Ví dụ về số liệu phản ánh tình hình tội phạm và lập bảng thống kê hình sự trên cơ sở số liệu đó.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa đề tài

          Thống kê số liệu án hình sự phục vụ công tác báo cáo thống kê là một trong những nhiệm vụ chính được phân công thực hiện của Bộ phận Thống kê án hình sự Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê. Để công tác báo cáo, thống kê án hiệu quả, nhanh chóng và chính xác thì yêu cầu cán bộ phụ trách công tác thống kê phải nắm được một cách tổng quát số lượng hồ sơ, nội dung, tiến trình giải quyết các vụ án từ giai đoạn thụ lý kiểm sát điều tra đến truy tố và xét xử. Tuy nhiên, hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng và hằng năm số lượng vụ án hình sự sẽ thay đổi, có khi tăng lên cũng có khi giảm xuống, có những vụ việc đang trong giai đoạn điều tra, có những vụ việc đã có quyết định khởi tố, có những vụ việc đã có bản án của Tòa án…nên sẽ gây khó khăn cho cán bộ làm công tác thống kê trong quá trình tổng hợp số liệu hằng tháng, quý, năm nói riêng và công tác báo cáo số liệu về cấp trên nói chung.

Thực hiện Chỉ thị công tác số 01/CT-VKSTC ngày 02.01.2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2013, với mục tiêu “Đổi mới, chất lượng, kỷ cương hướng về cơ sở” và phải đạt yêu cầu “Thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 06/CT- VKSNDTC ngày 05.11.2012 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao về tăng cường công tác thống kê và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Kiểm sát nhân dân”. Xuất phát từ ý nghĩa thực tế trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao chất lượng thu thập, quản lý số liệu thống kê án hình sự phục vụ công tác báo cáo thống kê, tổng hợp. Một số giải pháp thực hiện” làm đề tài giải pháp  nhằm phục vụ công việc được tốt hơn.

2. Mục tiêu nghiên cứu

          Áp dụng phương pháp lập file thống kê bằng máy vi tính và một số phương pháp khác để thu thập, quản lý số liệu án hình sự vào trong thực tế nhằm theo dõi tính khả thi, tính hiệu quả của phương pháp này. Nghiên cứu và xem xét, với việc áp dụng phương pháp trên thì công tác báo cáo, thống kê án hình sự  hằng tháng, quý, năm của người làm công tác báo cáo có chính xác, dễ dàng, và tiết kiệm được nhiều thời gian, công sức trong mỗi kì báo cáo hay không.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Áp dụng nghiên cứu cho Bộ phận thống kê của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê với đối tượng là số liệu các vụ án hình sự đang trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.

4. Phương pháp thực hiện:

Lập Bảng thống kê số liệu án hình sự, trong đó gồm số liệu tuần, tháng, 06 tháng và 12 tháng. Theo đó, sử dụng phương pháp phân loại, phương pháp thống kê và phương pháp tổng hợp để theo dõi, quản lý tổng thể số lượng vụ án cũng như tiến trình giải quyết thuộc thẩm quyền giải quyết của từng Cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn trong thời gian nhất định.

4.1. Phương pháp phân loại

Phân loại thống kê là một mặt công tác quan trọng trong quá trình nghiên cứu thống kê nhất là trong khâu xử lý và lập các bảng số liệu. Thông qua phân loại, cho phép chúng ta nhận thức hiện tượng và quá trình diễn biến tội phạm một cách sâu sắc. Phân loại là một việc làm hết sức quan trọng của các hoạt động thống kê nhằm đưa ra các thông tin phục vụ tốt cho các nhu cầu quản lý điều hành.

4.2. Phương pháp thống kê

Sau khi đã phân loại được các số liệu, các chỉ tiêu thống kê thì việc tiếp theo là cần thống kê chúng lại theo một biểu mẫu [có thể là hàng, là cột] nhất định để từ đó tiến tới có một số liệu chung, thống nhất, phương pháp này đòi hỏi phải có sự tỉ mỉ, cẩn thận vì nếu chúng ta thống kê sai hoặc thiếu hoặc thừa thì dẫn đến sẽ ảnh hưởng đến các chỉ tiêu khác trong cùng một bảng, biểu thống kê, dẫn đến sẽ không chính xác trong quá trình đánh giá, tổng hợp.

4.3. Phương pháp tổng hợp.

Tổng hợp là quá trình ngược với quá trình phân loại, nhưng lại hỗ trợ cho quá trình phân loại để tìm ra cái chung, cái khái quát. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt, phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.

5. Kết cấu đề tài:

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung của đề tài gồm 03 chương:

Chương I: Công tác thống kê và ý nghĩa của công tác thống kê

Chương II: Thực trạng công tác thống kê báo cáo số liệu án hình sự của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê

Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thu thập, quản lý số liệu thống kê án hình sự phục vụ công tác báo cáo thống kê.

Chương I: CÔNG TÁC THỐNG KÊ VÀ Ý NGHĨA CỦA CÔNG TÁC THỐNG KÊ

1.1. Công tác thống kê

1.1.1. Thống kê là gì

Khoa học thống kê là khoa học về thu thập, phân tích, diễn giải và trình bày các dữ liệu để từ đó tìm ra bản chất và tính quy luật của các hiện tượng kinh tế, xã hội - tự nhiên.

Khoa học thống kê dựa vào lý thuyết thống kê, một loại toán học ứng dụng. Trong lý thuyết thống kê, tính chất ngẫu nhiên và sự không chắc chắn có thể làm mô hình dựa vào lý thuyết xác suất. Vì mục đích của khoa học thống kê là để tạo ra thông tin "đúng nhất" theo dữ liệu có sẵn, có tác giả nghiên cứu nhìn khoa học thống kê như một loại lý thuyết quyết định. Thống kê được nhìn nhận như là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, cung cấp các thông tin thống kê trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời trong việc đánh giá, dự báo tình hình, hoạch định chiến lược, chính sách, xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu thông tin thống kê của các tổ chức, cá nhân.

Không khác gì so với các ngành, lĩnh vực khoa học khác, lĩnh vực khoa học hình sự cũng sử dụng thống kê như là công cụ pháp lý xây dựng cơ sở dữ liệu về những hành vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm và kết quả giải quyết các vụ án hình sự phục vụ trong công tác nghiên cứu khoa học, xác định những nguyên nhân, điều kiện vi phạm pháp luật hình sự và tội phạm, góp phần đưa ra những nhận định, đánh giá tổng quát về tình hình tội phạm; mặt khác, là nền tảng cơ sở để tham mưu cho Đảng và Nhà nước đề ra các chủ trương, giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Liên quan tới các khái niệm cơ bản về thống kê thì từ “Thống kê” được hình thành từ tiếng Latin là “Status”; từ tiếng Italia “Statista” hoặc từ tiếng Đức “Statistik”, mỗi từ đó đều có ý nghĩa là “hình thái chính trị” hoặc “trạng thái hiện tượng”. Như vậy có thể hiểu“The Status Criminal” có nghĩa là “thống kê hình sự” hoặc “thống kê tội phạm”, tức được hiểu là diễn tả hình thái tội phạm hoặc trạng thái [diễn biến] của tội phạm.  Nói như thế để thấy rằng, thống kê hình sự [TKHS], thống kê tội phạm [TKTP] là “đại lượng đo lường” đóng góp vai trò hữu ích trong việc nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện về bức tranh vi phạm pháp luật hình sự hay tội phạm tồn tại trong xã hội.

1.1.2. Công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm

Như vậy, khi một ai đó dùng đến thuật ngữ “thống kê” tức là họ đang gắn nó với việc thu thập và phân tích số liệu thực tế. Điều đó có nghĩa khi dùng thuật ngữ “thống kê” trong công tác Thống kê hình sự, thống kê tội phạm, nó có nghĩa là việc sử dụng một hệ thống các phương pháp bao gồm thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu, tính toán các đặc trưng của tình hình tội phạm nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và đề ra các chủ trương, giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm và góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Theo quy định tại Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân [VKSND]năm 2002, thì Viện Kiểm sát nhân dânđược giao là đầu mối chủ trì thực hiện thống kê tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụngkhác trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, phải có trách nhiệm phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dântrong việc thực hiện nhiệm vụ công tác này.Hoạt động thống kê tội phạm trong ngành Kiểm sát là một hoạt động nghiệp vụ chuyên môn và được quản lý, tổ chức một cách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Tại Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao có Cục Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin, tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin, các Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện đều phân công cán bộ chuyên trách hoặc bán chuyên trách làm công tác thống kê, được trang bị một hệ thống máy vi tính kết nối thành mạng diện rộng và các phần mềm xử lý số liệu thống kê thống nhất trong toàn ngành. Hệ thống máy vi tính đã được nối mạng đến các Viện kiểm sát cấp huyện để có thể truyền số liệu trực tiếp về Viện Kiểm sát cấp tỉnh và Viện Kiểm sát cấp tỉnh truyền trực tiếp về Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao bằng phần mềm do Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao xây dựng.

Với thẩm quyền, trách nhiệm được quy định trong Điều 5 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát đã ban hành hàng loạt biểu mẫu nghiệp vụ thu thập, thống kê số liệu đáp ứng công tác chuyên môn đánh giá hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống, ngăn ngừa và dự báo tình hình tội phạm trong tương lai cho các cấp lãnh đạo và quản lý. Mới nhất, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành một loạt biểu mẫu về hình sự kèm theo Quyết định số 453/QĐ-VKSTC ngày 04.10.2013, cụ thể một số biểu mẫu đáng chú ý và sử dụng thường xuyên như:

-Thống kê công tác kiểm sát tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố [Biểu 01];

-Thống kê công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự [Biểu 02];

- Thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm [Biểu 03];

-Thống kê công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự [Biểu 04];

-Thống kê công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự [Biểu 05];

-Thống kê công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự [Biểu 06];

Ngoài ra còn một số biểu mẫu khác.

Đặc biệt, là biểu Thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng [hay còn gọi là Thống kê liên ngành]. Trong đó, nêu bật rõ số liệu qua các quá trình giải quyết vụ án từ tin báo, tố giác tội phạm cho đến khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, thi hành án, tất cả được thu thập, thống kê và bút ký liên ngành từ 3 cơ quan tư pháp Công an – Viện kiểm sát – Tòa án.

Dưới góc độ nghiên cứu khoa học, Thông tư liên tịch số 01/2005/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 01.7.2005, của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Công an và Bộ Quốc Phòng đã hướng dẫn một số quy định của pháp luật trong công tác thống kê tội phạm, thống kê hình sự, trong đó nội dung thống kê trong giai đoạn khởi tố, thống kê tội phạm trong giai đoạn truy tố, thống kê tội phạm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm được xem như số liệu của các tội phạm rõ. Thông tư này cũng ghi nhận rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện công tác thống kê hình sự, thống kê tội phạm tại mục 7 phần I, trong đó quy định:

“…a] Viện kiểm sát có trách nhiệm chủ trì phối hợp các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp thu thập, tổng hợp, phân tích, cung cấp và công bố số liệu về thống kê hình sự, thống kê tội phạm bao gồm: Thống kê tội phạm trong giai đoạn khởi tố; thống kê tội phạm trong giai đoạn truy tố; thống kê tội phạm trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng; chủ trì hoặc phối hợp tổ chức tập huấn nghiệp vụ thống kê hình sự, thống kê tội phạm theo kế hoạch của liên ngành;

b] Tòa án có trách nhiệm thu thập số liệu thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự và ra quyết định thi hành án hình sự thuộc thẩm quyền của mình; phối hợp với Viện kiểm sát và Công an cùng cấp đối chiếu, thống nhất số liệu và cùng ký vào báo cáo thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự và quyết định thi hành án hình sự do Viện kiểm sát cùng cấp lập;

c] Cơ quan Công an có trách nhiệm thống kê kết quả tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm từ kết quả xử lý những vụ vi phạm pháp luật hình sự thuộc thẩm quyền xử lý của mình và chuyển kết quả tổng hợp thống kê sang Viện kiểm sát cùng cấp sau khi loại thống kê này được thực hiện; thu thập số liệu thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của mình; phối hợp cùng Viện kiểm sát đối chiếu, thống nhất số liệu và cùng ký vào báo cáo thống kê kết quả giải quyết các vụ án hình sự và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng do Viện kiểm sát cùng cấp lập;…”.

Điều này có ý nghĩa ghi nhận các số liệu thống kê thường xuyên của ba ngành Công an, Viện kiểm sát và Tòa án đều có mức độ phù hợp nhất định và phải được sử dụng khi nghiên cứu cụ thể, đặc biệt số liệu thống kê của ngành Kiểm sát là số liệu có tính pháp lý, được sử dụng chính thống và đáp ứng tương đối trọn vẹn trong các loại báo cáo liên ngành, báo cáo tổng hợp. Hơn hết, những số liệu này bảo đảm tính ổn định, chất liệu ổn định, tương đối chính xác khi thu thập, theo dõi diễn biến, tổng hợp trong một khoảng thời gian, không gian nhất định nào đó. Điều này có giá trị không nhỏ trong việc tìm hiểu sâu hơn về thuộc tính, đặc điểm cũng như quy luật tồn tại của loại tội phạm, nhóm tội phạm nào đó, từ đó mà các cấp cơ quan có thẩm quyền xem xét, đánh giá, hoạch định chính sách, phương hướng, kế hoạch trong công tác chuyên môn về việc đấu tranh phòng, chống, ngăn ngừa và dự báo tình hình tội phạm trong tương lai.

1.2. Ý nghĩa của công tác thống kê

Có thể nói, công tác Thống kê là một công cụ quản lý vĩ mô quan trọng, không thể thiếu được của công tác quản lý chỉ đạo điều hành. Kết quả của công tác thống kê cũng chính là một phần kết quả của công tác quản lý, chỉ đạo điều hành. Hiện nay, về cơ bản công tác thống kê đã được tin học hóa, được thực hiện hoàn toàn bằng máy vi tính, đã thu thập, tổng hợp và cung cấp những số liệu phản ánh tình hình tội phạm, phản ánh kết quả thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự [như thống kê tội phạm trong giai đoạn khởi tố, truy tố, xét xử sơ thẩm và thi hành án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng]. Công tác Thống kê giúp đánh giá chính xác, khách quan tình hình vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm, kết quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong công tác phòng, chống tội phạm; cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời để phục vụ hoạt các hoạt động quản lý, điều hành có liên quan; bảo đảm tính thống nhất về số liệu thống kê hình sự, thống kê tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong những thời gian, thời điểm cụ thể; xây dựng cơ sở dữ liệu về vi phạm pháp luật hình sự, tội phạm và kết quả giải quyết các vụ án hình sự phục vụ công tác nghiên cứu, xác định nguyên nhân, điều kiện vi phạm pháp luật hình sự và tội phạm, giúp đưa ra những nhận định, đánh giá tổng quát về tình hình tội phạm.

Mặt khác, công tác Thống kê tội phạm cũng có vai trò quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nếu việc theo dõi, quản lý dữ liệu thống kê tội phạm, phân tích số liệu thống kê tội phạmđạtđộ tin cậy và chính xác caosẽ giúpđưa ra những nhận định, đánh giá tổng quát về tình hình tội phạm và đề ra những giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quảvà và góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1.3. Một số phương pháp

1.3.1. Phương pháp phân loại

Phân loại thống kê là một cách phân ra thành những nhóm, những tổ đơn vị thống kê theo các tiêu thức thuộc tính, việc phân loại các đơn vị thống kê phải tuân thủ các nguyên tắc quy định, các nhóm hoặc tổ đều có tên gọi và được sắp xếp theo những quy tắc do cấp quản lý thẩm quyền quy định. Từ định nghĩa trên đây, thấy rằng phân loại thống kê có những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, phân loại thống kê chỉ là phân loại các đơn vị thống kê và phân loại thống kê được tiến hành trên cơ sở dựa vào các tiêu thức thuộc tính chứ không dựa vào các tiêu thức định lượng.

Thứ hai, các nhóm thống kê phải có tên gọi có sự sắp xếp theo một nguyên tắc do Nhà nước quy định.

Thứ ba, kết quả phân loại thống kê hình thành các bảng phân loại các bảng danh mục phải do Nhà nước phê chuẩn và được quản lý sử dụng thống nhất trong hoạt động quản lý đất nước trong thời gian dài. Đây là đặc điểm quan trọng, nói lên ý nghĩa của công tác phân loại. Chẳng hạn, bảng thống kê kết quả khởi tố, truy tố, xét xử án hình sự [Biểu số 03/2013 Ban hành theo Quyết định số 452 ngày 04.10.2013 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao đã, đang và sẽ tiếp tục được sử dụng trong nhiều năm cho đến khi nó được bổ sung, thay đổi hoặc thay thế bằng một Biểu mẫu khác…

1.3.2. Phương pháp thống kê

Phương pháp phân loại giống như là một cách đăt tiêu đề cho một cột, một hàng, còn phương pháp thống kê là cách thức để tập hợp những con số riêng lẽ vào một cột, một hàng sao cho thống nhất. Để làm được điều đó, cần một phương pháp thống kê khoa học, nhanh chóng và đảm bảo sự chính xác. Ví dụ, Biểu thống kê người chưa thành niên phạm tội bị khởi tố [Biểu mẫu số 01-2013/CTN ban hành theo Quyết định số 203 ngày 17.5.2014 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao]. Trong Biểu mẫu này đã phân loại thành nhiều cột, cụ thể gồm Điều luật, tổng số, giới tính, nhóm tuổi, dân tộc, trình độ văn hóa…Như vậy, để có thể thống kê đầy đủ vào từng cột đó chúng ta cần phải sử dụng phương pháp thống kê tất cả số liệu, dữ liệu liên quan đến từng nhóm mà Biểu mẫu đã phân loại cho ta. Mà muốn thống kê được đòi hỏi cần phải sử dụng đến những phép tính thủ công dựa trên số liệu mà hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng cán bộ, Kiểm sát viên thụ lý, giải quyết.

Phương pháp này đòi hỏi đối với cán bộ làm thống kê là hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng cần thu thập, cập nhật đầy đủ, chính xác những thông tin về số lượng, nội dung tùng vụ việc, từng bị can, bị cáo, từng điều luật cụ thể…Từ đó, sẽ thuận lợi hơn trong quá trình thống kê sau này.

1.3.3. Phương pháp tổng hợp

Như đã phân tích ở phương pháp phân loại và phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp cũng là một phương pháp rất quan trọng, được xem là bước cuối cùng để hoàn thiện quá trình thu thập số liệu. Tổng hợp còn có thể hiểu là gọp tất cả những số liệu, dữ liệu mà chúng ta đã thu thập từ giai đoạn ban đầu tập hợp thành một khối thống nhất.

Phương pháp này giúp chúng ta tập trung và sắp xếp các số liệu, dữ liệu theo một trình tự nhất định; sắp xếp các đơn vị vào các hàng, cột hay một vài tiêu thức đặc trưng; trình bày dữ liệu tổng hợp dưới hình thức bảng hay biểu thống kê. Mục đích của phương pháp này là cụ thể hóa các cột, hàng cần sắp xếp và phân loại nhằm tìm ra được bản chất, quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu chính là sự thay đổi về hình thái, tính chất của tội phạm thông qua số lượng, nội dung cụ thể.

Video liên quan

Chủ Đề