Bài 2
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
1. Khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật
- Khái niệm thực hiện pháp luật
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những qui định của
pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức.
- Các hình thức thực hiện pháp luật
Có 4 hình thức thực hiện pháp luật:
- Sử dụng pháp luật: Các cá nhân, tổ chức sử dụng đúng đắn các quyền của mình, làm
những gì mà pháp luật cho phép làm.
- Thi hành pháp luật [còn gọi là chấp hành pháp luật]: Các cá nhân, tổ chức thực hiện
nghĩa vụ của mình bằng hành động tích cực, chủ động làm những gì mà pháp luật quy
định phải làm [xử sự tích cực].
- Tuân thủ pháp luật: Các cá nhân, tổ chức không làm những việc mà pháp luật cấm
làm [xử sự thụ động].
- Áp dụng pháp luật:
Cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào các qui định của pháp luật,
ban hành các quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ
cụ thể của cá nhân, tổ chức. Đó là các trường hợp:
- Thứ nhất, cơ quan, công chức nhà nước có thẩm quyền ban hành các quyết định trong
quản lí, điều hành.
- Thứ hai, cơ quan nhà nước ra quyết định xử lí người vi phạm pháp luật hoặc giải
quyết tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức.
- Các giai đoạn thực hiện pháp luật [HS đọc thêm]
2. Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí
- Vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do người có năng lực trách nhiệm
pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Một hành vi bị coi là vi phạm pháp luật phải có đủ các dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, là hành vi trái pháp luật
- Hành vi trái pháp luật có thể là hành động hoặc không hành động.
+ Hành vi trái pháp luật có thể là hành động – Cá nhân, tổ chức làm những việc không
được làm theo quy định của pháp luật.
- Hành vi trái pháp luật có thể là không hành động – Cá nhân, tổ chức không làm
những việc phải làm theo quy định của pháp luật.
- Hành vi trái pháp luật đó xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, do người có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện.
Năng lực trách nhiệm pháp lí của một người phụ thuộc vào độ tuổi và tình trạng sức
khỏe – tâm lí. Người có năng lực trách nhiệm pháp lí phải là:
- Người đã đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp
luật, người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm pháp lí hành chính và hình sự.
- Người có thể nhận thức và điều khiển được hành vi của mình, tự quyết định cách xử
sự của mình [không bị bệnh về tâm lí làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức về hành
GV: Trương Lương Thương – THPT Long Xuyên