoài nghi được đặt ra, phải chăng mục đích giết người là sự đố kỵ nghề nghiệp, lòng ghen tuông tình ái… Bức màn bí ẩn chỉ thực sự hé mở vào cuổi tác phẩm. Người đi tìm lời giải mã là chàng Siyah và sư phụ Osman – một nhà tiểu họa già. Động lực tình yêu của Siyah với Shekure, con gái của Enishte, đã đưa chàng khá phá vụ án bí ẩn đó. Chính điều này khiến Tên tôi là Đỏ đa chiều hơn, phong phú hơn, đẹp đẽ hơn. Từ câu chuyện trinh thám ly kỳ, Tên tôi là Đỏ đưa ra một cuộc đối thoại Đông – Tây, để rồi từ đó khai phá chân dung và vẻ đẹp tinh thần ẩn chứa dưới những bức thành Istanbul, những nét đặc sắc đã đưa người Ba Tư trở thành một huyền thoại mãi mãi của thế giới. Cũng từ đó, tác phẩm khai phá một triết lý sống với những chiêm nghiệm về tình yêu, nghệ thuật, sự sống và cái chết. 3. Trăm năm cô đơn – Gabriel Garcia MarquezCho đến nay Trăm năm cô đơn vẫn là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của Gabriel Garcia Márquez, nhà văn Columbia, người được giải Nobel về văn học năm 1982. Trăm năm cô đơn ra đời (1967) đã gây dư luận sôi nổi trên văn đàn Mỹ Latinh và lập tức được cả thế giới hâm mộ. Sau gần hai mươi năm, Trăm năm cô đơn đã có mặt ở khắp nơi trên hành tinh chúng ta để đến với mọi người và mọi nhà. Trăm năm cô đơn là câu chuyện về dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để trốn tội loạn luân. Trong cõi cô đơn ấy, những Accađiô, Aurêlianô, Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống với số phận bi đát như đã được định trước: lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, thấp thỏm lo phạm tội loạn luân. Nhưng rồi họ yêu nhau mãnh liệt và lấy nhau với hy vọng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình. Nhưng họ vẫn đẻ ra những đứa con có đuôi lợn và chính nó đã kết liễu dòng họ Buênđya. Trăm năm cô đơn là lời kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất người – tổng hòa các mối quan hệ xã hội – của mình, hãy vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá nhân mình tự hòa đồng với gia đình, với cộng đồng xã hội. Vì lẽ đó Garcia Márquez từng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời sáng tác là cuốn sách về cái cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để sáng tạo ra một thiên huyền thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ bị kết án trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai để tái sinh trên mặt đất này. Người đọc tìm đến với Trăm năm cô đơn bởi đó là cuốn sách văn học thực sự mang hơi thở đời sống hiện đại – cuốn sách của niềm tin và những số phận con người. 4. Bác sĩ Zhivago – Boris PasternakTiểu thuyết Bác sĩ Zhivago được Pasternak viết xong năm 1956, nhưng do nội dung không thích hợp với đời sống văn học, chính trị Liên Xô lúc bấy giờ, nên đã bị Viện Văn học Moskva và Hội Nhà văn Liên Xô kịch liệt phản đối, các nhà xuất bản ở Liên Xô từ chối xuất bản, còn bản thân Pasternak bị Hội Nhà văn Liên Xô kịch liệt lên án, đả kích. Dù không được xuất bản trong nước và bị lên án dữ dội, nhưng tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago vẫn tìm được đường đến với độc giả các nước phương Tây. Năm 1957, bản thảo truyện được in thành sách tiếng Nga tại Ý. Năm sau có ấn bản tiếng Ý và tiếng Anh. Pasternak nhờ đó mà được đề nghị nhận giải Nobel văn chương năm 1958, nhưng chính quyền Xô viết bấy giờ ép ông phải từ chối nhận giải thưởng này. Mãi đến 1988, tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago mới được cho in và xuất bản tại Nga. Cho đến tận ngày nay, Bác sĩ Zhivago vẫn được xem là cuốn tiểu thuyết gây sóng gió bậc nhất, là tác phẩm văn học điển hình nhất của cuộc chiến tư tưởng giữa hai siêu cường thời Chiến tranh lạnh. 5. Trên sa mạc và trong rừng thẳm – Henryk SienkiewiczCâu chuyện kể về cuộc phiêu lưu trên vùng đất Đông Phi của cậu bé Stas mười bốn tuổi và cô bé Nell tám tuổi khi bị bắt cóc và đem từ kênh đào Suez qua sa mạc Sahara tới Sudan. Trải qua không biết bao nhiêu hiểm nguy, đối mặt với nhiều gian nan thử thách, khi thì trên sa mạc nắng cháy, lúc giữa rừng già thẳm sâu, cuối cùng, Stas và Nell cũng đoàn tụ được với gia đình. Là tác phẩm duy nhất viết cho thiếu nhi của nhà văn Ba Lan nổi tiếng Henryk Sienkiewicz, ngay từ khi xuất bản lần đầu năm 1912, Trên sa mạc và trong rừng thẳm đã được hoan nghênh nhiệt liệt, được tái bản ngay và được dịch ra nhiều thứ tiếng, sau đó được dựng thành phim năm 1973 và 2001. Trong suốt một thế kỷ qua, tác phẩm đề cao lòng quả cảm, khát vọng đi tới những chân trời xa, thực hiện những kì tích phi thường này luôn được coi là một trong những cuốn truyện hay nhất dành cho thiếu nhi. Cuốn sách Trên sa mạc và trong rừng thẳm được dịch giả Nguyễn Hữu Dũng dịch từ nguyên tác tiếng Ba Lan “W pustyni i w puszczy” – NXB Pans twowi institut widawniczi. 6. Ông già và biển cả – Ernest HemingwayÔng già và Biển cả (tên tiếng Anh: The Old Man and the Sea) là một tiểu thuyết ngắn được Ernest Hemingway viết ở Cuba năm 1951 và xuất bản năm 1952. Nó là truyện ngắn dạng viễn tưởng cuối cùng được viết bởi Hemingway. Đây cũng là tác phẩm nổi tiếng và là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm này đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1953. Nó cũng góp phần quan trọng để nhà văn được nhận Giải Nobel văn học năm 1954. Trong tác phẩm này, ông đã triệt để dùng nguyên lý mà ông gọi là “tảng băng trôi”, chỉ mô tả một phần nổi còn lại bảy phần chìm, khi mô tả sức mạnh của con cá, sự chênh lệch về lực lượng, về cuộc chiến đấu không cân sức giữa con cá hung dữ với ông già. Tác phẩm ca ngợi niềm tin, sức lao động và khát vọng của con người. 7. Từ thăm thẳm lãng quên – Patrick Modiano & SempéMột câu chuyện bỗng nhiên hiện ra từ quá khứ mịn màng. Lúc nào người ta cũng tự hỏi, làm cách nào, bằng thứ giả thuật kim nào, mà tác giả có thể tạo ra những ký ức tinh xảo đến thế. Nhưng Jaquenline, Van Bever rồi Peter Rachman, Paris và London của giai đoạn hậu chiến trong “Từ thăm thẳm lãng quên” dần dà làm cho chúng ta hiểu rằng vỏ bọc quá khứ mịn màng hoàn toàn có thể chứa đựng những kỷ niệm đâu đớn đến thế nào, những kỷ niệm ngủ yên nhưng sẽ quay trở lại quấy nhiễu chúng ta sau từng quãng thời gian mười lăm năm. Cuốn sách không chỉ dệt nên mối quan hệ kỳ lạ giữa quá khứ và thực tại, mà còn tạo ra những mối liên hệ với các tiểu thuyết khác của Patrick Modiano, nhất là ” Ở quán cà phê của tuổi trẻ lạc lối” Theo top7thuvi.com 8. Mãi Đừng Xa TôiMãi Đừng Xa Tôi là câu chuyện mang tính khoa học giả tưởng, lấy bối cảnh nước Anh cuối thế kỷ 20. Mãi Đừng Xa TôiKathy, Ruth và Tommy xuất thân từ một ngôi trường đặc biệt: trường nội trí Hailsham. Những con người ở đó đều có chung một số phận được định đoạt. Họ chấp nhận số phận, nhưng vẫn khát khao trì hoãn. Với giọng điệu bình thản như mặt biển sóng ngầm, câu chuyện kể về một hiện thực đáng sợ diễn ra trong một thế giới “giả tưởng”, nhưng cũng không xa lắm thế giới “thật tưởng” mà chúng ta đang sống. Câu chuyện ám ảnh chúng ta bởi tiếng kêu đau đớn đến xé lòng về tình yêu và hạnh phúc. Nó buộc chúng ta phải suy nghĩ lại về giá trị Người của chính mình. Câu chuyện khép lại trong một kết thúc không thể nào khác được càng khiến cho ta hiểu thêm về giá trị nhân văn, nhân đạo, giá trị của con người. Tác phẩm rất xứng đáng là một trong 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ năm 1923. Một cuốn tiểu thuyết tình cảm, giả tưởng mà tất cả chúng ta nên đọc qua ít nhất một lần. 9. Trò Chuyện Trong Quán La CatedralTrò Chuyện Trong Quán La CatedralSantiago Zavalita, con trai của một kỹ nghệ gia giàu sang, đã từ bỏ tất cả cơ hội tiến thân để làm cho một tờ báo nhỏ, sau khi cảm thấy không cuộc sống nào thực sự dành cho mình – một luật sư thành đạt theo mong ước của gia đình, hay một thành viên nhiệt thành của Đảng cộng sản theo những người bạn cùng trường đại học. Một ngày, trong khi đi tìm con chó bị lạc, anh tình cờ gặp lại Ambrosio, người tài xế trung thành đã phục vụ cha của anh trong nhiều năm, giờ tay trắng, sống vất vưởng ở một góc thành phố Lima. Bên những chai bia trong quán rượu La Catedral, họ trôi theo dòng quá khứ của cả hai. Từ cuộc trò chuyện đó, không gian mở rộng cho những giọng nói của người sống và người chết thi nhau kể lại số phận nhỏ nhoi và những nỗi khổ đau ngỡ đã tan biến trong dòng thác lịch sử. Cuốn tiểu thuyết chứa đựng hàng loạt nhân vật đại diện cho các loại người, các tầng lớp trong xã hội Peru dưới thời tên độc tài Odría. Don Fermín, cha của Santiago, một kỹ nghệ gia có nhiều dính líu mờ ám đến chính quyền; Cayo Bermudez, giám đốc An ninh của chính quyền Odría, một kẻ đê tiện; bọn tay sai của Bermudez phục vụ cho những thủ đoạn chính trị dơ bẩn; Hortensia – người tình của Bermudez, đã bị giết vì nắm được bí mật của Don Fermín; Amalia, hầu gái của gia đình Santiago và sau đó là Hortensia, vợ của Ambrosio; Queta, gái điếm và người tình đồng giới của Hortensia… Mỗi người đều dường như không thể thoát ra khỏi tiến trình tha hóa và sụp đổ, tiêu biểu là Ambrosio, vừa là nạn nhân vừa là tội phạm, xuất thân là kẻ cùng đinh và cuối cùng mất tất cả. Ngay chính Santiago, một thanh niên thông minh, trong sáng và đầy nhiệt tâm, cuối cùng cũng vỡ mộng, chán nản kéo lê cuộc sống tẻ nhạt của một phóng viên vô danh, “không là luật sư và cũng chẳng là hội viên của Club Nacional, không là kẻ vô sản cũng chẳng là tay tư sản”. Dù không chịu trở về với gia đình để trở thành trưởng giả, anh đã đủ trưởng thành để thôi huyễn tưởng về những thứ đã chi phối cả tuổi trẻ mình: “Còn nếu mày gia nhập hôm ấy thì sao, Zavalita? hắn nghĩ. Phải chăng nhiệt tình tranh đấu sẽ lôi mày theo, càng lúc càng dấn sâu vào hơn, mày có sẽ trở thành một kẻ có niềm tin, một kẻ lạc quan, một kẻ trong trắng khác, bí hiểm và anh hùng?… Thay vì những bài xã luận chống chó dại trên La Crónica, mày sẽ viết cho những trang in nghèo nàn của Unidad… Mày sẽ tệ hại hơn hay cũng thế hay hạnh phúc hơn? Hắn nghĩ: ồ, Zavalita”. 10. ĐẸP VÀ BUỒN – KAWABATA YASUNARIĐẸP VÀ BUỒN – KAWABATA YASUNARITheo thời gian, những tác phẩm văn học của Kawabata Yasunari vẫn luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với đông đảo độc giả trên toàn thế giới, phản ảnh nhiều phương diện văn hóa của xứ sở Mặt Trời mọc cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật Bản. Lấy bối cảnh chính là cố đô Kyoto, Đẹp và buồn là câu chuyện tình tay ba đầy bi kịch của nhà văn Oki với tình nhân Otoko và người vợ Fumiko của ông. Oki say mê vẻ đẹp thanh khiết của thiếu nữ Otoko khi ấy mới 17 tuổi, để rồi khi cô có thai, ông lại không dám chia tay vợ mình để đến với cô, khiến Otoko sinh non đứa bé. Sau này, Oki viết tác phẩm Thiếu nữ mười sáu như một lời gợi nhắc về mối tình vấn vương giữa ông và cô thiếu nữ năm nào nhưng rồi chính nó lại là tác nhân khiến vợ ông sảy thai. Đam mê và nhục cảm hòa quyện cùng vẻ đẹp tình yêu đồng thời cũng là nét đẹp điên rồ của lòng hận thù, tạo thành một cuộc truy lùng, đeo đuổi mãi không dứt. 11. CỦA CHUỘT VÀ NGƯỜI – JOHN STEINBECKCỦA CHUỘT VÀ NGƯỜI – JOHN STEINBECKVới Của chuột và người, John Steinbeck đã đóng góp cho nền văn chương thế giới một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nhất về tầng lớp lao động. Lấy bối cảnh nước Mỹ trong giai đoạn Đại Khủng hoảng kinh tế những năm 1930, Của chuột và người là câu chuyện bi thương của George và Lennie – 2 gã đàn ông lang thang tìm việc làm tại các nông trại ở California. Thông qua số phận của họ, John Steinbeck đã khắc họa một cách đau đớn nỗi khốn cùng của người dân lao động Mỹ, những mảnh đời cơ cực giữa một xã hội đầy rẫy bất công. Khát khao làm chủ của George và Lennie tương phản một cách phũ phàng với thực tế diễn ra tại nơi họ làm việc. Còn ước mơ và hoài bão của những người như họ thì mãi mãi chỉ là ảo vọng xa vời. 12. CHÚA RUỒI – WILLIAM GOLDINGCHÚA RUỒI – WILLIAM GOLDINGChúa ruồi là tuyệt phẩm văn học của William Golding, mang đến cho người đọc những phút giây rùng mình kinh hãi và đặt ra câu hỏi, liệu có phải “nhân chi sơ, tính bản thiện”? Diễn ra trong bối cảnh một cuộc chiến tranh nguyên tử, chiếc máy bay chở mấy chục đứa trẻ đi sơ tán gặp tai nạn và rơi xuống một hoang đảo tại Thái Bình Dương. Những đứa trẻ ấy đã phải tự sinh tồn, bắt đầu một cuộc sống tự lập. Xung đột nổ ra trước những khó khăn và thiếu thốn về lương thực nơi hoang đảo cùng nỗi thất vọng khi chúng bỏ lỡ cơ hội được cứu sống. Cuối cùng, xung đột lên đến đỉnh điểm đã bộc lộ sự tàn ác trong mỗi đứa trẻ. Câu chuyện được đẩy lên cao trào bằng những hành động sai trái mất kiểm soát. Để hiểu rõ nguồn gốc các cuốn sách này ra đời như thế nào? ở đâu? Hãy cùng xem tiếp nhé Bạn đang xem: Các tác phẩm đoạt giải nobel văn học Danh sách những người đoạt giải Nobel Văn Học
Nobel Văn học công bố vào ngày 8/10, được giới chuyên môn dự đoán có kết quả an toàn sau những bê bối gần đây. Trải qua hơn 100 năm, giải thưởng nhiều lần gây tranh cãi vì các nguyên nhân khác nhau.Viện Hàn lâm Thụy Điển từng chọn một số nhân vật hoạt động trong các lĩnh vực khác, khiến nhiều người trong giới văn chương không hài lòng. Năm 2016, họ vinh danh ca sĩ, nhạc sĩ Bob Dylan, làm nhiều nhà văn, nhà thơ bất mãn. Tiểu thuyết gia Jodi Picoult nói: “Tôi mừng cho Bob Dylan, nhưng điều này đồng nghĩa tôi cũng có thể thắng giải Grammy?”. Những nhân vật “ngoại đạo” khác cũng từng thắng Nobel Văn học là Winston Churchill và Bertrand Russell. Nhà văn A.N. Wilson thể hiện quan điểm trên Telegraph: “Họ đáng trọng ở một lĩnh vực nào đó nhưng khó lòng xứng đáng với một giải thưởng văn chương, bất luận là để cho ban giám khảo nào đánh giá”. Cố thủ tướng Anh Winston Churchill có hai cuốn hồi ký liên quan đến chiến tranh thế giới, từng đoạt Nobel Văn học năm 1953. Nhiều chuyên gia nhận định ông phù hợp thắng Nobel Hòa bình. Học giả Anh – Bertrand Russell – có nhiều tác phẩm liên quan triết, logic học, toán học nhưng giành giải Nobel Văn học năm 1950. Bob Dylan vắng mặt ở lễ trao giải Nobel Văn học năm 2016, ông gửi bài diễn từ đến ban tổ chức. Ảnh: AFP. Nhiều cây bút không được ủng hộ vì bị cho rằng tên tuổi chưa đủ sức nặng. Khi tác giả người Đức – Herta Mueller – giành giải năm 2009, nhiều nhà nghiên cứu bày tỏ thất vọng vì họ chưa từng nghe thấy tên bà. Cây bút Thom Geier viết trên tờ EW: “Một lần nữa, Viện Hàn lâm Thụy Điển chọn một người vô danh thắng Nobel Văn học. Herta là ai? Bạn sẽ hỏi như vậy và bạn không phải là người duy nhất thắc mắc về điều đó. Mueller ở đưới đáy của danh sách cá cược mà nhà cái Ladbrokes đưa ra. Chỉ vài cuốn của bà từng được dịch sang tiếng Anh…”. Năm 2004, chiến thắng của nữ nhà văn Áo Elfriede Jelinek không thuyết phục bởi tên tuổi bà không vượt ra phạm vi cộng đồng nói tiếng Đức. Knut Ahnlund – một trong 18 thành viên bình chọn giải – đã rời Hội đồng để bày tỏ thái độ phản đối. Sự kiện đau lòng nhất liên quan đến Nobel Văn học bắt nguồn từ giải thưởng năm 1974. Hai người đồng chiến thắng năm đó – Harry Martinson và Eyvind Johnson – nằm trong hội đồng 18 thành viên bình chọn giải. Độc giả, giới văn sĩ sau đó phản đối vì tác phẩm của hai ông không được phổ biến bằng cả tiếng Anh và tiếng Thụy Điển. Báo chí, các nhà văn Thụy Điển cho rằng Viện Hàn lâm đã thiên vị hai tác giả. Theo danh sách được tiết lộ hàng chục năm sau đó, Graham Greene, Saul Bellow, Vladimir Nabokov là những tên tuổi nổi tiếng hơn cùng được đề cử năm đó. Năm 1978, Harry Martinson tự tử bằng cách mổ bụng giống các samurai Nhật. Bạn thân của ông – Lars Gyllensten, người từng giữ chức Thư ký Viện Hàn lâm – nói sự ích kỷ của giới văn sĩ Stockholm đã dẫn đến cái chết của Martinson. Tờ Independent nói Harry Martinson chết để giữ gìn danh dự. Nhiều nhà văn bị phản đối vì quan điểm chính trị của họ. Gần nhất, chủ nhân giải thưởng năm ngoái – ông Peter Handke – bị tẩy chay vì từng công khai bảo vệ nhà chính trị quá cố – Slobodan Milosevic. Cựu Tổng thống Nam Tư Slobodan bị cáo buộc 66 tội danh liên quan đến diệt chủng, tội ác chống loài người và tội phạm chiến tranh trong các cuộc xung đột đẫm máu ở Bosnia, Croatia và Kosovo những năm 1990. Tổ chức nhân quyền PEN America nói họ “chết lặng” khi nghe tin Peter Handke được vinh danh, “thất vọng với quyết định của Ủy ban Nobel về giải thưởng này”. Nhà văn Peter Handke. Ảnh: AFP. Giải Nobel năm 2012 giành cho Mạc Ngôn bị Hertha Muller – người đoạt giải năm 2009 – gọi là “thảm họa”, thậm chí khiến bà bật khóc. Trên tờ agens Nyheter của Thụy Điển, Muller nói một tác giả luôn “dùng văn chương để phục vụ mục đích chính trị như Mạc Ngôn” không xứng đáng với giải thưởng cao quý. Các tác phẩm của Mạc Ngôn thường chứa đựng những bình luận xã hội, phản biện các chính sách khắc nghiệt, được cho là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ quan điểm chính trị của Lỗ Tấn và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Gabriel Garcia Marquez. Những câu chuyện thường có bối cảnh gần quê hương ông, thành phố Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Một vài cuốn sách của Mạc Ngôn từng bị cấm tại quê nhà vì yếu tố “khêu gợi và thô tục”. Tiểu thuyết “Ếch” của Mạc Ngôn phê bình trực tiếp hơn chính sách “gia đình một con” nhằm kiểm soát gia tăng dân số nhưng cũng mang đến không ít bị kịch cho người dân Trung Quốc hơn 30 năm trước. Ảnh: AFP. Nobel Văn học là một trong sáu hạng mục của giải Nobel, được trao hàng năm cho tác giả từ bất kỳ quốc gia nào, theo di chúc của nhà hóa học Alfred Nobel. Viện Hàn lâm Thụy Điển sẽ lựa chọn người thắng cuộc. Họ không bao giờ hé lộ dấu hiệu về nhân vật có khả năng đoạt giải cho tới khi công bố kết quả. Danh sách rút gọn của các ứng viên sẽ được tiết lộ 50 năm sau đó. Giải lần đầu được trao cho nhà thơ Pháp – Sully Prudhomme – năm 1901. Chuyên mục: Văn Học Như vậy trên đây chúng tôi đã giới thiệu đến bạn đọc Các tác phẩm đoạt giải nobel văn học. Hy vọng bài viết này giúp ích cho bạn trong cuộc sống cũng như trong học tập thường ngày. Chúng tôi xin tạm dừng bài viết này tại đây. Website: https://phebinhvanhoc.com.vn/ Thông báo: Phê Bình Văn Học ngoài phục vụ bạn đọc ở Việt Nam chúng tôi còn có kênh tiếng anh PhebinhvanhocEN cho bạn đọc trên toàn thế giới, mời thính giả đón xem. Chúng tôi Xin cám ơn! Xem thêm:
Khám phá những cuốn sách mới về Goodreads Gặp gỡ cuốn sách yêu thích tiếp theo của bạn Tạp chí Time 100 tiểu thuyết mọi thời đại Tạp chí 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất mọi thời đại của tạp chí Time từ 1923 đến 2005.http: //www.time.com/time/2005/100book ... Ghi bànTổng số điểm của cuốn sách dựa trên nhiều yếu tố, bao gồm cả số người đã bỏ phiếu cho nó và các cử tri đó cao như thế nào đã xếp hạng cuốn sách. Danh sách thách thức Thành viên Goodreads trung bình đã đọc 12 trong số 100 cuốn sách trong danh sách này - bạn đã đọc bao nhiêu?
Skybypaul Bowles Sheltering 3,90 AVG - 26.756 xếp hạng Sách xếp hạng lỗi. Làm mới và thử lại. Showing 1-50 of 134 (134 new) The Sportswriterbyrichard Ford 3,70 AVG Xếp hạng - 18.078 Xếp hạng Search for a book to add a reference The Berlin Storiesbychristopher Isherwood 4.04 Xếp hạng AVG - 11.419 Xếp hạng Cái chết trong FamilyByjames Ageee 3,90 AVG Xếp hạng - 15.473 xếp hạngCông nhận ThbyWilliam Gaddis 4.20 AVG Xếp hạng - 5.271 xếp hạngvote for this book clicking it will add that book to your votes. Chó Soldiersbyrobert Stone 3.70 Xếp hạng AVG - 6.659 xếp hạng Cuốn sách số 1 trên thế giới là gì?Top 100 cuốn sách bán chạy nhất mọi thời đại. Giải thưởng uy tín nhất mà một cuốn sách có thể nhận được là gì?Một trong những giải thưởng sách uy tín nhất: Giải thưởng Nobel về văn học.Đây là giải thưởng văn học lâu đời nhất được trao từ năm 1901. Giải thưởng Nobel trong văn học đã được trao 115 lần cho 119 người được giải thưởng Nobel trong khoảng thời gian từ 1901 đến 2022.The Nobel Prize in Literature. This is the oldest literary award bestowed since 1901. The Nobel Prize in Literature has been awarded 115 times to 119 Nobel Prize laureates between 1901 and 2022.
Cuốn sách được đọc nhiều nhất trong năm 2022 là gì?Thêm vào kệ của độc giả hơn 818.000 lần, cuốn sách phổ biến nhất trong năm cho đến nay trong số các nhà phê bình Goodreads là "nhắc nhở về ông" của Colleen Hoover.Reminders of Him" by Colleen Hoover.
Cuốn sách ấn tượng nhất để đọc là gì?Những cuốn sách vĩ đại nhất mọi thời đại.. 1.Để tìm kiếm thời gian bị mất của Marcel Proust..... 2.Ulysses của James Joyce..... 3.Don Quixote của Miguel de Cervantes..... 4 .Một trăm năm cô đơn của Gabriel Garcia Marquez..... 5.The Great Gatsby của F. Scott Fitzgerald..... 6.Moby Dick của Herman Melville..... 7.Chiến tranh và hòa bình của Leo Tolstoy..... |