Vai trò của đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử


1.3 CÁC LOẠI  ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG  DẠY HỌC LỊCH SỬ


Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về phân loại đồ dùng trực quan: Một số phân loại theo đặt trưng về nội dung và tính chất của hình ảnh lịch
sử do đồ dùng trực quan mang lại. Một số phân loại theo đặt trưng bên ngoài như hình dạng, kỹ năng chế
tạo, phương thức tạo hình. của đồ dùng trực quan Có ý kiến chia đồ dùng trực quan ra ba nhóm 1 Hiện vật 2 đồ dùng tạo
hình tranh, phim, đồ dùng phục chế. 3 đồ dùng quy ước  bản đồ, đồ thị  dù có những quan niệm khác nhau trong việc phân loại đồ dùng trực quan song
về cơ bản chúng ta có thể chia thành ba nhóm lớn thường được sử dụng trong DH ở trường phổ thông:
Những hiện vật còn lại của quá khứ lịch sử Đồ dùng trực quan tạo hình
Đồ dùng trực quan quy ước hay tượng trưng
1.3.1 Nhóm thứ nhất: Đồ dùng trực quan hiện vật bao gồm những di tích lịch
sử  tượng người bằng đất nung trong khu lăng mộ Tần Thủy Hoàng, toàn cảnh Cố cung bắc kinh, Một đoạn vạn lí trường thành
Đồ dùng trực quan hiện vật là một loại tài liêu gốc có giá trị, có ý nghĩa to lớn về mặt nhận thức, thông qua việc tiếp xúc với những di tích, HS sẽ có
những hình ảnh cụ thể, chân thực về quá khứ, và từ đó có tư duy lịch sử đúng đắn.
Ví dụ: Để dạy bài 5: Mục 1: Thì dùng tượng người bằng đất nung trong khu lăng mộ Tần
Thủy Hoàng HS quan sát hiện vật niêu trên sẽ giúp cho các em biết được đời sống của
các vị vua và lực lượng quân sự về chế độ cai trị của thời đó. Đồng thời giúp HS hiểu hiểu công sức của các nghệ nhân đã huy sinh để có những tượng người
hoàn hảo.
Tuy nhiên việc sử dụng còn hạn chế do có sẵn trong trường, mà ở di tích nói không còn nguyên vẹn, bị hủy hoại qua thời gian, vì vậy việc nghiên cứu
hiện vật HS phải phát huy tính sáng tạo và tưởng tựng tư duy lịch sử. Vì vậy khi có điều kiện GV nên tổ chứ dạy ngay trong các nhà bảo tàng gay các nơi diễn ra
các sự kiện lịch sử
1.3.2 Nhóm thứ hai: Đồ dùng trực quan gồm những loại mô hình phục chế sa bàn, tranh ảnh lịch sử.
Do khả năng khôi phục lại hình ảnh của những con người, đồ vật biến cố, hiện tượng quá khứ một cách sinh động, cụ thể và khả năng xát thực bằng các
phương tiện của nghệ thuật tạo hình, đồ dùng trực quan tạo hình có nhiều loại.

1.3.2.1 Mô hình sa bàn các loại phục chế khác:


Là đồ dùng trực quan tạo hình vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính khao học trong một mức độ nhất định, nói làm sống lại khung cảnh xã hội, GV làm
thế nào hướng dẫn cho HS làm các mô hình sa bàn, đồ phục chế về công cụ lao động, qua đó rèn luyện cho HS thói quen lao động, làm phong phú kiến thức HS.

1.3.2.2 Hình ảnh và hình vẽ lịch sử:


Là đồ dùng trực quan tạo hình có khả năng cung cấp cho HS hình ảnh tương đối hoàn chỉnh và chân thực về quá khứ như hình ảnh; một đoạn vạn lí
trường thành qua đó nhằm hệ thống sự kiện lớn quan trọng làm đề tài nhằm minh họa cụ thể kiến thức của HS.

1.3.2.3 Phim học tập:  giáo khoa phim truyện


Cũng là loại đồ dùng trực quan tạo hình, bằng hình tượng nghệ thuật nó đã khôi phục lại những hình ảnh điển hình, cụ thể về một sự kiện lịch sử. Nó gây
cho HS những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc vê quá khứ. Phim truyện và phim học tập cũng có những tính chất của nghệ thuật và
tranh giáo khoa nêu trên, như bằng sự phối hợp của âm nhạc, diễn xuất, lời nói,
màu sắc nên có tác động mạnh mẽ đến HS. 1.3.3 Nhóm thứ ba: Đồ dùng trực quan quy ước bao gồm các loại bản đồ lịch
sử, đồ thị, đồ họa, niên biểu. Loại đồ dùng trực quan này tạo cho HS những
ảnh tượng trưng, khi phản ảnh những mặt chất lượng và số lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng phát triển của hiện tượng kinh tế  chính trị của
đời sống. Nó không chỉ là phương tiện để cụ thể hóa sự kiện mà còn là cơ sở để hình thành khái niệm lịch sử cho HS.
Trong DH lịch sử ở trường THPT GV thường sử dụng các loại đồ dùng trực quan quy ước sau:

1.3.3.1 Bản đồ:


Lịch sử nhằm xác định sự kiện trong thời gian và không gian nhất định. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp HS suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch
sử về mối quan hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình lịch sử, giúp cho các củng cố nghi nhớ kiến thức đã học.
Về hình thức, bản đồ lịch sử không cần có nhiều chi tiết về điều kiện thiên nhiên mà cần có những kí hiệu về biên giới, và các quốc gia của, sự phân bố dân
cư. Về nội dung bản đồ chia thành hai loại chính: bản đồ tổng hợp và bản đồ
chuyên đề . Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một
nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kì nhất định.
Bản đồ chuyên đề : Nhằm diển tả những sự kiện riêng lẻ hay một mặt
của quá trình lịch sử, như diễn biến của một trận đánh, sự phát triển kinh tế của một nước trong một giai đoạn lịch sử.
Trong thực tế DH lịch sử cần có sự kết hợp của hai loại bản đồ nêu trên khi trình bày một sự kiện. Việc sử dụng bản đồ trong DH là điều kiện cần thiết,
không thể thiếu được trong điều kiện nước ta hiện nay.
1.3.3.2 Niên biểu: Là hệ thống hóa các sự kiện theo thứ tự thời gian, đồng thời
nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước trong một thời kì. Về niên biểu có thể chia ra mấy loại chính như sau:
Niên biểu tổng hợp: Là bản kê những sự kiện lớn xảy ra trong một thời
gian dài. Niên biểu này giúp HS không những ghi nhớ những sự kiện chính, mà còn nắm các mốc thời gian đánh dấu mối quan hệ của các sự kiện quan trọng.
Niên biểu chuyên đề: trình bày những vấn đề quan trọng nổi bậc nào đấy
của một thời kì lịch sử nhất định, nhờ đó mà HS hiểu được bản chất sự kiện một cách đầy đủ.
Niên biểu so sánh: Dùng để đối chiếu so sánh các sự kiện xảy ra cùng
một lúc trong lịch sử, nhằm làm nổi bản chất, đặt trưng của các sự kiện ấy, hoặt để rút ra một kết luật khái quát có tính chất nguyên lí.
1.3.3.3 Đồ thị: Dùng để diễn tả quá trình phát triển, sự vận động của một sự
kiện lịch sử, trên cơ sở sử dụng số liệu, tài liệu thống kê trong bài học, đồ thị có thể biểu diễn bằng một mũi tên để biểu diễn trên các trục hoành  ghi thời gian
và trục tung  ghi sự kiện

1.3.3.4 Hình vẽ bằng bấn đen trên bảng: Minh họa ngay những sự kiện trình


bày miệng mà không cần sử dụng một loại trực quan nào khác.

1.3.3.5 Các phương tiện khác trong dạy học:


Do sự phát triển mạnh mẽ của khao học kỹ thuật mà việc áp dụng các phương tiện kỹ thuật vào DH lịch sử ngày càng tăng, nói đến phương tiện kỹ
thuật giáo dục là nói đến trước hết là các phương tiện dùng trong việc giảng dạynhư kênh hình, phim ảnh máy ghi âm, máy phóng hình... Trong DH lịch sử
các phương tiện kỹ thuật thường được sử dụng ngày càng nhiều trong trường THPT Việt Nam đã có điều kiện và khả năng sử dụng,  như màn hình nhỏ tivi,
đèn chiếu, radio, máy ghi âm những phương tiện này cần có trong DH lịch sử, song không thể nào thay thế cho các đồ dùng trực quan đã có, càng không
thể vai trò của người GV trên lớp. Vì vậy vấn đề đặt ra là phối hợp như thế nào các đồ dùng trực quan vốn có và các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong DH
lịch sử và vai trò của GV sẽ như thế nào trong việc tổ chức DH có hiệu quả. Dĩ nhiên, trong khuôn khổ một giờ học không thể sử dụng mọi loại đồ dùng trực
quan mà cần phải lựa chọn và biết cách sử dụng tùy theo tình hình cụ thể và đặc điểm của từng lớp học.
Phim đèn chiếu: Là loại màng ảnh phổ biến, đơn giản, dễ sử dụng, phù
hợp với điều kiện của chúng ta. Nội dung của phim đèn chiếu được xây dựng trên cơ sở sự kiện cơ bản trình bày quá trình lịch sử, với nhiều tài liệu minh họa
phong phú hấp dẫn.
Phim video   băng ghi hình: Đây là loại đồ dùng với nhiều nội dung
phong phú kết hợp chặt chẽ với hình ảnh lời nói và âm nhạc, tác động vào các giác quan của HS cung cấp một khối lương thông tin lớn, hấp dẫn, không một
nguồn kiến thức nào sánh kịp. Hình ảnh màu sắc, âm thanh tạo cho HS biểu tượng sinh động về quá khứ, làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng
sự kiện sinh động về quá khứ, làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng sự kiện. Điều này góp phần khắc phục việc  hiện đại hóa lịch sử.
Việc sử dụng phim đèn chiếu, phim video trong DH lịch sử không để giải trí, minh họa bài học mà chủ yếu là bổ sung kiến thức giúp HS hiểu sâu hơn bài
học.
Tóm lại: Việc phân loại các đồ dùng trực quan chỉ mang tính chất tương
đối, vì trong thực tế lại có những vấn đề cụ thể cần được xem xét. Ví dụ: Ảnh chụp về một sự kiện lịch sử là một tài liệu trực quan  trước hết là một tư liệu
lịch sử có giá trị có ý nghĩa rất lớn trong việc DH sinh, song lại có ảnh chụp sự kiện đang diễn ra và loại ảnh đang chụp lại vì lúc bấy giờ không có điều kiện
chụp . Giá trị ý nghĩa của những bức tranh lịch sử, phim truyện về đề tài lịch sử cũng còn bàn luận nhiều dù còn nhiều vấn đề cần nghiên cứu, song ý nghĩa của
đồ dùng trực quan trong DH lịch sử là điều được khẳng định.
1.4 THỰC TIỂN CỦA VIỆC SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở CHƯƠNG III, PHẦN I SGK
LỊCH SỬ 10 CƠ BẢN TRƯỜNG THPT.

1.4.1 Mục đích điều tra, khảo sát


Mục đích điều tra, khảo sát là xem việc sử dụng đồ dùng trực quan của thầy và trò như thế nào.
Quan sát sư phạm, trao đổi với GV và HS trường THPT Mai Thanh Thế về tình hình sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào?
Qua đó có những nhận xét, đánh giá để làm cơ sở cho đề tài thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử chương III, phần I, SGK lịch sử
10 cơ bản trường THPT. Nhằm nâng cao hiệu quả DH.
1.4.2 Nội dung kiểm tra: Đối với GV: Phát phiếu điều tra về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong
dạy học lịch sử ở trương phổ thông. Qua đó để biết những khó khăn và thuận lợi của GV khi sử dụng đồ dùng trực quan. Sau đó thu phiếu điều tra lại và qua đó
để làm kết quả đánh giá về việc sử dụng đồ dùng trực quan.
Đối với HS: Qua phát phiếu điều tra tình hình học tập của HS. Và trao đổi
với HS về việc học đối với đồ dùng trực quan như thế nào. Sau đó thu phiếu điều tra lại để rút ra kết quả của HS về việc học với đồ dùng trực quan.
Thực tế bằng thực nghiệm sư phạm: Một vài tiết, để qua đó thấy được
thực tế của việc DH của GV và HS với đồ dùng trực quan.

1.4.3 Kết quả điều tra


Để có cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài, tôi tìm hiểu thực trạng DH môn lịch sử nói chung và chương III, phần I, SGK lịch sử 10 cơ bản  trường THPT.
1.4.3.1 Nhận thức của GV về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường THPT
Để có cái nhìn toàn viện về vấn đề này, chúng tôi tiến hành phát phiếu điều tra cho GV có kinh nghiệp trong nghề [ phụ lục 2]. Đối tượng tìm là GV
trường THPT Mai Thanh Thế. Tất cả các phiếu khi được hỏi về nhận thức, 100 điều nhất trí về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thiết kế và sử dùng trực quan
trong DH lịch sử. Các ý kiến của các thầy cô điều cho rằng: sử dụng đồ trực quan kết hợp với phương pháp sư phạm khác điều có tác dụng.
Kích thích khả năng tư duy năng động của HS
Khắc sâu kiến thức trong HS Gây hứng thú học tập, mang lại hiệu quả cao trong quá trình DH
Giúp HS tiếp cận với phương pháp tranh luận khoa học, phát triển năng lực tư duy và ngôn luận cho HS
Người học nhận thức sâu bản chất của vấn đề từ đó vận dụng linh hoạt tri thức lịch sử vào thực tiễn.
Khắc phục được những phương pháp DH truyền thống. Tổng hợp các ý kiến nêu trên có thể thấy một sự thống nhất trong việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong DH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của HS. Mang lại hiệu quả cao trong quá trình
DH . Về mức độ sử dụng đồ dùng trực quan: Trong 10 GV được phỏng vấn có
ba ý kiến trả lời thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan; có 4 GV sử dụng ở mức độ vừa phải; số còn lại trả lời không thường xuyên; chỉ sử dụng ở một số
bài. Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng nêu trên cho thấy: Số GV thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan phần lớn là GV có thời
gian công tác lâu năm trong nghề, có ý thức đổi mới phương pháp DH từ rất sớm nên có kinh nghiệm trong thiết kế cũng như sử dụng .
Số GV sử dụng đồ dùng trực quan ở mức độ vừa phải là những GV có ý thức đổi mới nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong thiết kế cũng như sử dụng .
Số GV không sử dụng thường xuyên, nêu lên rất nhiều khó nhưng tập trung lại điều cho thấy họ không có kinh nghiệm thiếu tài liệu tham khảo và do
đó việc thiết kế mất nhiểu thời gian và công sức nhưng hiệu quả không cao. Từ tình hình nêu trên có thể thấy, các GV ở trường THPT đều nhận thức
được ý nghĩa, tác dụng của việc thiết kế, sử dụng đồ dùng trực quan trọng DH lịch sử. Họ đều nhận thấy việc sử dụng đồ dùng trực quan trong DH lịch sử là
một trong những biện pháp quan trọng nhằm đổi mới phương pháp DH. Họ cũng mong muốn có tài liệu để học tập, tham khảo và vận dụng.
1.4.3.2 Nhận thức của HS về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong DH lịch sử ở trường phổ thông.
Thông qua điều tra, trao đổi về tác dụng của sử dụng dồ dùng trực quan trong DH ịch sử với 60 em HS[ phụ lục 1], kết quả thu được như sau:
Về tâm lí học tập: Đa số các em cho rằng việc sử dụng đồ dùng trực quan trong DH đã làm cho  giờ học trở nên hứng thú và bổ ích,  phần lớn HS cho rằng
giờ học lịch sử và giờ học bình thường, số còn lại cho đó là giờ học cưỡng bức. Về múc độ sử dụng và chất lượng của đồ dùng trực quan: Tìm hiểu nguyên
nhân HS ích hứng thú khi tham gia giờ học lịch sử có thể thấy ngoài việc GV ích sử dụng các biện pháp kích thích năng lực tư duy của HS còn có nguyên nhân là
câu hỏi của đồ dùng trực quan đặc ra không vừa sức đối với HS khiến các em chán nản, không gây hứng thú học tập.
Khi trao đổi với HS sau khi học giờ thực nghiệm, với cách dạy này các em không còn cảm thấy  sợ môn lịch sử nữa, trái lại đã có hiện tượng tranh
luận với nhau về một vấn đề lịch sử mà các em cho là giải quyết chua thỏa đáng. Tiếp xúc với một số học sinh có trình độ trung bình các em tâm sự.
Trước đây em rất ghét môn lịch sử vì việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử làm em mất nhiều thời gian học thuộc lòng; qua tiết vừa rồi với
việc được xem đồ dùng trực quan và trả lời các câu hỏi do GV đặt ra và tranh luận với các bạn buộc em phải tìm kiếm các sự kiện, hiện tượng để lập luận và
thế là không cần học thuộc lòng em đã nắm bắt nội dung một cách tự nhiên không cần gò bó gì cả
Một HS khác phát biểu  em thích những giờ   học như thế vì nó khiến chúng em tập trung hơn, tuy nhiên các em HS yếu vẫn chưa thật sự hội nhập.
Theo em cần có nhiều đồ dùng trực quan và câu hỏi đi từ khó đến dể nhiều hơn nửa thì giờ học mới thoải mái
Như vậy, qua điều tra GV và HS ở các trường THPT trong huyện Ngã Năm, chúng tôi rút ra kết luận chung như sau:
Một là, Việc thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan để phát huy tính tích
cực trong DH lịch sử nói chung và trong chương III, phần I SGK lịch sử lớp 10 cơ bản trường THPT, nói riêng đã dược nhiều GV quan tâm, chưa áp dụng
có hiệu quả trong thực tiển, do đó chưa tạo nên hứng thú cho HS.
Hai là, cần phải đổi mới phương pháp DH lịch sử cả trong nhận thức và
hành động của người dạy, GV cần biết nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi để nâng cao chất lượng giờ học nhất là việc thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan trong DH
lịch sử.
Ba là: Việc thiết kế và sử dụng đồ dùng trực quan trong DH lịch sử phải
được tiến hành đồng bộ, toàn việc và có hiệu quả rõ rệt.
Bốn là: GV cần cung cấp nguồn tài liệu tham khảo, được tham gia các lớp
tập huấn chuyên đề, trao đổi thông tin với nhau... Đối với HS cần rèn luyện ý thức tự học, tự nghiên cứu, làm quen với cách học mới nhằm phát triển tư duy
độc lập sáng tạo của HS.
CHƯƠNG 2 NHỮNG NỘI DUNG TRONG CHƯƠNG III, PHẦN I
SGK LỊCH SỬ LỚP 10 CƠ BẢN CẦN TRIỆT ĐỂ KHAI THÁC ĐỂ THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC
QUAN
2.1 NHỮNG NGUYÊN TẮC KHI THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở CHƯƠNG

III, PHẦN I SGK LỊCH SỬ 10 CƠ BẢN


DH lịch sử cần sử dụng đồ dùng trực quan, nhưng sử dụng tùy tiện sẽ không đem lại hiệu quả sư phạm, mà còn ảnh hưởng không tốt đế chất lượng
DH. Vì vậy, cần chú ý những nguên tắc sử dụng đồ dùng trực quan được sử
dụng trong DH lịch sử. Nội dung yêu cầu giáo dục  giáo dưỡng của bài học quy định việc sử
dụng những loại đồ dùng trực quan tương ứng và thích hợp. Bài này sử dụng bản đồ, bài khác lại sử dụng tranh ảnh hay sa bàn, mô hình. Đôi khi trong một
bài giảng lại kết hợp sử dụng một vài loại đồ dùng trực quan khác nhau. Thật là tẻ nhạt nếu trong bất cứ bài học lịch sử nào, GV cũng chỉ sử dụng một vài đồ
dùng trực quan có sẵn. Để xây dựng một hệ thống đồ dùng trực quan phong phú, phù hợp với
từng bài, GV cần tìm hiểu cơ sở nhận thức và yêu cầu sư phạm của công tác này khi chuẩn bị cho một bài giảng lịch sử.
Trước hết DH lịch sử phải cho HS biểu tượng: Biểu tượng lịch sử là những hình ảnh của sự kiện, nhân vật được phản ánh trong óc HS với những nét
điển hình nhất. Các phương pháp DH, các loại đồ dùng DH điều đóng góp vào tạo biểu tượng cho HS. Những đồ dùng trực quan giữ vai trò quan trọng trong
việc tạo biểu tượng cho HS ở THPT.
Có nhiều loại biểu tượng cụ thể khác nhau mà HS cần phải nắm, ở đây chúng tôi chỉ trình bày một số biểu tượng lịch sử trong DH lịch sử ở THPT do
đồ trực quan đã góp phần tạo nên như thế nào. Biểu tượng về điều kiện tự nhiên của quá trình lịch sử: Là loại biểu tượng
tạo cho HS bởi vì một sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với không gian và thời gian. Trong bất kỳ xã hội nào bao giờ hoạt động của con người cũng gắn
liền với điều kiện tự nhiên và chịu sự tác động của tự nhiên, cho nên loại biểu tượng này giúp HS thấy được mối quan hệ chặt chẽ con người với tự nhiên và
chính điều kiện như thế quy định lối sống của con người. Biểu tượng về nền văn hóa vật chất: Đó là những sản phẩm trong quá
trình sống, lao động của con người đã sáng tạo ra về mặt vật chất cũng như tinh thần. Để tạo biểu tượng này GV sử dụng tranh ảnh minh họa trên giấy hoặc bảng
đen, cùng với việc cung cấp các biểu tượng là lời miêu tả của GV về hình tượng bên ngồi, cấu tạo bên trong và tính năng của nó, để HS thấy được tinh thần
sáng tạo để có những cơng trình kiến trúc độc đáo. Ví dụ: Khi GV cho HS xem tượng người bằng đất nung trong khu lăng
mộ Tần Thủy Hồng kèm với việc trình bày về nội dung của nó, HS rút ra được nét độc đáo, thể hiện nghệ thuật tinh xảo của người Trung Quốc thời xưa, biết
được sự xa hoa, tàn bạo của Tần Thủy Hoàng, cũng như sức mạnh quân sự của nhà Tần như thế nào, từ đó rút ra được đặt trưng của các sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan và không gian nhất định. Biểu tượng về con người: Được tạo nên từ hình ảnh, tranh vẽ các loại đồ
dùng trực quan trên cơ sở tiến hành miêu tả và nêu đặc điểm của hình tượng, Lịch sử là do con người sáng tạo vì vậy khong thể có lịch sử mà thiếu yếu tố con
người, mặt khác hoạt động của các nhân vật lịch sử rắng liền với vai trò quần chúng nhân dân và nó phản ánh ở mức độ lịch sử.
Trên cơ sở tạo biểu tượng sẽ hình thành các khái niệm lịch sử. Đồ dùng trực quan góp phần niêu lên hiện tượng của sự vật khi GV hướng dẫn HS nêu
lên những đặt trưng cơ bản và những bộ phận quan trọng nhất cấu thành các hiện tượng hay sự vật.
Các nguyên tắc sử dụng đồ dùng trực quan Sử dụng phương tiện DH đúng lúc: Chỉ đưa phương tiện DH lúc cần
thiết, không đưa trước làm phân tán sự chú ý của HS, cũng không nên để quá lâu khi đã sử dụng xong thì đem cất ngay. Đây là nguyên tắc nhiều GV mắt phải.
Ví dụ: khi đem bản đồ vào đầu tiết học GV để bản đồ đối diện với HS
làm cho các em nhìn vào bản đồ gây sự chú ý của HS vào bản đồ mà không lo xây dựng bài. Vì thế GV nên xắp xếp bản đồ lại hoặc để vào bàn GV, vách
tường xuôi theo hướng HS
Sử dụng phương tiện đúng chỗ: Chọn vị trí đặt phương DH để HS nào
cũng nhìn thấy được và nếu cần HS có thể dễ dàng tiếp cận được. Đặc biệt với phương tiện nghe nhìn, thì phải chọn vị trí sao cho HS dể dàng sử dụng các
phương tiện DH.
Sử dụng phương tiện DH đủ cường độ: Tùy theo đối tượng HS, việc sử
dụng phương tiện DH diễn ra trong thời lượng thích hợp, đảm bảo có tác dụng tích cực đối với học tập của HS.
Sử dụng phương tiện DH phải đáp ứng mục đích dạy học:  Tùy vào
mục đích của từng bài dạy và từng nội dung mà GV sử dụng các phương tiện khác.
Ví dụ: Khi trình bày về văn hóa Trung Quốc thời phong kiến thì dùng các
bài thơ đường hay các tiểu thuyết thời Minh  Thanh, tranh ảnh các cơng trình kiến trúc, hay tìm hiểu về 4 phát minh quan trọng của Trung Quốc.
Trong quá trình sử dụng đồ dùng DH, GV luôn tạo điều kiện tối đa tổ chức cho HS tự làm việc với phương tiện DH, để khám phá tìm tòi các tri thức
cần thiết cho mình. Đảm bảo cho HS tiếp sức các loại đồ dùng trực quan.
Ví dụ: Vẽ sơ đồ bộ mày nhà nước thời Tần- Hán. Nhằm khai thác tốt
chức năng của các phương tiện DH của bộ môn lịch sử.
Khi sử dụng đồ dùng trực quan GV kết hợp với lời nói, miêu tả, trình bày tường thực sự kiện, kể chuyện.... HS xem đồ dùng trực qyan kèm theo lời nói
của GV, giúp các em hiểu sâu, nhớ lâu các sự kiện, nắm các khái niệm một cách vững chắc, hơn nửa, qua đồ dùng trực quan phát triển óc quan sát, phân tích,
nhận xét của HS và các em đã trình bày về các sự kiện hay nhân vật lịch sử. Do điều kiện học tập ở nước ta chỉ sử dụng một số loại đồ dùng trực quan
chủ yếu sau: Bản đồ, tranh ảnh, trực quan quy ước.... và sau đây là cách sử dụng chúng.
Bản đồ:  Là loại bản đồ treo tường được sử dụng nhiều nhất hiện nay,
muốn sử dụng tốt cần có một q trình chuẩn bị tốt, trước tiên xem bài đó ứng với bản đồ nào, sau đó xử lí nhũng chi tiết cần thiết, có kế hoạch giảng dạy cho
phù hợp.
Những điều lưu ý khi sử dụng bản đồ
Không nên treo bản đồ ở giữa bảng đen vì bảng còn dùng để viết, treo ở chổ gớc cao bên phải bảng đen. Nơi có đủ ánh sáng để cả lớp nhìn thấy rõ. GV
phải đứng bên phải bản đồ, dùng thước chỉ các địa điểm thực sự chính xác khi xác định một vị trí nhất định.
Ví dụ:  Khi giới thiệu về tồn cảnh cố cung bắc kinh, HS hiểu được cố
cung là một cơng trình kiến trúc nghệ thuật hồn mĩ của Trung Quốc thời trung đại, thể hiện óc thảm mĩ cũng như tải năng sáng tạo của người Trung Quốc thời
xưa.
Để làm việc với bản đồ GV cần lưu ý: Khi nói đến địa danh, khu vực lãnh thổ thì GV giảng rõ, chậm kết hợp với
chỉ địa danh trên bản đồ, ít nhất GV chỉ điểm chính xác và không được chỉ sai, chỉ phải đúng trọng tâm.
Để giúp các HS nhớ các vị trí trên bản đồ, GV có thể sử dụng mỗi màu khác nhau để làm nổi bật vị trí lịch sử.
GV có thể sử dụng kết hợp bản đồ treo tường với khu vực địa lí trên bảng.
Đối với các thành tố sư phạm trong SGK nay là kênh hình: Với vai trò là nguồn tri thức, GV có thể dẫn dắt HS khai thác thông tin kênh hình, khai thác
thông tin từ nguồn gốc của thông tin. Bằng những câu hỏi hay yêu cầu cụ thể, HS biết mình phải quan sát ở bộ phận nào của kênh hình và quan sát thật tinh
mắt để tìm câu trả lời. Và hoàn thành bài tập được giao một cách nhanh nhất. Ngoài tranh ảnh, sơ đồ.... trong SGK còn tổ chức tự học ở nhà của HS.
Bởi gì bài giảng trên lớp chỉ là bước đầu cho công việc tiếp tục tự học ở nhà để hiểu vấn đề, chứ không phải cung cấp hoàn chỉnh cuối cùng cho việc học tập.
Do đó GV cần hướng dẫn HS làm việc với SGK lịch sử trong tự học ở nhà theo trình tự sau:
Đọc và giải thích các tranh ảnh, hình vẽ sơ đồ ... trong sách. Đối chiếu nội dung SGK với nội dung bài giảng của GV.
Trả lời câu hỏi, bài tập liên quan đến bài học, có thể nhận xét các sự kiện. Từ đó rèn luyện kỹ năng kỹ xảo của bộ môn.
Tuy nhiên do đặc tính của tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 10 vẫn thích chú ý màu sắc và các đường nét của bản đồ mà không chú ý nội dung sự kiện. Vì thế
giáo viên cần nhấn mạnh HS đi sâu khai thác các sự kiện liên quan đến tranh ảnh, bản đồ đó.
Trong học tập  lịch sử cũng không thể thiếu loại đồ dùng trực quan là bản đồ câm. Đây là bản đồ có kí hiệu, dạng điểm, dạng đường và diện tích không có
chữ viết để GV khi trình bài kiến thức khi học để điền nội dung lịch sử vào địa danh trên bản đồ. Việc sử dụng bản đồ câm đòi hỏi GV và HS phải nắm rõ nội
dung sự kiện để điền cho đúng. Hình vẽ đồ họa trên bản đen chủ yếu không phải là phương tiện để tạo
biểu tượng cụ thể mà chủ yếu để hổ trợ bài giảng thêm sinh động, có hình ảnh nêu được những nét cơ bản của sự kiện thu hút sự chú ý của HS. Vì vậy hình vẽ,
đồ họa trên bảng đen phải tiến hành nhanh và ăn khớp với lời nói của GV.
Tóm lại: Phương pháp đồ dùng trực quan có vị trí quan trọng, trong DH
lịch sử, nhằm khơi phục bức tranh quá khứ lịch sử một cách sinh động gây ấn
tượng cho HS. HS sẽ nắm vũng kiến thức, giáo dục tương tưởng cho các em, và phát triển tư duy sáng tạo suy nghĩ độc lập của các em về các sự kiện. Rút ra
những bài học cho mình trong cuộc sống. Do đó khi sử dụng đồ dùng trực quan phải đãm bảo tuân thủ các nguyên tắc và phương pháp sử dụng. Đồng thời nắm
vũng, quán triệt quan điểm mới, phương pháp HD mới là phát triển tư duy tích cực của HS.
Chính vì thề trong khi sử dụng đồ dùng trực quan GV cũng phải sử dụng một hệ thống câu hỏi liên quan để thu hút sự theo dõi của các em. Như trong
thực tế công việc sử dụng đồ dùng trực quan ít được sử dụng nhiều do nhiều nguyên nhân khác nhau, ở đây đề tài chỉ đề cặp nguyên nhân chủ yếu là do đồ
dùng trực quan còn thiếu. Đó là hệ thống lý tuyết về cách sử dụng đồ dùng trực quan. Vậy khi đi
vào thực tiển nó được sử dụng thế nào, chúng ta sẽ tìm hiểu các phần tiếp theo.
2.2   CÁC   NỘI   DUNG   TRONG   CHƯƠNG   III,   PHẦN   I     SGK LỊCH   SỬ   10   CƠ   BẢN.   ĐỂ   THIẾT   KẾ   VÀ   SỬ   DỤNG   ĐỒ
DÙNG TRỰC QUAN.
Bài, mục
Kiến thức lịch sử cơ bản cần khai thác Các loại đồ dùng trực quan
cần thiết kế và sử dụng Bài 5:
Trung Quốc
thời phong
kiến Mục 1:
Trung Quốc
thời Tần ,
-   Sự   hình   thành   xã   hội   cổ   đại   và những nét chính quá trình hình thành
-   Bản   đồ   Trung   Quốc   thời phong kiến.
+ Giới thiệu về vị trí địa lí của Trung Quốc thời phong kiến
+ Sơ đồ mối quan hệ địa chủ
Hán chế độ phong kiến thời Tần - Hán
- Tổ chúc bộ máy nhà nước thời Tần Hán.
STT Triều đại
Năm tồn tại
1 Nhà Tần
221-206 TCN 2
Nhà Hán 206TCN- 220
3 Thời Tam
Quốc 220 - 280
4 Thời Tây Tấn
265 -316 5
Thời Đông Tấn
317 - 420 6
Thời Nam Bắc triều
420 - 589 7
Nhà Tùy 589 - 618
8 Nhà Đường
618 - 907 9
Thời Ngũ Đại 907 - 960
10 Nhà Tống
960 - 1279 11
Nhà Nguyên 1271 - 1368
12 Nhà Minh
1368 - 1644 13
Nhà Thanh 1644 - 1911
và nhân dân Trung Quốc
+   Bảng   niên   biểu   lịch   sử Trung quốc thời cổ trung đại.
+  Vẽ   sơ   đồ   tổ   chức   bộ   máy nhà nước thời Tần
+ Tượng người bằng đất nung
Quý tộc
Quý tộc
ND công
xã ND
giàu ND
lĩnh canh
ND tự canh
ND nghèo
2: Sự phát
triển chế độ
phong dưới
thời Đường
. - Kinh tế:
+ Nông nghiệp: Thực hiện chính sách quân điền và chế độ tô  dung  điệu.
Ruộng   tư   nhân   phát   triển.   Do   vậy kinh tế thời Đường phát triển hơn so
vói các triều đại trước. + Thủ công nghiệp và thương nghiệp:
Thời Đường bước vào giai đoạn thịnh đạt: Có các xưởng thủ công
+ Ngoại thương: Ngoại thương được khởi   sắc   thông   qua   việc   hình   thành
con đường tơ lụa - Chính trị: Bộ máy chính quyền đang
tường được hoàn thiện từ trung ương xuống địa phương.
trong   lăng   mộ   Tần   Thủy Hoàng
+ Lập bảng niên biểu so sánh các lĩnh vực kinh tế thời Tần
và thời Đường Triều đại
Lĩnh vực Thời
Tần Thời
Đường Nơng nghiệp
Thủ cơng
nghiệp Chính sách
qn điền
- Vẽ sơ đờ bợ máy nhà nước thời Đường
3.Trung Quốc
thời Minh,
Thanh
- Năm 1368,  Chu  Nguyên  Chương lãnh  đạo nhân  dân  khởi nghĩa  nông
dân thắng lợi, lên ngôi vua lập ra nhà Minh. Và xây dựng chế độ quân chủ
chuyên chế tập quyền. - Năm 1644 Lý Tự Thành lật đổ nhà
Minh và thành lập nhà Thanh -   Kinh   tế:   Trong   nông   nghiệp   thời
Minh , Thanh có bước tiến bộ về kỹ - Lập bảng hệ thống kiến thức
để thấy sự phát triển kinh tế thời đường.
Triều đại Thời
Đường Thời
Minh
4. Văn hóa
Trung Quốc
Thời Phong
kiến thuật canh tác, diện tích mở rộng hơn.
+ Thủ công và thương nghiệp: Mầm mống   kinh   tế   TBCN   đã   xuất   hiện,
hình thành các xưởng thủ công + Ngoại thương: Thành thị mở rộng
và đông đúc, đâu là những trung tâm chính trị và kinh tế lớn như ở Bắc
Kinh, Nam Kinh
- Nho giáo: + Giữ vai trò quan trọng trong  lĩnh  vực  tư tưởng,  là cơ sở lí
luận,   tư   tưởng   và   công   cụ   sắc   bén phục vụ cho nhà nước phong kiếm tập
quyền. + Đến thời Tống, nho giáo phát triển
Lĩnh vực Thủ   công
nghiệp Thương
nghiệp
- Toàn cảnh cố cung Bắc Kinh - Sơ đồ nhà nước thời Minh
- Bảng  liệt  kê  các  thành  tựu văn hóa.
Lĩnh vực Thành tựu
Tư tưởng Sử học
Văn học Khoa học
kỹ thuật -   Một   đoạn   Vạn   lí   trường
thành. - Tượng phật bằng ngọc thạch
trong   cung   điện   được   tạc   từ
thêm, các vui nhà Tống rất tôn sùng nhà nho.
+ Sau này, học thuyết Nho giáo càng trở nên thủ, lỗi thời và kìm hãm sự
phát triển của xã hội. - Phật giáo: + Thịnh hành, nhất là thời
Đường,   Tống.   Các   nhà   sư   Trung Quốc sang Ấn Độ tìm hiểu giáo lí của
phật   giáo,   các   nàh   sư   Ấn   Độ   đến Trung Quốc truyền đạo.
+ Kinh phật được dịch, in ra chữ Hán ngày một nhiều, chùa chiền được xây
dựng ở các nơi. - Sử học: Thời Tần  Hán, sử học trở
thành lĩnh vực khoa học độc lập: Tự Mã thiên với bộ sử kí, Hán thu của
ban Cố ... Thời Đường thành lập cơ quan biên soạn gọi là sử quán.
+ Đến thời Minh Thanh, sử học cũng được chú ý với những tác phẩm lịch
sử nổi tiến - Văn hóa: + Văn học là lĩnh vực nổi
bật của văn hóaTrung Quốc. Thơ ca dưới thời Đường có bước phát triển
nhảy vọt, đạt đến đĩnh cao của nghệ thuật,   với   những   thi   nhân   còn   sáng
mãi đến ngày nay. +  Thời   Minh,  Thanh   xuất   hiện   loại
hình   văn   học   mới   là   tiểu   thuyết một khối ngọc thạch trắng và
được khảm đá quý. - Giới thiệu về bốn phát minh
quan trọng của Trung Quốc.
chương hồi. -   Về   khoa   học   kỹ   thuật:   +   Nhiều
thành tựu rực rỡ trong các lĩnh vực toán học, thiên văn., y học
+ Và tứ đại phát minh giấy, nghề in, la bàn, thuốc súng
- Nghệ thuật kiến trúc: Có nhiều công trình   kiến   trúc   tiêu   biều   như   vạn   lí
trường thành , những bức tượng phật sinh đợng
CHƯƠNG 3
THIẾT KẾ VÀ SỦ DỤNG CÁC LOẠI ĐỜ DÙNG TRỰC QUAN ĐỂ DẠY CHƯƠNG III, PHẦN I, SGK LỊCH SỬ
LỚP 10 CƠ BẢN QUA TỪNG BÀI CỤ THỂ

3.1 NHỮNG NGUYÊN TẮC CHUNG