Vĩ sao nói sự ra đời của triết học Mác la một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học

Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [249.15 KB, 17 trang ]

Trường Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh
Viện Quản Lý Đào Tạo Sau Đại học
Khoa Quản Trị Kinh Doanh
Tiểu luận triết học
“Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt
trong lịch sử triết học’’
Người thực hiện : Võ Thị Thu Trang
STT : 125
Lớp : Đêm 5
Khóa : K21
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Với sứ mạng là đơn đặt hàng của lịch sử, triết học được kết tinh từ các tinh
hoa tinh tế của các dân tộc và ra đời giúp một số giai cấp được giải thoát
khỏi áp bức bất công và bóc lột. Không nằm ngoài sứ mạng lịch sử trên,
triết học Mác ra đời như một dấu ấn vàng son trong lịch sử trải dài của nền
triết học nói chung. Kế thừa và phát huy những ưu điểm cũng như phê phán
và loại trừ những hạn chế của những học thuyết triết học trước đó, triết học
Mác là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hoàn chỉnh, là vũ khí
tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh
để nhận thức và cải tạo thế giới.
Nhìn nhận được hướng đi tất yếu của lịch sử, Đảng và nhà nước ta đã áp
dụng những học thuyết của triết học Mác vào con đường giải phóng dân tộc
giành độc lập tự do cho nhân dân, làm nên chiến thắng vẻ vang khắp thế
giới. Thế nhưng hiện nay, cuộc đấu tranh tư tưởng và thực tiễn mới xây
dựng đất nước đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và nhận thức lại những giá trị
đích thực của triết học Mác, trong đó có việc nghiên cứu và quán triệt
những nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng, để phát triển và
vận dụng học thuyết cách mạng vào khoa học đó một cách sáng tạo trong
hoạt động thực tiễn. Vì vậy, việc khôi phục và bảo vệ những giá trị của triết
học mácxít cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác - Lênin, khẳng định vị trí và


vai trò của triết học mácxít trong lịch sử triết học cũng như trong cuộc
sống, trở thành một nhiệm vụ bức thiết. Chính điều này đã tạo cho tôi động
lực trong việc nghiên cứu và học hỏi: “Tại sao sự ra đời của triết học Mác
là một bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử Triết học?”
Bài tiểu luận ngắn này xin phép được giới thiệu một cách ngắn gọn và sơ
lược quá trình hình thành, ra đời của triết học Mác và làm sáng tỏ vai trò
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 3
“bước ngoặt có tính cách mạng” của triết học Mác thông qua việc nghiên
cứu chủ yếu giáo trình Triết học phần I dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học của Tiểu ban Triết học Trường
Đại học Kinh tế Tp.HCM
Phần I
Hoàn cảnh ra đời của Triết học Mác
1. Điều kiện, tiền đề ra đời của Triết học
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1.1 Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong điều kiện cách mạng công nghiệp
Tư duy lý luận của mỗi thời đại đều là sản phẩm của lịch sử. Chủ
nghĩa Mác với tính cách là thành tựu vĩ đại của nhân loại được bắt
nguồn từ nền sản xuất vật chất trên cơ sở lực lượng sản xuất đã được
xã hội hóa của chủ nghĩa tư bản.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng
trong công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Vượt qua thời kì phong kiến, sự phát triển mạnh mẽ của phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chứng minh tính ưu việt của nó so với các
chế độ xã hội khác trong lịch sử. Phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền
sản xuất xã hội. Nước Anh và nước Pháp trở thành những quốc gia tư
bản hùng mạnh, làm động lực cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
châu Âu. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản

xuất tư bản được củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát
triển kèm theo đó mâu thuẫn xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày
càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, bất công xã hội tăng.
Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát triển thành
những cuộc đấu tranh giai cấp. Trong Tuyên ngôn đảng cộng sản,
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 4
C.Mác và Ăngghen viết: “ Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để
đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay
giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không những rèn nhứng vũ khí
sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người vũ khí ấy chống lại nó, đó là
những người công nhân hiện đại, những người vô sản.”
1.1.2. Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình
thành và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi
chế độ tư bản chủ nghĩa được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp
thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô
sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát triển trở thành những
cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành phố
Liông [Pháp] năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm
1834. Ở Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của
thế kỷ XIX, là phong trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và
có hình thức chính trị. Nước Đức nổi lên phong trào đấu tranh của thợ
dệt ở Xilêdi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là
giai cấp cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống
trị, lại hoảng sợ trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không
còn là vị trí tiên phong trong quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn
giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong lòng xã hội phong kiến, vốn đã
khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm gương Cách mạng tư sản
Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trước sự phát triển của phong trào công

nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ
mệnh xoá bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong
cuộc đấu tranh cho nền dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh
của giai cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 5
luận, một học thuyết triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để
định hướng phong trào đấu tranh nhanh chóng đạt được thắng lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu
tranh của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các
Mác và Ph. Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm triết học
1.2. Tiền đề lý luận
Tiền đề về lý luận của triết học Mác là biểu hiện quá trình tiếp nhận,
trên tinh thần phê phán những giá trị nổi bật trong triết học cổ điển
Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Cho nên, sự ra đời của triết học Mác không phải là hiện tượng biệt lập,
tách rời lịch sử nhân loại, mà là kết quả của toàn bộ quá trình đó.
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các
Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng
nhân loại. Triết học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Hêghen và
Phoiơbắc là nguồn gốc trực tiếp của triết học Mác.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học
Hêghen và nghiên cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông đã nhận
thấy: Tuy học thuyết triết học của Hêghen mang quan điểm của chủ
nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “hạt nhân hợp lý” của phép biện
chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang nặng quan
niệm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các
Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa “hạt nhân hợp lý” của Hêghen và cải
tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lí luận mới của phép biện
chứng. Hai ông đã kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, khắc phục

tính siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó để xây dựng nên lí
luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra cơ sở để hai ông xây
dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 6
Việc kế thừa, cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc
là A.Smít và Đ.Ricácđô không những là nguồn gốc để xây dựng học
thuyết kinh tế mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết
học.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như
Xanh Ximông và S.Phuriê là một trong ba nguồn gốc lí luận của triết
học Mác. Các Mác và Ph.Ăng ghen đã kế thừa những quan điểm tiến
bộ của chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp [quan điểm về vai trò của
nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở hữu v.v ] và khắc phục
tính không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để xây dựng
những quan điểm duy vật lịch sử.
1.3. Tiền đề khoa học tự nhiên
Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng
có mối quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa
trên cơ sở tri thức do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi
trong khoa học có những phát minh mang tính chất vạch thời đại thì
tạo ra sự thay đổi của triết học.
Trong những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển
mạnh với nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa
năng lượng, thuyết tế bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học
đó đã vạch ra mối liên hệ thống nhất giữa những sự vật, giữa các hình
thức vận động khác nhau trong tính thống nhất vật chất của thế giới,
vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển. Đồng thời đã
làm bộc lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu
hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của

Hêghen. Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải xây
dựng một phương pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 7
minh của mình, khoa học đã cung cấp những tri thức để Các Mác và
Ph.Ăng ghen khái quát xây dựng phép biện chứng duy vật.
Chủ nghĩa Mác ra đời trong bối cảnh ấy và nó là sản phẩm mang tính
quy luật của khoa học và triết học mà nhân loại đã đạt tới, nó được
hình thành như là kết quả của các phát hiện của Mác và Ăngghen về
những quy luật chung nhất của sự phát triển thế giới. Chủ nghĩa Mác
do Mác và Ăngghen sáng lập là một học thuyết thống nhất, hoàn
chỉnh, gồm ba bộ phận cấu thành: triết học mácxít, kinh tế chính trị
học mácxít và chủ nghĩa xã hội khoa học.
Sự hình thành thế giới quan duy vật của Mác và Ăngghen cũng đồng
thời là quá trình nghiên cứu những cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng của các ông diễn ra trong nửa đầu của những năm 40 thế kỷ
XIX dưới ảnh hưởng trực tiếp của phong trào công nhân và những phát
minh về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, trong quá trình đấu
tranh chống phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phê phán chủ
nghĩa duy vật siêu hình của Phoiơbắc.
2. Những giai đoạn chủ yếu trong sự hình thành và phát triển Triết
học Mác - Lênin
Sự hình thành và phát triển triết học Mác - Lênin trải qua hai quá trình chính
là giai đoạn: giai đoạn C.Mác- Ăngghen từng bước hình thành và hoàn
chỉnh chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử và giai đoạn
V.I.Lênin phát triển và bổ sung những nguyên lý của triết học Mác.
Tuy nhiên bài tiểu luận chỉ xin giới thiệu sơ lược quá trình Mác và Ănghen
phát triển các học thuyết để làm nổi bật tính bước ngoặt cách mạng của Triết
học Mác trong lịch sử triết học như sau:
2.1. Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của Các Mác và Ph.Ăng ghen từ chủ
nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng

sản chủ nghĩa
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 8
Các Mác [5/5/1818 - 14/3/1883] sinh trưởng trong một gia đình trí thức
[bố là luật sư] ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều ảnh
hưởng của cách mạng tư sản Pháp và đạo Kitô là tôn giáo độc tôn.
Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ
xã hội khác đã giúp Các Mác hình thành tinh thần nhân đạo và xu hướng
yêu tự do. Ông đã viết tác phẩm “góp phần phê phán triết học pháp
quyền của Hêghen” để phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong
khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp nhận quan điểm duy vật của
triết học Phoi Ơ Bắc. Song với tinh thần phê phán ông đã thấy những
mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của
Phoi Ơ Bắc. Sự phê phán sâu rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh
nghiệm lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn của
triết học Phoi Ơ Bắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong
quan điểm triết học của Các Mác.
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở
tỉnh Ranh. Khi còn là học sinh trung học đã có thái độ căm ghét sự
chuyên quyền và độc đoán của bọn quan lại phong kiến. Năm 1844 trên
tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một số bài báo: "Bản
thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh giai cấp
công nhân Anh". Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá trình chuyển
từ chủ nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa cộng sản đã hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc
lập với Các Mác. Trong các bài báo này, ông đã đứng trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản để phê phán kinh tế
chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo.
2.2. Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 9

Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa
Các Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và
phát triển một thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.
Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là quá trình hai ông từng bước xây
dựng những nguyên lý triết học của mình với các tác phẩm kinh điển
như sau:
• Năm 1884 _"Bản thảo kinh tế - triết học" : Các Mác tiếp tục phê
phán triết học duy tâm của Hêghen, đồng thời cũng vạch ra mặt tích
cực của nó là phép biện chứng.
• Năm 1845 _ "Gia đình thần thánh": Các Mác và Ph. Ăngghen viết
chung đã trình bày một số nguyên lý cơ bản của triết học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
• Năm 1845 – 1846 _"Hệ tư tưởng Đức": thông qua việc phê phán các
trào lưu triết học đương thời ở nước Đức hai ông đã trình bày quan
niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống cũng như trình bày rõ hệ
thống quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người.
Trong thời gian này Các Mác viết tác phẩm: "Luận cương về
Phoiơbắc" [8/1845] nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết
định của thực tiễn đối với đời sống xã hội.
• Năm 1847 _"Sự khốn cùng của triết học" : ở đây ông trình bày tiếp
các nguyên lý của triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và trình
bày các luận điểm để viết tác phẩm tư bản.
• Năm 1848, Các Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn
cộng sản” là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa
Mác, của phong trào cộng sản thế giới. Trong đó trình bày một cách
triệt để thế giới quan mới, chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Với tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, triết học Mác và
chủ nghĩa Mác nói chung đã hình thành và sẽ được Các Mác và
Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung phát triển trong thời gian sau.
2.3. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học

Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 10
Từ sau “Tuyên ngôn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được
phát triển trong sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà
hai ông là lãnh tụ. Bằng hoạt động của mình, hai ông đã đưa phong trào
cách mạng của giai cấp vô sản từ tự phát thành phong trào tự giác; chính
qua đó, học thuyết triết học của hai ông không ngừng được phát triển.
Hai ông đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào đấu tranh cách
mạng để khái quát tìm ra những kết luận, qua đó bổ sung và phát triển lý
luận. Điều đó được biểu hiện qua nội dung của một số tác phẩm như:
"Đấu tranh giai cấp ở Pháp", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh
Gôta", "Bộ Tư bản" của Mác ; "Chống Đuyrinh", "Biện chứng của tự
nhiên", " Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước"
của Ănghen.
Phần II
Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặt
trong lịch sử triết học
Sự ra đời Triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử
triết học, bởi vì:
1. Triết học Mác đã thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng
Trong lịch sử phát triển của triết học, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và
của trình độ phát triển khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm
chung của chủ nghĩa duy vật triết học trước Mác, mặc dù trong các học thuyết
triết học đó đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng biệt thể hiện tinh
thần biện chứng triết học Mác. Do vậy, quan điểm duy vật của những học
thuyết đó thường thiếu triệt để. Đây là điểm yếu để chủ nghĩa duy tâm lợi
dụng tiến hành đấu tranh chống lại. Còn phép biện chứng lại được phát triển
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 11
trong cái vỏ bọc duy tâm thần bí tiêu biểu trong triết học của Hêghen. Cho
nên, nội dung của phép biện chứng chưa phản ánh đúng thế giới hiện thực.

Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải tạo cả chủ nghĩa
duy vật cũ của Phoiơbắc và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen,
Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương
pháp của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập với phương pháp ấy nữa”
[02, tập 23, trang 35]. Vì vậy mà chủ nghĩa duy vật biện chứng của triết
học Mác không phải là sự "lắp ghép" phép biện chứng của Hêghen với chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc. Các Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa
duy vật cũ, khắc phục hạn chế siêu hình, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên
hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ
nhận thức xã hội loài người. Hơn nữa, triết học Mác ra đời còn cải tạo phép
biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ duy tâm. Từ đó ông đã khái quát xây dựng
học thuyết triết học mới, tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy
vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện
chứng là phép biện chứng duy vật, làm cho triết học có những bước đột biến,
tạo nên bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong lịch
sử triết học.
1. Triết học Mác sáng tạo ra chủ nghĩ duy vật lịch sử
Bước ngoặt cách mạng vĩ đại nhất mà chủ nghĩa Mác thực hiện là đã đưa ra
quan điểm duy vật về lịch sử. Trước triết học Mác, có một số học thuyết triết
học bàn đến vấn đề xã hội; song, do hạn chế về thế giới quan hoặc phương
pháp luận nên các học thuyết đó mới chỉ nghiên cứu hoặc lĩnh vực này hoặc
lĩnh vực kia mà chưa nghiên cứu toàn diện mọi mặt của xã hội. Các nhà triết
học trước Mác hiểu sự phát triển của xã hội một cách duy tâm - coi động lực
phát triển của xã hội là ở trong ý thức, tinh thần của con người, do vậy không
thể nào tìm ra được quy luật phát triển chung của xã hội loài người.
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 12
Các Mác và Ph.Ăngghen vận dụng những lý luận của duy vật biện chứng để
nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tìm ra các quy luật phát triển chung của xã hội
loài người và tiến trình phát triển tất yếu tự nhiên của nó. Đối lập với những
quan điểm triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã giải quyết đúng đắn vấn đề

cơ bản của triết học trong đời sống xã hội; không phải ý thức xã hội quyết
định tồn tại xã hội, mà ngược lại tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; sự
phát triển của xã hội phụ thuộc vào nguyên nhân vật chất, chứ không phụ
thuộc vào ý thức của con người; sự phát triển của xã hội mang tính quy luật,
là quá trình lịch sử tự nhiên. Do sự tác động của các quy luật vốn có của xã
hội, các hình thái kinh tế xã hội thay thế nhau một cách khách quan độc lập
với ý chí và ý thức của con người; trong sự phát triển ấy, quần chúng nhân
dân là lực lượng quyết định sáng tạo ra lịch sử. Từ đó xây dựng, sáng lập ra
chủ nghĩa duy vật lịch sử tạo nên cuộc cách mạng thực sự trong triết học, loại
bỏ được cơ sở tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm, chỉ rõ nền tảng cũng
như sự phát triền của xã hội phụ thuộc vào vật chất, chứ không phải do ý thức
con người quyết định, làm cho chủ nghĩa duy vật lịch sử trở thành triệt để.
1. Triết học Mác thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
Những học thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở việc
giải thích thế giới, cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn
đối với lý luận, lý luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh
khỏi tình trạng rơi vào quan điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở trong triết
học Phoiơbắc tuy coi vấn đề con người là trung tâm thế nhưng đây chỉ mới là
con người thuần túy về mặt sinh vật, chưa phải con người với tính cách là chủ
thể hoạt động cải tạo thế giới. Khác với tất cả các hệ thống triết học trước đó,
triết học Mác đã chỉ ra vai trò quyết định của hoạt động thực tiễn trong sự tồn
tại, phát triển của xã hội và trong nhận thức. Triết học Mác thường lấy hoạt
động thực tiễn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới của con người là điểm xuất phát
và thông qua quá trình hoạt động thực tiễn để hoàn thiện hệ thống lý luận của
mình. Mác đã cho rằng: "Các nhà triết học trước kia chỉ giải thích thế giới
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 13
bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới" [02, tập 3,
trang 12]. Tất nhiên, khi nhấn mạnh đến vai trò của hoạt động thực tiễn, Mác
và Ăngghen không coi nhẹ vai trò của lý luận. Các ông cho rằng, lý luận khi
đã thâm nhập vào quần chúng, sẽ trở thành lực lượng vật chất vô cùng to lớn.

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, triết học Mác đã tạo ra được sự
gắn kết chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn,
chịu sự quyết định của thực tiễn; khi ra đời, lý luận định hướng hoạt động
thực tiễn. Vì thế, so với các học thuyết triết học khác thì triết học Mác luôn
luôn được bổ sung và hoàn thiện.
2. Triết học Mác thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
Khi ra đời triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô
sản, một giai cấp tiến bộ và cách mạng nhất, một giai cấp có lợi ích phù hợp
với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và với sự phát triển xã hội. Giai cấp
vô sản có cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội; từ đó định ra
được đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp đấu tranh cải biến xã hội
có hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác với phong trào vô sản đã
tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự
giác. Phép biện chứng Mác mang tính cách mạng sâu sắc nhất "vì trong quan
niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao
hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất
yếu của nó; vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở
trong sự vận động, tức là xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện
chứng không khuất phục trước một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính
chất phê phán và cách mạng" [02, tập 23, trang 35-36] Sức mạnh cải tạo
thế giới của triết học Mác chính là sự gắn bó mật thiết cuộc đấu tranh cách
mạng của quần chúng nhân dân đông đảo, nhờ đó lý luận sẽ trở thành lực
lượng vật chất. Triết học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 14
tư tưởng tư sản, chủ nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần
quan trọng tạo ra sự thống nhất của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.
Như vậy, triết học Mác là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô
sản là lực lượng "vật chất" của triết học Mác. Sự thống nhất chặt chẽ giữa
triết học Mác với giai cấp vô sản, làm cho triết học Mác thực sự thể hiện tính
cách mạng của mình và giai cấp vô sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử là

lật đổ xã hội cũ, từng bước xây dựng một xã hội mới.
3. Triết học Mác xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các
khoa học cụ thể
Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Mác và
Ăngghen đã biến đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng nghiên cứu và
mối liên hệ của nó với các khoa học khác, chấm dứt tham vọng ở nhiều nhà
triết học duy tâm coi triết học là "khoa học của các khoa học" đứng trên mọi
khoa học. Mác và Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở
khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Đến lượt
mình, triết học Mác ra đời đã trở thành thế giới quan khoa học và phương
pháp luận chung định hướng sự phát triển của các khoa học và phương pháp
luận chung định hướng sự phát triển của các khoa học. Sự phát triển của khoa
học ngày càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy biện chứng duy vật và
ngược lại, phải phát triển lý luận triết học Mác dựa trên những thành tựu của
khoa học hiện đại. Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ ranh giới giữa triết
học với các khoa học khác và thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ giữa chúng,
cũng như xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra quy luật vận
động, phát triển chung nhát của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 15
KẾT LUẬN
Bằng việc kế thừa và phát huy những chủ nghĩa học thuyết trước Mác, triết học
Mác ra đời đánh dấu một cột mốc vàng son trong lịch sử phát triển của triết học,
mang lại cho giai cấp vô sản và người lao động bị áp bức bóc lột một thế giới
quan khoa học hướng dẫn họ đấu tranh cách mạng cải tạo hiệu quả thế giới. Với
tính cách là sức mạnh tinh thần, triết học Mác luôn phấn đấu vì lợi ích cao cả của
con người, góp phần vào quá trình xây dựng xã hội mới – xã hội dành cho con
người, với con người mới – con người là chủ nhân đích thực sáng tạo ra xã hội
mới, biết sống hòa đồng trong cộng đồng xã hội và hòa hợp với thế giới tự nhiên
xung quanh.
Trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Đảng ta đã xác định con đường

giải phóng đúng đắn và vận dụng linh hoạt những học thuyết cơ bản của triết học
Mác – Lênin để có những thành công vẻ vang trong lịch sử cách mạng nước nhà.
Thế nhưng hiện nay, trong giai đoạn Việt Nam đang tiếp tục thực hiện công cuộc
đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa, thực hiện nền kinh tế mở cửa,
thì việc nắm vững và vận dụng những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin là một trong những điều kiện tiên phong trong việc định hướng phát triển
kinh tế xã hội và ổn định chính trị nước nhà
Tiểu luận này được xây dựng dựa trên việc nghiên cứu các tác phẩm triết học
trong thời gian ngắn nên không thể đề cập được hết các khía cạnh của một vấn đề
lớn và quan trọng như vậy, do đó em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
khoa học của các thầy cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác – Lênin [dùng trong các
trường đại học và cao đẳng], Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006.
2. C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1993
3. Tiểu ban Triết học, Triết học [Phần I , dùng cho học viên cao học và nghiên
cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học], LHNB Trường ĐH Kinh tế
TP.HCM, 2010
4. //www.humg.edu.vn/lyluanchinhtri/index.php?
option=com_content&task=view&id=378&Itemid=265
5. //vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20110630030339AAhHdQn
6. //vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BA%BFt_h%E1%BB%8Dc_M%C3%A1c_-_L
%C3%AAnin
Người thực hiện: Võ Thị Thu Trang Page 17

Chứng minh sự ra đời của triết học Mác là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học và liên hệ trong bối cảnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [138.13 KB, 16 trang ]

LỜI MỞ ĐẦU
Nhà triết học vĩ đại Canto [thế kỷ XVIII] xem triết học không chỉ là trình độ tư
duy lý luận cao nhất, mà đồng thời là “ thiên hướng tự nhiên của tâm hồn” vốn có
trong tất cả mọi người, từng người với những trình độ khác nhau. Do con người
không chỉ cần một thứ “duy nhất là bánh mì” để sống. Nó muốn vươn lên cái
thường nhật, quan sát thế giới và chính mình từ phía khác, nó suy ngẫm về cuộc
sống, về mục đích cuối cùng của cái xuất phát. Mỗi con người có sự phát triển về
mặt tinh thần ở mức độ nào đó đều là nhà triết học một ít, ngay cả khi nó chưa bao
giờ nghe đến từ triết học.
Trong suốt cả lịch sử hiện đại của Châu Âu và nhất là vào cuối thế kỷ XVIII,
ở nước Pháp nơi diễn ra một cuộc quyết chiến chống tất cả những rác rưởi của thời
trung cổ, chống chế độ phong kiến trong các thiết chế và tư tưởng, chỉ có chủ
nghĩa duy vật là triết học duy nhất triệt để, trung thành với tất cả mọi học thuyết
của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín, với thói đạo đức giả… Cho nên kẻ thù
của phái dân chủ hết sức tìm cách “ bác bỏ ”, phá hoại, vu cáo chủ nghĩa duy vật,
chúng bênh vực các loại chủ nghĩa duy tâm triết học là chủ nghĩa, bằng cách này
hay cách khác, tựu trung bao giờ cũng vẫn bênh vực hay ủng hộ tôn giáo. Triết
học Mác là chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó cung cấp cho loài người và nhất
là giai cấp công nhân những công cụ nhận thức vĩ đại.
Bước vào thế kỷ mới, trong lúc chúng ta đang băn khoăn giữa truyền thống và
hiện đại, phương Đông và phương Tây, khoa học công nghệ và nhân văn, chính trị
và kinh tế, thì nhận ra rằng, Mác với tư cách là nhà tư tưởng vĩ đại của nhân loại ở
thế kỷ XX, tư tưởng triết học sâu xa của Người vẫn tỏa sáng khác thường ở thế kỷ
XXI, để lại cho xã hội loài người thời đại ngày nay một di sản tư tưởng vô cùng
quý báu. Trong tiểu luận này, chúng ta sẽ chứng minh sự ra đời của triết học Mác
đã tạo ra bước ngoặc cách mạng trong lịch sử triết học.
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương 1 SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN
Triết học Mác - Lênin ra đời từ nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển cho đến ngày


nay. Từ khi ra đời, triết học Mác - Lênin đã tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch
sử triết học và trở thành thế giới quan, phương pháp luận của hoạt động nhận thức
cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
1.1 Những điều kiện lịch sử của sự ra đời triết học Mác
1.1.1 Điều kiện kinh tế - xã hội
1.1.1.1 Sự củng cố và phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
trong điều kiện cách mạng công nghiệp
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX do tác động của cuộc cách mạng trong
công nghiệp làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc và trở thành xu thế phát triển của nền
sản xuất xã hội. Nước Anh đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp và trở
thành cường quốc công nghiệp. Ở Pháp, cuộc cách mạng công nghiệp đang đi vào
giai đoạn hoàn thành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ sản xuất tư bản được
củng cố tạo ra cơ sở kinh tế để cho xã hội tư bản phát triển kèm theo đó mâu thuẫn
xã hội càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt; sự phân hóa giàu nghèo tăng
lên, bất công xã hội tăng. Những xung đột giữa giai cấp vô sản với tư sản đã phát
triển thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
1.1.1.2 Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử
2
Giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ra đời và lớn lên cùng với sự hình thành và
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi chế độ tư bản chủ nghĩa
được xác lập, giai cấp tư sản trở thành giai cấp thống trị xã hội, giai cấp vô sản trở
thành bị trị thì mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản vốn mang tính đối kháng phát
triển trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp. Cuộc khởi nghĩa của thợ dệt ở thành
phố Liong [Pháp] năm 1831 tuy bị đàn áp nhưng lại bùng nổ tiếp vào năm 1834. Ở
Anh có phong trào Hiến chương vào cuối những năm 30 của thế ky XIX, là phong
trào cách mạng to lớn có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Nước
Đức nổ lên phong trào đấu tranh của thợ dệt ở Xiledi đã mang tính giai cấp.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp

cách mạng. Ở Anh, Pháp giai cấp tư sản tuy nắm quyền thống trị, lại hoảng sợ
trước cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nên không còn là vị trí tiên phong trong
quá trình cải tạo dân chủ như trước. Còn giai cấp tư sản Đức đang lớn lên trong
lòng xã hội phong kiến, vốn đã khiếp sợ bạo lực cách mạng khi nhìn vào tấm
gương Cách mạng tư sản Pháp 1789, nay lại thêm sợ hãi trươc sự phát trphong
trào công nhân Đức. Vì vậy, giai cấp vô sản xuất hiện trên vũ đài lịch sử với sứ
mệnh xóa bỏ xã hội tư bản và trở thành lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh
cho nên dân chủ và tiến bộ xã hội.
Như vậy, thực tiễn xã hội, nhất là thực tiễn của phong trào đấu tranh của giai
cấp vô sản đòi hỏi phải được soi sáng bởi một hệ thống lý luận, một học thuyết
triết học mới. Học thuyết đó phải xuất hiện để định hướng phong trào đấu tranh
nhanh chóng đạt được thắng lợi.
Sự xuất hiện của giai cấp vô sản trên vũ đài lịch sử và phong trào đấu tranh
của họ đã tạo ra nguồn tư liệu quý báu về thực tiễn xã hội để Các Mác và Ph.
Ăngghen khái quát xây dựng những quan điểm triết học.
1.1.2 Nguồn gốc lý luận và tiền đề khoa học tự nhiên
1.1.2.1 Nguồn gốc lý luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm với trí tuệ nhân loại, Các Mác
và Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết
3
học Đức với hai nhà triết học tiêu biểu Heeghen và Phoiơbắc là nguồn gốc trực
tiếp của triết học Mác.
Các Mác và Ăngghen đã từng là người theo học triết học Heghen và nghiên
cứu triết học Phoiơbắc. Qua đó, hai ông nhận thấy : Tuy học thuyết triết học của
Heeghen mang quan điểm của chủ nghĩa duy tâm nhưng chứa đựng cái “ hạt nhân
hợp lý” của phép biện chứng. Còn học thuyết triết học Phoiơbắc tuy còn mang
nặng quan điểm siêu hình nhưng nội dung lại thấm nhuần quan điểm duy vật. Các
Mác và Ăngghen đã kế thừa “ hạt nhân hợp lý” của Heeghen và cải tạo, lột bỏ cái
vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của phép biện chứng. Hai ông đã kế thừa
chủ nghĩa duy vật của Phoi ơ bắc, khắc phục tính siêu hình và những hạn chế lịch

sử khác của nó để xây dựng nên lý luận mới của chủ nghĩa duy vật. Từ đó tạo ra
cơ sở để hai ông xây dựng nên học thuyết triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng thống nhất một cách hữu cơ.
Việc kế thừa và cải tạo kinh tế chính trị học với những đại biểu xuất sắc là
A.Smit và Đ.Ricacđo không những là nguồn gốc để xây dựng học thuyết kinh tế
mà còn là tiền đề lý luận để hình thành quan điểm triết học.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những đại biểu nổi tiếng như
Xanhximong và S.Phurie là một trong ba nguồn gốc lý luận của triết học Mác. Các
Mác và Ăngghen đã kế thừa những quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa xã hội không
tưởng Pháp [ quan điểm về vai trò của nền sản xuất trong xã hội, quan điểm về sở
hữu… ] và khắc phục tính không tưởng thiếu điều kiện lịch sử cụ thể của nó để
xây dựng những quan điểm duy vật lịch sử.
Vì vậy, khi tìm hiểu nguồn gốc lý luận của triết học Mác cần tìm hiểu không
chỉ trong triết học Đức mà trong cả chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và kinh tế
chính trị học Anh.
1.1.2.2 Tiền đề khoa học tự nhiên
Giữa triết học với khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng có mối
quan hệ khăng khít. Sự phát triển của tư duy triết học phải dựa trên cơ sở tri thức
4
do các khoa học cụ thể đem lại. Vì thế, mỗi khi trong khoa học có những phát
minh mang tính chất vạch thời đại thì tạo ra sự thay đổi của triết học.
Vào những năm đầu của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với
nhiều phát minh quan trọng: Định luật bảo toàn biến hóa năng lượng, thuyết tế
bào, thuyết tiến hóa. Những phát minh khoa học đó đã vạch ra mối liên hệ thống
nhất giữa những sự vật, giữa các hình thức vận động khác nhau trong tính thống
nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và phát triển.
Đồng thời đã làm bộc lộ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu
hình và của tư tưởng biện chứng cổ đại cũng như phép biện chứng của Heeghen.
Từ đó đặt ra một yêu cầu trong tư duy nhân loại cần phải xây dựng một phương
pháp tư duy mới thật sự khoa học. Với những phát minh của mình, khoa học đã

cũng cấp những tri thức để Các Mác và Ăngghen khái quát xây dựng phép biện
chứng duy vật.
Như vậy, triết học Mác ra đời như một tất yếu lịch sử không những vì đời
sống thực tiễn mà còn vì những tiền đề lý luận, xã hội và khoa học mà nhân loại
đã tạo ra.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển triết học Mác- LêNin
1.2.1 Giai đoạn chuyển biến tư tưởng của Mác và Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm và dân chủ sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa.
1.2.1.1 Sự chuyển biến tư tưởng của Các Mác.
Các Mác [5/5/1818 - 14/3/1883] sinh trưởng trong một gia đình trí thức [bố
là luật sư] ở thành phố Tơrevơ, tỉnh Ranh, một vùng có nhiều ảnh hưởng của cách
mạng tư sản Pháp và đạo Kitô là tôn giáo độc tôn.
Những ảnh hưởng tốt của giáo dục gia đình, nhà trường và các quan hệ xã
hội khác đã giúp Các Mác hình thành tinh thần nhân đạo và xu hướng yêu tự do.
Phẩm chất đó không ngừng được bồi dưỡng và đã trở thành định hướng cho cuộc
đời sinh viên và đưa Các Mác tới chủ nghĩa dân chủ cách mạng. Cũng vì thế, trong
tình hình lúc đó, triết học Hêghen với tinh thần biện chứng cách mạng của nó được
Các Mác xem là chân lý. Trong thời gian học ở khoa Luật trường Đại học Tổng
5
hợp Béc lin [1836 - 1841] ông say mê nghiên cứu triết học, nhằm giải đáp vấn đề
giải phóng con người, thực hiện dân chủ, vươn tới tự do. Năm 1837 Các Mác tập
trung nghiên cứu triết học Hêghen và tham gia nhóm “Hêghen trẻ”.
Sau khi nhận bằng tiến sỹ triết học [8/1841], Các Mác chuẩn bị vào giảng dạy
triết học ở trường đại học và dự định xuất bản một tạp chí với tên gọi “Tư liệu của
chủ nghĩa vô thần”. Nhưng dự định đó không được thực hiện vì nhà nước phong
kiến Phổ thực hiện chính sách đàn áp những người dân chủ cách mạng. Ông và
một số người theo phái “Hêghen trẻ” đã chuyển sang hoạt động chính trị đấu tranh
chống lại chủ nghĩa chuyên chế Phổ giành lại quyền tự do dân chủ; đánh dấu bước
ngoặt quan trọng trong tư tưởng của ông. Như vậy lúc này, trong tư tưởng của Các
Mác có sự mâu thuẫn giữa thế giới quan duy tâm với tinh thần dân chủ cách mạng

và vô thần. Mâu thuẫn bước đầu được giải quyết khi Các Mác làm việc ở báo Sông
Ranh, ở đây lúc đầu là cộng tác viên sau trở thành linh hồn của tờ báo và ông đã
làm cho nó trở thành cơ quan ngôn luận của phái dân chủ cách mạng.
Thực tiễn đấu tranh báo chí đã làm cho tư tưởng dân chủ cách mạng ở Các
Mác có nội dung rõ ràng hơn, đó là đấu tranh cho lợi ích của quần chúng lao động.
Lúc này tư tưởng cộng sản chủ nghĩa chưa được hình thành, ông đấu tranh bảo vệ
“quần chúng nghèo khổ bất hạnh” dưới tinh thần nhân đạo. Với tinh thần nhân
đạo, ông tập trung phê phán các chính sách của nhà nước Phổ, nhà nước đó chỉ là
“cơ quan đại diện đẳng cấp của những lợi ích cá nhân”. Trong quá trình phê phán
đó Các Mác đã nhận thấy hoạt động của nhà nước không phải là hiện thân của tinh
thần tuyệt đối như Hêghen đã chứng minh.
Như vậy, qua thực tiễn, nguyện vọng muốn cắt nghĩa hiện thực, xác lập lý
tưởng tự do trong thực tế đã giúp Các Mác hình thành khuynh hướng duy vật,
nhận thấy mặt hạn chế của quan điểm duy tâm. Lúc này tinh thần dân chủ cách
mạng sâu sắc đã không dung hợp với triết học duy tâm tư biện. Vì thế sau khi báo
Sông Ranh bị cấm [1843], Các Mác đặt cho mình nhiệm vụ duyệt lại một cách có
phê phán quan niệm duy tâm của Hêghen trước hết về xã hội và nhà nước. Ông đã
viết tác phẩm “góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen” để phê phán
6
chủ nghĩa duy tâm của Hêghen. Trong khi thực hiện phê phán ông nồng nhiệt tiếp
nhận quan điểm duy vật của triết học Phoi Ơ Bắc. Song với tinh thần phê phán ông
đã thấy những mặt hạn chế, nhất là việc xa rời những vấn đề chính trị nóng hổi của
Phoi Ơ Bắc. Sự phê phán sâu rộng triết học Hêghen, việc khái quát kinh nghiệm
lịch sử cùng với ảnh hưởng quan điểm duy vật và nhân văn của triết học Phoi Ơ
Bắc đã tăng cường mạnh mẽ xu hướng duy vật trong quan điểm triết học của Các
Mác.
Cuối tháng 10 - 1843, Các Mác sang Pari. ở đây, không khí chính trị sôi sục
và tiếp xúc với các đại biểu của giai cấp vô sản đã dẫn đến bước chuyển biến dứt
khoát quan điểm của ông sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Trong bài
báo “lời nói đầu của cuốn sách góp phần phê phán triết học pháp quyền của

Hêghen”, Các Mác đã phân tích một cách sâu sắc theo quan điểm duy vật ý nghĩa
và hạn chế của cuộc cách mạng tư sản chỉ là “cuộc cách mạng bộ phận”; đồng thời
ông khẳng định, chỉ có cuộc cách mạng do giai cấp vô sản thực hiện mới là “cuộc
cách mạng triệt để”. Các Mác nêu rõ: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là
vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của
mình”. Với bài báo này và một số bài báo khác đăng trong tạp chí Niên giám Đức
- Pháp năm 1844 đánh dấu bước hoàn thành quá trình chuyển biến lập trường,
quan điểm của Các Mác.
1.2.1.2 Sự chuyển biến tư tưởng của Ph.Ăngghen
Ph.Ăngghen sinh ngày 28-11-1820, trong một gia đình chủ xưởng sợi ở tỉnh
Ranh. Khi còn là học sinh trung học đã có thái độ căm ghét sự chuyên quyền và
độc đoán của bọn quan lại phong kiến. Việc nghiên cứu triết học trong thời gian ở
Béc lin, khi làm nghĩa vụ quân sự đã hướng ông đi vào con đường khoa học. Song,
chỉ thời gian gần hai năm sống ở Manchestơ [Anh] từ mùa thu 1842 khi nghiên
cứu đời sống kinh tế và chính trị nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong
trào công nhân mới dẫn đến bước chuyển căn bản trong thế giới quan của ông
sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản
7
.Năm 1844 trên tạp chí Niên giám Đức - Pháp, Ph.Ăngghen đăng một số bài
báo: "Bản thảo góp phần phê phán kinh tế - chính trị học", "Tình cảnh giai cấp
công nhân Anh". Các tác phẩm đó cho thấy ở Ăngghen, quá trình chuyển từ chủ
nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa cộng sản đã hoàn thành. Quá trình này diễn ra độc lập với Các Mác. Trong
các bài báo này, ông đã đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa cộng sản để phê phán kinh tế chính trị học của A.Xmit và Đ.Ricacdo.
1.2.2 Giai đoạn hình thành những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử
Sự nhất trí về quan điểm và lập trường đã dễn đến tình bạn vĩ đại giữa Các
Mác và Ph.Ăngghen, gắn liền tên tuổi của hai ông với sự ra đời và phát triển một
thế giới quan cách mạng của giai cấp vô sản.

Thời gian từ năm 1844 đến năm 1848 là quá trình hai ông từng bước xây
dựng những nguyên lý triết học của mình.
Năm 1844 qua tác phẩm "Bản thảo kinh tế - triết học" Các Mác tiếp tục phê
phán triết học duy tâm của Hêghen, đồng thời cũng vạch ra mặt tích cực của nó là
phép biện chứng. Các Mác thông qua phân tích sự tha hóa của lao động đã cắt
nghĩa: Sở hữu tư nhân trong xã hội tư bản trở thành nguyên nhân của sự tha hóa
của lao động và của con người, biến sức lao động trở thành hàng hóa. Các Mác chỉ
rõ: Muốn khắc phục sự tha hóa ấy phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân. Việc
giải phóng người công nhân khỏi sự tha hóa là sự giải phóng con người nói chung.
Trong tác phẩm này Các Mác đã luận chứng cho tính tất yếu của chủ nghĩa
cộng sản trong sự phát triển của xã hội. Mặc dù luận chứng này chưa chín muồi về
mặt lý luận, song đã cho phép phân biệt quan niệm của Các Mác về chủ nghĩa
cộng sản với những quan niệm của chủ nghĩa bình quân vốn có của các môn phái
chủ nghĩa cộng sản không tưởng. Theo Các Mác, chủ nghĩa cộng sản dựa trên sự
phát triển cao của nền sản xuất xã hội là nấc thang lịch sử cao hơn chủ nghĩa tư
bản.
8
Trong tác phẩm "Gia đình thần thánh" do Các Mác và Ph. Ăngghen viết
chung năm 1845 đã nêu rõ sự phê phán của hai ông đối với "phái Hêghen trẻ"
đứng đầu là anh em nhà Bauơ về quan điểm lịch sử. Hai ông đã trình bày một số
nguyên lý cơ bản của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như: Quan
điểm về vai trò của sản xuất vật chất đối với xã hội, v.v.
Năm 1845 - 1846, Các Mác và Ph. Ăngghen viết chung tác phẩm "Hệ tư
tưởng Đức". Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học đương thời ở nước
Đức hai ông đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một cách hệ thống. Nội dung
của tác phẩm đã trình bày rõ những quan điểm với tư cách là luận điểm xuất phát
như: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại dĩ nhiên là sự tồn tại của
những cá nhân con người sống, đó là những con người hiện thực mà sản xuất vật
chất là hành vi lịch sử đầu tiên của họ" và quan điểm: "Quan điểm duy vật lịch sử
khi xem xét lịch sử xã hội phải xuất phát từ con người". Trong tác phẩm này cũng

đã trình bày rõ hệ thống quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người.
Trong thời gian này Các Mác viết tác phẩm: "Luận cương về Phoiơbắc"
[8/1845] nêu rõ quan điểm xuyên suốt đó là: vai trò quyết định của thực tiễn đối
với đời sống xã hội. Đồng thời cũng đưa ra quan điểm về bản chất của con người:
"Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa của các quan hệ xã
hội".
Với tác phẩm "Luận cương về Phoiơbắc" và nhất là tác phẩm “Hệ tư tưởng
Đức” quan niệm duy vật lịch sử đã hình thành. Quan niệm đó tạo cơ sở lý luận
khoa học vững chắc cho sự phát triển tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy vậy trong
hệ tư tưởng Đức, học thuyết về chủ nghĩa cộng sản được hai ông trình bày như là
một hệ quả trực tiếp của quan niệm duy vật lịch sử cho nên chủ nghĩa cộng sản
chưa được diễn đạt thành luận điểm cụ thể. Song, một điều quan trọng là Các Mác
và Ăngghen đã xây dựng phương pháp tiếp cận khoa học để nhận thức chủ nghĩa
cộng sản.
9
Năm 1847, Các Mác viết tác phẩm: "Sự khốn cùng của triết học". Ở đây ông
trình bày tiếp các nguyên lý của triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và trình
bày các luận điểm để viết tác phẩm tư bản.
Năm 1848, Các Mác và Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tuyên ngôn cộng sản” là
văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, của phong trào cộng
sản thế giới. Trong đó trình bày một cách triệt để thế giới quan mới, chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Với tác phẩm Tuyên ngôn cộng sản, triết học Mác và chủ nghĩa Mác nói
chung đã hình thành và sẽ được Các Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục bổ sung phát
triển trong thời gian sau.
1.2.3 Giai đoạn Các Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển lý luận triết
học.
Từ sau “Tuyên ngôn cộng sản”, học thuyết triết học Mác tiếp tục được phát
triển trong sự gắn bó hơn nữa với thực tiễn cách mạng vô sản mà hai ông là lãnh
tụ. Bằng hoạt động của mình, hai ông đã đưa phong trào cách mạng của giai cấp

vô sản từ tự phát thành phong trào tự giác; chính qua đó, học thuyết triết học của
hai ông không ngừng được phát triển.
Các Mác đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của phong trào đấu tranh cách
mạng để khái quát tìm ra những kết luận, qua đó bổ sung và phát triển lý luận.
Điều đó được biểu hiện qua nội dung của một số tác phẩm như: "Đấu tranh giai
cấp ở Pháp", "Nội chiến ở Pháp", "Phê phán cương lĩnh Gôta". Đặc biệt qua bộ Tư
bản, ông đã trình bày những tất yếu phát triển của nền sản xuất xã hội, lịch sử thay
thế các hình thái kinh tế xã hội v.v.
Trong khi đó, Ăngghen đã khái quát các thành tựu khoa học để viết các tác
phẩm như: “Chống Đuyrinh”, “ Biện chứng của tự nhiên”, “ Nguồn gốc của gia
đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”v.v Trong các tác phẩm đó, ngoài việc
phê phán các quan điểm triết học duy tâm, siêu hình và duy vật tầm thường, ông
đã trình bày học thuyết triết học Mác dưới dạng hệ thống lý luận hoàn thiện hơn.
10
Chương 2 THỰC CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA CUỘC CÁCH MẠNG TRONG
TRIẾT HỌC DO CÁC MÁC VÀ ĂNGGHEN THỰC HIỆN
2.1 Thực chất
Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch
sử triết học .
Triết học Mác đã tạo ra hình thức phát triển cao của chủ nghĩa duy vật là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và hình thức phát triển cao của phép biện chứng là phép
biện chứng duy vật. Triết học Mác thực sự khắc phục được sự tách rời thế giới
quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Cố nhiên,
trong chủ nghĩa duy vật trước Mác đã chứa đựng không ít những luận điểm riêng
biệt thể hiện tinh thần biện chứng; song, do sự hạn chế của điều kiện xã hội và
trình độ phát triển của khoa học nên tính siêu hình vẫn là một nhược điểm chung
của nó. Do vậy, quan điểm duy vật của những học thuyết đó thường thiếu triệt để.
Đây là điểm yếu để chủ nghĩa duy tâm lợi dụng tiến hành đấu tranh chống lại. Còn
phép biện chứng lại được phát triển trong cái vỏ bọc duy tâm thần bí tiêu biểu
trong triết học của Hêghen. Cho nên, nội dung của phép biện chứng chưa phản ánh

đúng thế giới hiện thực. Các Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ,
khắc phục hạn chế siêu hình; cải tạo phép biện chứng, giải thoát khỏi cái vỏ duy
tâm. Từ đó khái quát xây dựng một học thuyết triết học mới - chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
Trước triết học Mác, có một số học thuyết triết học bàn đến vấn đề xã hội;
song, do hạn chế về thế giới quan hoặc phương pháp luận nên các học thuyết đó
mới chỉ nghiên cứu hoặc lĩnh vực này hoặc lĩnh vực kia mà chưa nghiên cứu toàn
diện mọi mặt của xã hội. Do vậy không thể nào tìm ra được quy luật phát triển
chung của xã hội loài người. Các Mác và Ph.Ăngghen đã vận dụng những lý luận
của duy vật biện chứng để nghiên cứu lĩnh vực xã hội, tìm ra các quy luật phát
triển chung của xã hội loài người và tiến trình phát triển tất yếu tự nhiên của nó.
Từ đó xây dựng, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử với tính cách là bộ phận của
triết học Mác. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa
11
học. Đó là một cuộc cách mạng thực sự trong triết học. Từ khi chủ nghĩa duy vật
lịch sử ra đời đã loại bỏ được cơ sở tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm.
Những học thuyết triết học trước triết học Mác thường mới dừng lại ở việc
giải thích thế giới, cho nên họ chưa đề cập đến vai trò của hoạt động thực tiễn đối
với lý luận, lý luận thường tách rời với thực tiễn. Do vậy, không tránh khỏi tình
trạng rơi vào quan điểm duy tâm về xã hội. Ngay cả ở trong triết học Phoiơbắc tuy
coi vấn đề con người là trung tâm thế nhưng đây chỉ mới là con người thuần túy về
mặt sinh vật, chưa phải con người với tính cách là chủ thể hoạt động cải tạo thế
giới. Còn triết học Mác đã xác định rõ: Nhiệm vụ của mình không chỉ dừng lại ở
giải thích thế giới mà chủ yếu là tìm ra các phương tiện, các biện pháp để cải tạo
thế giới bằng cách mạng. Triết học Mác thường lấy hoạt động thực tiễn cải tạo xã
hội, cải tạo thế giới của con người là điểm xuất phát và thông qua quá trình hoạt
động thực tiễn để hoàn thiện hệ thống lý luận của mình. Như vậy, lần đầu tiên
trong lịch sử triết học, triết học Mác đã tạo ra được sự gắn kết chặt chẽ giữa lý
luận với thực tiễn. Lý luận xuất phát từ thực tiễn, chịu sự quyết định của thực tiễn;
khi ra đời, lý luận định hướng hoạt động thực tiễn. Vì thế, so với các học thuyết

triết học khác thì triết học Mác luôn luôn được bổ sung và hoàn thiện.
2.2 Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do Các Mác và Ph.Ăngghen
thực hiện.
Nhờ sự ra đời của triết học Mác mà vai trò xã hội cũng như vị trí của triết học
trong hệ thống tri thức khoa học và đối tượng triết học có thay đổi căn bản.
Khi ra đời triết học Mác đã trở thành thế giới quan khoa học của giai cấp vô sản,
giai cấp vô sản có cơ sở lý luận khoa học để nhận thức thực tiễn xã hội; từ đó định
ra được đường lối chiến lược và đề ra những biện pháp đấu tranh cải biến xã hội
có hiệu quả. Sự kết hợp giữa lý luận triết học Mác với phong trào vô sản đã tạo
nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. Triết
học Mác còn là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống lại hệ tư tưởng tư sản, chủ
nghĩa xét lại, cơ hội và chủ nghĩa giáo điều, góp phần quan trọng tạo ra sự thống
nhất của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.
12
Triết học Mác cũng đã chấm dứt tham vọng ở nhiều triết học coi triết học là
"khoa học của mọi khoa học" đứng trên mọi khoa học, Các Mác và Ph.Ăngghen
đã xây dựng lý luận triết học của mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội. Đến lượt mình, triết học Mác ra đời đã trở thành
thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung định hướng sự phát triển của
các khoa học và phương pháp luận chung định hướng sự phát triển của các khoa
học. Sự phát triển của khoa học ngày càng chứng tỏ sự cần thiết phải có tư duy
biện chứng duy vật và ngược lại, phải phát triển lý luận triết học Mác dựa trên
những thành tựu của khoa học hiện đại. Như vậy, triết học Mác đã phân định rõ
ranh giới giữa triết học với các khoa học khác và thiết lập được mối quan hệ chặt
chẽ giữa chúng, cũng như xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra
quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Chương 3 VẬN DỤNG CHỦ NGHĨA MÁC LÊ NIN TRONG ĐIỀU KIỆN
HIỆN NAY
Đặc điểm của thời đại hiện nay là sự tương tác giữa hai quá trình cách mạng -
cách mạng khoa học công nghệ và cách mạng xã hội, đã tạo nên sự biến đổi rất

năng động của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, quá trình tạo ra những tiền đề
của chủ nghĩa xã hội diễn ra trong các nước tư bản phát triển được đẩy mạnh như
một xu hướng khách quan. Sự ra đời của công ty cổ phần từ cuối thế kỷ trước đã
được Các Mác xem là "hình thái quá độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa"
sang "phương thức sản xuất tập thể". Song, hiện thực khách quan đó đã vượt khỏi
giới hạn nhận thức chật hẹp của chủ nghĩa giáo điều tồn tại trong một số người.
Tính biện chứng của sự tiến hóa xã hội diễn ra trong những mâu thuẫn và thông
qua các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cũng là một trong những nguồn gốc nảy
sinh những khuynh hướng sai lầm khác nhau, thậm chí đi tới "xét lại" trong phong
trào cộng sản và công nhân thế giới. Điều này đã được Lênin phân tích, chỉ rõ: Do
không nắm vững phép biện chứng duy vật, có những cá nhân hay nhóm người
luôn phóng đại khi thì đặc điểm này, khi thì đặc điểm nọ của sự phát triển tư bản
13
chủ nghĩa; khi thì "bài học" này, khi thì "bài học" nọ của sự phát triển ấy, thành lý
thuyết phiến diện, thành một hệ thống sách lược phiến diện.
Sự khủng khoảng của chủ nghĩa xã hội làm cho yêu cầu phát triển triết học
Mác - Lênin càng trở nên cấp bách. Thực tiễn cuộc đấu tranh bảo vệ thành quả mà
chủ nghĩa xã hội đã giành được, nhất là cuộc đấu tranh bảo vệ đưa sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội vượt qua thách thức to lớn hiện nay và tiếp tục tiến lên, đòi
hỏi các Đảng cộng sản phải nắm vững lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói
chung và triết học Mác - Lênin nói riêng. Trước hết phải thấm nhuần thế giới quan
duy vật và phép biện chứng khoa học của nó.
Hiện nay ở các nước do Đảng cộng sản nắm quyền lãnh đạo đang thực hiện
quá trình đổi mới đã tạo ra một số thành công và gặp không ít thất bại. Cả sự thành
công và thất bại đó đều đòi hỏi phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại,
khắc phục bệnh giáo điều trong việc vận dụng lý luận. Phải biết tổng kết những
thành tựu của khoa học hiện đại, khái quát sự phát triển của lịch sử xã hội, tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn qua công cuộc đổi mới để bổ sung, hoàn thiện triết học
Mác - Lênin. Chúng ta không thể đổi mới thành công nếu xa rời lập trường của
chủ nghĩa Mác - Lênin, rơi vào chủ nghĩa xét lại.

Như vậy, phát triển lý luận triết học Mác - Lênin và đổi mới chủ nghĩa xã hội
trong thực tiễn là một quá trình thống nhất, bởi vì "Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin".
14
KẾT LUẬN
Triết học Mác đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử phát triển của triết học. Mác và Ăngghen đã giải thoát chủ
nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu hình. Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận
thức xã hội loài người: “ Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại
nhất của tư tưởng khoa học “.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình triết học Mác - Lênin [ Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh], NXB
CTQG, H, 1999.
2. Giáo trình triết học Mác - Lênin [ Bộ Giáo dục và Đào tạo], NXB CTQG, H,
2002.
3. Từ điển triết học, NXB Tiến Bộ, Matxcơva.
15
16

Những cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết học

[ĐCSVN] - Kỷ niệm 203 năm ngày sinh C.Mác [05/5/1818 - 05/5/2021] là dịp để chúng ta cùng nhìn lại những cống hiến của ông cho nhân loại trên nhiều lĩnh vực. Trong đó, trước hết phải kể đến những cống hiến vĩ đại của ông trong lĩnh vực triết học.
C.Mác[1818 - 1883] - lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. [Ảnh tư liệu]

Triết học Mác là một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là công cụ nhận thức vĩ đại để giai cấp công nhân nhận thức và cải tạo thế giới, xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công; giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xây dựng chế độ xã hội mới tốt đẹp hơn đó là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết học đó là tạo nên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng; sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử; làm cho triết học trở thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng để giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Một là, C.Mác đã tạo nên sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phép biện chứng, cho ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng

Trong lịch sử triết học duy vật trước C.Mác đã chứa đựng không ít những hạt nhân hợp lý. Nhưng do sự hạn chế của điều kiện lịch sử xã hội, trình độ phát triển của khoa học cho nên tính siêu hình, duy vật về tự nhiên, duy tâm về xã hội là nhược điểm lớn nhất của chủ nghĩa duy vật trước C.Mác. Trong khi đó, phép biện chứng lại bị nhốt trong cái vỏ duy tâm thần bí của triết học cổ điển Đức, đặc biệt là hệ thống triết học duy tâm, bảo thủ, phản động của G.V.Ph.Hêghen. Để xây dựng một thế giới quan, phương pháp luận triết học thực sự khoa học và cách mạng, đem lại cho loài người một công cụ nhận thức vĩ đại, C.Mác đã tiến hành cải tạo chủ nghĩa duy vật L.Phoiơbắc, phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Công lao của C.Mác trong cải tạo chủ nghĩa duy vật đã được V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người” [1].

Phép biện chứng là một cống hiến vĩ đại, không thể phủ nhận của C.Mác. C.Mác đã chủ định nghiên cứu phép biện chứng từ rất sớm. Trong khi thừa nhận những hạt nhân hợp lý, C.Mác đã chỉ ra thế giới quan duy tâm, lộn ngược, tính chất bảo thủ, phản động, bất lực trước những vấn đề xã hội và lịch sử trong phép biện chứng của G.V.Ph.Hêghen. C.Mác đã đặt ra yêu cầu phải sử dụng phép biện chứng duy vật để phân tích các vấn đề xã hội và lịch sử. Theo đó, phép biện chứng duy vật của C.Mác khác hẳn về chất so với phép biện chứng duy tâm của G.V.Ph.Hêghen. Đúng như C.Mác đã khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp của Hê-ghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa.”[2]. Tạo ra sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng là cống hiến vĩ đại của C.Mác mà trong lịch sử triết học chưa từng có. C.Mác đã đem lại cho loài người tiến bộ vũ khí lý luận sắc bén, công cụ nhận thức vĩ đại.

Hai là, C.Mác đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử

Chủ nghĩa duy vật lịch sử là một trong hai phát minh vĩ đại nhất của C.Mác. C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại trong lĩnh vực triết học, chấm dứt sự hỗn loạn trong phương pháp tiếp cận và những giải thích sai lầm về các hiện tượng lịch sử và xã hội của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo. Vượt lên trên các trường phái, học thuyết triết học trong lịch sử, C.Mác chủ trương không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới với khẳng định: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”[3]. Tất yếu phải vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử, xã hội.

Khởi đầu của quan niệm duy vật lịch sử, C.Mác cho rằng, tiền đề đầu tiên là con người sống và hoạt động, các điều kiện vật chất đảm bảo cho họ tồn tại và phát triển. Toàn bộ lịch sử xã hội loài người bắt đầu từ sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất phân biệt con người với con vật. Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Theo đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong lĩnh vực xã hội: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội; chỉ ra quy luật vận động, phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quy luật về đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp đối kháng, quy luật về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.... Những nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử là thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học để giai cấp công nhân nhận thức rõ sứ mệnh lịch sử, xác định được mục tiêu, phương pháp, lực lượng tiến hành cách mạng.

Ba là, C.Mác đã làm cho triết học trở thành vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân và nhân dân lao động

Những cống hiến của C.Mác trong lĩnh vực triết học không phải do mục đích tự thân, chủ quan của C.Mác mà nhằm giải quyết những nhiệm vụ thực tiễn của nhân loại. C.Mác đã sớm khẳng định: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”[4]. Sức mạnh “cải tạo thế giới” của triết học Mác chính là ở sự gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản trở thành vũ khí vật chất của triết học Mác. Trong cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giai cấp vô sản đã tìm thấy công cụ nhận thức vĩ đại, vũ khí tinh thần của mình là triết học Mác. Sự kết hợp triết học Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất của phong trào từ trình độ tự phát lên tự giác. C.Mác đã làm cho triết học của các ông trở thành thế giới quan, phương pháp luận cách mạng và khoa học để giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

Những cống hiến vĩ đại của C.Mác trong lĩnh vực triết học đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị. Thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật của triết học Mác là những giá trị vĩnh hằng trong sự vận động, phát triển không ngừng của thực tiễn. Bản chất cách mạng và khoa học của triết học Mác ngày càng được chứng minh bởi sự phát triển của thế giới vật chất, xã hội loài người, đặc biệt là những thành tựu của khoa học. Những người cộng sản phải bảo vệ cho được những giá trị vĩnh hằng của triết học Mác bằng cách nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo, đồng thời thường xuyên bổ sung và phát triển bằng những luận cứ, luận chứng khoa học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2005, tr. 53.

[2]. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1993, tập 23, tr. 35.

[3]. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 1995, tập 3, tr. 12.

[4]. C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội 2002, tr. 589.

Trung tá, TS Phạm Công Thưởng
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Mục lục

Tổng quanSửa đổi

Triết học Marx-Lenin là một trong ba bộ phận cấu thành của Chủ nghĩa Mác – Lenin; đầu tiên là Triết học Mác, do Mác và Enghen sáng lập ra, được Lenin và các nhà mácxít khác phát triển thêm. Triết học Mác ra đời vào những năm 40 thế kỉ 19 và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn trong phong trào cách mạng công nhân. Sự ra đời của Triết học Mác là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Nhưng cuộc cách mạng ấy bao hàm tính kế thừa, tiếp thu tất cả những nhân tố tiên tiến và tiến bộ mà lịch sử tư tưởng loài người đã để lại.

Triết học Mác là triết học duy vật. Nhưng các nhà sáng lập của triết học đó không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỉ 18 mà những thiếu sót chủ yếu nhất của nó là máy móc, siêu hình và duy tâm khi xem xét các hiện tượng xã hội. Các ông đã khắc phục những thiếu sót ấy, đưa triết học tiến lên một bước phát triển mới bằng cách tiếp thu một cách có phê phán những thành quả của triết học cổ điển Đức, nhất là phép biện chứng trong hệ thống triết học của Hegel. Tuy nhiên, phép biện chứng của Hegel là phép biện chứng duy tâm, vì vậy, các nhà sáng lập Triết học Mác đã cải tạo nó, đặt nó trên lập trường duy vật. Chính trong quá trình cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hegel và phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ, trên cơ sở khái quát hoá những thành tựu của khoa học tự nhiên và thực tiễn cho đến giữa thế kỉ 19, Mác và Enghen đã tạo ra triết học của mình.

Triết học ấy sau này đã được Lenin phát triển thêm và trở thành Triết học Mác - Lenin. Triết học Mác - Lenin là triết học duy vật biện chứng triệt để. Lenin hy vọng khắc phục được những thiếu sót của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Trong Triết học Mác - Lenin, các quan điểm duy vật về tự nhiên và về xã hội, các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau thành một hệ thống lý luận thống nhất.

Video liên quan

Chủ Đề