Viết bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh

  1. Muốn viết bài giới thiệu một danh lam thắng cảnh như vậy, cần phải có những hiểu biết sâu rộng về văn hoá, lịch sử, địa lí, ... về đối tượng đó.
  1. Để có những kiến thức về một danh lam thắng cảnh phải đọc sách báo, tài liệu liên quan, thu thập thông tin, xem phim ảnh, ... tốt nhất là có điều kiện đến tham quan trực tiếp.

Quảng cáo

- Bài viết được trình bày bố cụ 3 phần, còn thiếu mở bài và kết bài.

- Phần thân bài: còn thiếu vị trí, độ rộng, hẹp của hồ, vị trí của tháp rùa, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc.

- Nội dung bài viết còn khô khan, chưa miêu tả được quang cảnh xung quanh, cây cối, màu nước, ...

  1. Phương pháp thuyết minh chủ yếu: Nêu định nghĩa và giải thích.

II. Luyện tập

Câu 1: Có thể lập lại bố cục của bài thuyết minh về Hồ Hoàn Kiếm và Đền Ngọc Sơn như sau:

Mở bài: Giới thiệu chung về thắng cảnh hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn.

Thân bài:

Đoạn 1: giới thiệu hồ Hoàn Kiếm.

Đoạn 2: giới thiệu đền Ngọc Sơn.

Kết bài: Nói chung về khu vực Bờ Hồ.

Quảng cáo

Câu 2: Có thể từ trên gác nhà Bưu Điện nhìn bao quát cảnh hồ, đền:

- Từ đường Đinh Tiên Hoàng nhìn Đài Nghiên, Tháp Bút, qua cầu Thê Húc vào đền.

- Từ Ba Đình ra hồ, về phía Thủy Tạ, về phía Tháp Rùa.

- Tả bên trong đền.

Câu 3: Những chi tiết tiêu biểu:

- Rùa Hồ Gươm.

- Truyền thuyết trả gươm thần.

- Cầu Thê Húc, Tháp Bút.

- Vấn đề giữ gìn cảnh quan và trong sạch Hồ Gươm.

Câu 4:

Câu của nhà thơ nước ngoài gọi Hồ Gươm là "chiếc lẵng hoa xinh đẹp giữa lòng Hà Nội" có thể sử dụng ở nhiều vị trí: trong phần mở bài, giới thiệu chung và hồ Gươm và đền Ngọc Sơn hay ở phần thân bài, ngay đầu đoạn 1 khi giới thiệu về hồ Gươm. Nhưng lại cũng có thể dùng để kết đoạn 1, trước khi chuyển sang đoạn 2, giới thiệu về đền Ngọc Sơn.

Quảng cáo

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 8 cực ngắn, hay khác:

  • Ôn tập về văn bản thuyết minh
  • Ngắm trăng [Hồ Chí Minh]
  • Đi đường [Tẩu lộ - Hồ Chí Minh]
  • Câu cảm thán
  • Câu trần thuật

Xem thêm các loạt bài Để học tốt Ngữ văn 8 hay khác:

  • Soạn Văn 8
  • Soạn Văn 8 [siêu ngắn]
  • Soạn Văn lớp 8 [cực ngắn]
  • Văn mẫu lớp 8
  • Tác giả - Tác phẩm Văn 8
  • Lý thuyết, Bài tập Tiếng Việt - Tập làm văn 8
  • 1000 câu trắc nghiệm Ngữ văn 8
  • Giải vở bài tập Ngữ văn 8
  • Top 55 Đề thi Ngữ Văn 8 [có đáp án]
  • Gói luyện thi online hơn 1 triệu câu hỏi đầy đủ các lớp, các môn, có đáp án chi tiết. Chỉ từ 200k!

Săn SALE shopee tháng 12:

  • Đồ dùng học tập giá rẻ
  • Sữa dưỡng thể Vaseline chỉ hơn 40k/chai
  • Tsubaki 199k/3 chai
  • L'Oreal mua 1 tặng 3

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 8

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại //tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Soạn văn lớp 8 ngắn nhất | Soạn bài lớp 8 ngắn nhất của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Để học tốt ngữ văn 8 và bám sát nội dung sgk Ngữ văn 8 Tập 1 và Tập 2.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

Văn mẫu tả danh lam thắng cảnh được ACC chia sẻ trong bài viết này là bài văn mẫu tả ngắn về một danh lam thắng cảnh, văn mẫu tả một danh lam thắng cảnh ở địa phương em, Văn 8 thuyết minh về một danh lam thắng cảnh. tả danh lam thắng cảnh Hà Nội, bản đồ thuyết minh về danh lam thắng cảnh... hay và chi tiết giúp các em nắm được cách làm bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh Chiến thắng giúp người đọc hiểu hơn về danh lam thắng cảnh của quê hương mình.

Văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở địa phương em, thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở Hà Nội hay văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh lớp 8 đều là những tài liệu tham khảo hay giúp các em học sinh làm một bài văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh. cũng như giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về những địa danh nổi tiếng trên cả nước. Dưới đây là nội dung chi tiết các bài văn mẫu thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở địa phương em, giới thiệu ngắn gọn về một danh lam thắng cảnh ở địa phương mà vẫn đảm bảo đầy đủ nội dung.

1. Giải thích ngắn gọn về một nơi đẹp như tranh vẽ

  1. Bài mở đầu

- Giới thiệu đối tượng văn tự sự: Tên địa danh có tranh muốn giới thiệu.

- Cảm nghĩ chung của em về danh lam thắng cảnh này.

  1. Thân bài

Giới thiệu chung:

  • Địa lý và vị trí địa điểm
  • Tổng quan về chế độ xem toàn cảnh
  • Hướng dẫn chi tiết để đến đến địa danh độc đáo này

Khởi đầu câu chuyện:

  • Giai đoạn xây dựng và nguồn gốc hình thành
  • Ý nghĩa của tên gọi hoặc tên gọi khác [nếu có]

Giới thiệu về kiến trúc và cảnh quan:

  • Bố cục khi nhìn từ xa
  • Mô tả chi tiết các đặc điểm nét độc đáo và quan trọng của danh lam thắng
  • [Sử dụng hình ảnh, cảm xúc và mô tả tự sự để mô tả chi tiết và độc đáo hóa câu chuyện]

Ý nghĩa lịch sử và văn hóa đối với người kể chuyện đối với:

  • Các tác động đối với cộng đồng địa phương
  • Tầm quan trọng quốc gia
  • Kết bài

- Khẳng định lại một lần nữa giá trị, ý nghĩa của danh lam thắng cảnh mà em đã giải thích ở trên đối với địa phương, đất nước.

- Nêu cảm nghĩ của bản thân về chủ đề bài thuyết minh.

2. Thuyết minh ngắn gọn nhất về một danh lam thắng cảnh

Thuyết minh ngắn gọn nhất về một danh lam thắng cảnh

Quê hương tôi là huyện Đông Anh xinh đẹp với nhiều di tích lịch sử nổi tiếng như đền Sái, đền Cổ Loa. Chắc hẳn khi nhắc đến Đền Cổ Loa, mọi người sẽ thấy rất quen thuộc bởi đây là một di tích lịch sử gắn liền với những truyền thuyết của người Việt như vua An Dương Vương Tiêu Định xây thành, nỏ thần Kim Quy. .. Được mệnh danh là thành cổ lớn nhất Việt Nam, khu di tích Cổ Loa hiện nay thuộc địa phận xã Cổ Loa, huyện Đông Anh. Hàng năm vào ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch, nhân dân cả nước lại nô nức kéo về Lễ hội Cổ Loa để xem các nghi lễ trọng thể cũng như các hoạt động văn nghệ dân gian đặc sắc.

Vào thời Âu Lạc, Cổ Loa nằm ở đỉnh của tam giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng giữa đường thủy và bộ. Về giao thông đường sông, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi. Là vị trí nối hệ thống sông Hồng với hệ thống sông Sông Thái Bình. Địa danh Cổ Loa vốn là đất Phong Khê, lúc bấy giờ là một vùng đồng bằng trù phú có làng mạc, dân cư đông đúc, sống bằng nghề nông, ngư nghiệp và thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây đánh dấu một thời kỳ phát triển của cư dân Việt cổ, thời kỳ người Việt dời trung tâm quyền lực từ vùng trung du bán sơn địa về đồng bằng.

Thành xây theo kiểu xoắn ốc [gọi là Loa Thành], tương truyền có 9 vòng, dưới vòng thành là hào sâu ngập nước để thuyền bè qua lại. Ngày nay, ở Cổ Loa còn lại 3 vòng thành bằng đất: vòng thành ngoài [8 km], vòng thành giữa [hình đa giác, chu vi 6,5 km] và vòng thành trong [hình chữ nhật, chu vi 1,6 km]. Thành ngày nay còn có chiều cao trung bình 4-5 m, có nơi cao tới 12 m, thành rộng tới 20-30 m. Các cổng của ba thành cũng được bố trí rất tốt; không nằm trên cùng một trục mà phân kỳ rất nhiều. Vì vậy, đường nối hai cửa thành cùng hướng là đường quanh co, hai bên có gò phòng thủ, gây nhiều trở ngại cho quân địch khi tiến công vào thành.

Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với mặt đất, mặt rộng từ 6 m đến 12 m, chân rộng 20 m đến 30 m, chu vi 1.650 m, có cửa Ngự. tòa kiến ​​trúc Triệu Dĩ Quý. Thành là một tòa thành hình tròn không đối xứng, dài 6.500m, chỗ cao nhất 10m, rộng trung bình 10m, có 5 cửa theo các hướng Đông, Nam, Bắc, Tây Bắc và Tây Nam, trong đó cửa phía Đông. thông với sông Hồng. Thành ngoại cũng không có hình thù rõ ràng, dài hơn 8.000 m, cao trung bình từ 3 m đến 4 m [có nơi hơn 8 m]. Mỗi tòa thành đều có hào bao bọc bên ngoài, hào trung bình rộng từ 10m đến 30m, có nơi còn rộng hơn. Các chiến hào thông với nhau và thông ra sông Hoàng. Sự kết hợp giữa sông, hào và tường thành không có hình thù nhất định khiến lâu đài như một mê cung, một khu quân sự vừa tốt cho tấn công vừa tốt cho phòng thủ.

Trải qua các thời kỳ lịch sử, Cổ Loa có nhiều tên gọi: Thành Loa [Thành Ốc], thành Côn Lôn, thành Tử Long, thành Cửu Thành, thành Việt Vương, thành Khả Lữ, thành Cổ Loa. Thế kỷ X, khi Ngô Quyền lên ngôi, Cổ Loa lần thứ hai trở thành kinh đô. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn nhất, kết cấu cũng độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành quách của người Việt cổ”.

Hiện nay, Cổ Loa là một trong 21 khu du lịch quốc gia của Việt Nam và đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt. Đến với Thành Cổ Loa, du khách không chỉ được tham quan tòa thành vĩ đại của lịch sử mà còn được cảm nhận khung cảnh thôn quê với những di tích của những truyền thuyết xa xưa. Lịch sử đã đi qua, nhưng những di tích lịch sử xưa sẽ sống mãi cùng Thành Cổ Loa.

3. Thuyết minh ngắn gọn nhất về một danh lam thắng cảnh ở địa phương em

Nhắc đến quê hương Thái Bình, chắc hẳn ai cũng sẽ nhớ đến quê hương năm tấn và những cánh đồng lúa chín bạt ngàn. Tuy nhiên quê hương Thái Bình thân yêu của em còn có một di tích lịch sử rất nổi tiếng và mang nhiều giá trị văn hóa đó là chùa Keo.

Chùa Keo thuộc tỉnh Vũ Thư ngày nay, chùa còn có tên là chùa Thần Quang. Là ngôi chùa cổ đã tồn tại hơn 400 năm. Chùa Keo được xây dựng vào khoảng năm 1630 và hoàn thành vào năm 1632. Chùa được xây dựng theo lối kiến ​​trúc thời Lê.

Chùa Keo Thái Bình ngày nay hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Đặc biệt là các công trình được tôn tạo dưới thời Trung Hưng như: Tam quan, điện Phật, điện thiêng, lầu chuông, hành lang...

Nét đặc sắc của chùa Keo là sự bố trí các giàn tượng Pháp: tầng trên cùng là tòa Tam Thế là nơi đặt tượng Phật quá khứ, Phật hiện tại và Phật vị lai; hạng thứ hai có Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Trí; lớp thứ ba có Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu; hạng thứ tư có Văn Thù, Phổ Hiền, A La Hán. Đến chùa Keo, chúng ta được tận mắt chiêm ngưỡng những cổ vật hàng trăm năm tuổi như: chân đèn thời Mạc, đồ gốm sứ thời Lê, thuyền rồng Long Đình, tượng Phật, hương án thời Lê, tất cả đều được sơn son thếp vàng sáng loáng.

Không chỉ độc đáo về pho tượng hay cổ vật hàng thế kỷ mà chùa Keo còn đẹp và quý bởi kiến ​​trúc vào loại ấn tượng nhất so với những ngôi chùa nổi tiếng ở nước ta. Toàn bộ công trình được làm bằng gỗ lim. Dưới bàn tay khéo léo của những người thợ thời Hậu Lê, họ đã tạo nên một vẻ đẹp rất riêng của chùa Keo.

Điểm nhấn của 107 ngôi chùa còn lại là tháp chuông. Lầu chuông chùa Keo cao 11,04m, thiết kế ba tầng mái, kết cấu kiểu chồng tranh. Khung gác chuông được làm bằng gỗ, ghép với nhau bằng các mộng nâng đỡ 12 mái ngói 12 mái đao cong vút, dáng vẻ thanh thoát, mềm mại. Ngày nay, tháp chuông còn là biểu tượng du lịch của tỉnh Thái Bình.

Một trong những nét độc đáo của chùa Keo mà du khách không thể quên đó là cách trang trí bên ngoài. Trong vườn chùa trồng rất nhiều cây và hoa quý. Khu phức hợp ngôi đền được phản chiếu trong ba hồ nước hình chữ nhật ở phía trước và hai bên. Xung quanh hồ, những cây cổ thụ cao lớn quanh năm tươi tốt càng làm tăng thêm vẻ cổ kính, uy nghiêm. Có một câu nói phổ biến:

“Mặc dù cha tôi đánh mẹ tôi,

Tôi không rời hội Chùa Keo vào ngày rằm.”

Chùa Keo hàng năm tổ chức hai kỳ lễ hội. Lễ hội mùa xuân bắt đầu vào ngày 4 tháng Giêng. Sau kỳ nghỉ Tết đoàn viên, dân làng khắp Thái Bình và các tỉnh lân cận lại nô nức trẩy hội chùa Keo. Đến với chùa Keo trong dịp lễ hội đầu xuân, du khách sẽ được tham dự lễ dâng hương đền Thánh, lễ rước kiệu… Và hơn hết, du khách sẽ được hòa mình vào các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca. của miền Bắc...

Lễ hội mùa thu chùa Keo được tổ chức vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 âm lịch hàng năm. Đây là mùa lễ chính, tưởng nhớ thiền sư Không Lộ, người khai sáng chùa Keo. Ngoài các trò chơi dân gian, lễ rước kiệu, cúng các vị thánh, người dân còn dâng hương, hoa, trà quả và tham gia hội thi văn nghệ với nhiều chủ đề sinh động.

Đến với chùa Keo, du khách còn được nghe kể về những truyền thuyết thú vị như: Tương truyền từ khi đắc đạo, thiền sư Không Lộ có khả năng bay trên không, đi trên mặt nước và thuần phục rắn hổ mang. Truyền thuyết cũng nói rằng trước khi chết, ông đã biến thành một khúc gỗ trầm hương, phủ một chiếc áo choàng lên và khúc gỗ biến thành một bức tượng. Pho tượng này luôn được để trong hậu cung quanh năm. Chùa Keo nằm dưới chân kè sông Hồng, giữa một vùng đồng bằng không bóng núi, Chùa Keo và Gác Chuông như một đóa sen vươn lên giữa một biển lúa xanh bát ngát của người trồng. phù sa sông Hồng bởi nước sông Trà Lý. Đó là một trong những di sản quý báu minh chứng cho văn hóa, truyền thống của dân tộc.

4. Thuyết minh về Thành cổ Quảng Trị

4.1 Vài nét về Thành Cổ Quảng Trị

Bắt đầu: Trình bày những di tích lịch sử đã được nghiên cứu và lựa chọn để trình bày: Có thể kể đến thành cổ Quảng Trị.

Phân tích đôi chút về di tích này: Di tích này đại diện cho một quần thể kiến ​​trúc lịch sử nổi tiếng, chứa đựng những tượng trưng tương đối quan trọng trong quá khứ.

Khám phá hình dáng và cấu trúc:

Xem xét vị trí cụ thể và địa điểm của di tích.

Giới thiệu sự độc đáo của di tích:

Đề cập đến những nét đặc sắc và độc đáo của di tích lịch sử này.

Thảo luận về tầm quan trọng của di tích:

Bàn luận về vai trò và ý nghĩa của di tích này trong lịch sử và văn hóa.

Kết thúc: Cảm nhận cá nhân về di tích lịch sử này:

Bạn cảm thấy như thế nào về di tích lịch sử này?

4.2 Mô tả danh lam thắng cảnh - Thành Cổ Quảng Trị

“Cỏ non thành cũ xanh non

Thành Bình Minh cỏ mềm đung đưa trong gió. Cỏ non thành cũ một màu xanh non

Ai có thể nghĩ rằng nơi này đã từng là một cuộc đổ máu… ”

Nhắc đến Quảng Trị, chúng ta không thể không nhắc đến Thành cổ Quảng Trị, một danh lam thắng cảnh, đồng thời là di tích lịch sử, nơi tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ của “một thời oanh liệt”.

Thành cổ Quảng Trị nằm ở trung tâm thành phố Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị, là di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam. Thành được đắp bằng đất từ ​​thời vua Gia Long, ban đầu thành Quảng Trị thuộc địa phận huyện Tiên Kiên [Triệu Thành - Triệu Phong], đến năm 1809 vua Gia Long dời về xã Thạch Hãn [tức địa điểm hiện nay]. , ở phường 2, TP.Quảng Trị].

Không chỉ ghi lại dấu vết của một sự kiện đẫm máu và bi tráng của dân tộc, Thành cổ Quảng Trị còn mang đậm dấu ấn kiến ​​trúc của triều Nguyễn. Thành có hình vuông, chu vi tường hơn 2.000m, cao hơn 4m, chân thành dày hơn 12m, có hệ thống hào bao quanh, bốn góc tường là 4 pháo đài sừng sững. ngoài. Thành được xây dựng theo kiểu thành Việt Nam với tường bao quanh hình vuông bằng gạch nung lớn; kết dính với vôi, mật mía và một số chất phụ gia khác trong dân gian.

Thành có bốn cửa chính đông, tây, nam, bắc. Kiến trúc của mỗi cổng thành đều được xây bằng gạch, gồm hai tầng: tầng dưới là phần móng, phần chính là cửa vòm xây theo kỹ thuật “bốn khối dọc, góc giữa, khuôn đúc”; Tầng trên là vọng lâu với kiến ​​trúc độc đáo theo kiểu vọng lâu xây gạch, mái cong, lợp ngói âm dương.

Trong trung tâm thành phố có nhiều công trình kiến ​​trúc được xây dựng nhằm mục đích phục vụ trực tiếp đời sống và làm việc của các cơ quan công quyền, đường bộ của bộ máy hành chính tỉnh Quảng Trị. Trong đó, Hành cung là công trình quan trọng, là nơi vua ở, thăng quan các tỉnh Quảng Trị hoặc tổ chức lễ hội trong năm.

Ngoài những công trình được xây dựng dưới thời Nguyễn còn lại như Hành cung, Dinh Tuần phủ, dinh Án sát, ngục thất, khám đường…, Thành cổ lại có thêm nhà lao, toà mật thám, trại lính khố xanh, cơ quan thuế đoạn… khi thực dân Pháp đặt chính quyền bảo hộ.

Có thể nói thành cổ Quảng Trị có ý nghĩa to lớn về mặt quân sự, cung cấp tư liệu nghiên cứu lịch sử về thời Nguyễn và là một trung tâm hành chính, chính trị và văn hóa của một địa phương qua nhiều thời kỳ lịch sử, đồng thời nơi đây còn có giá trị về lịch sự bởi thành chính là chứng nhân của một lịch sử đen tối, đầy biến động, bi thương của cả dân tộc, nó chứng kiến sự suy thoái và sụp đổ của nhà Nguyễn và chứng kiến tội ác của thực dân Pháp cũng như Đế quốc Mỹ, chính quyền Ngụy Sài Gòn đã bóc lột, hành hạ nhân dân ta qua hàng chục thập kỷ.

Như vậy, thành cổ Quảng Trị đã và đang chiếm giữ một vị trí quan trọng với người dân đất Quảng nói chung và người Việt Nam nói riêng. Những giá trị của nơi đây cần được bảo tồn, duy trì và phát huy, lưu truyền lại cho thế hệ nay và mai sau để những thế hệ ấy có cơ hội tìm hiểu, tiếp thu kiến thức về lịch sử nước nhà từ đó thêm trân trọng nền hòa bình của đất nước bởi nó đã được đánh đổi bằng mồ hôi, xương máu của ông cha ta và để có thêm động lực, có thêm lý do mục tiêu cố gắng học tập để cống hiến cho quê hương, đất nước.

Qua bao thăng trầm lịch sử, thành cổ Quảng Trị vẫn ở đó, nhưng người đã mãi ra đi không thể quay về. Chứng kiến ​​tội ác của thực dân, đế quốc, cũng như chứng kiến ​​nỗi đau tang thương của cả dân tộc, mẹ mất con, con mất cha, đàn bà mất chồng. Nơi những anh hùng ngã xuống trước sự tàn khốc của chiến tranh.

Qua bài giảng Thành cổ Quảng Trị chúng ta sẽ phần nào hiểu được nỗi đau mất mát, sự khốc liệt của chiến tranh để lại. Đồng thời cũng khẳng định ý chí đấu tranh, đánh đổi xương máu để có hòa bình của dân tộc ta.

5. Thuyết minh về Chùa Cầu Hội An

Nhắc đến phố cổ Hội An không thể không nhắc đến công trình kiến ​​trúc Chùa Cầu. Di tích Chùa Cầu với vẻ đẹp cổ kính đã đi vào thơ ca, nhạc họa, làm say lòng biết bao người. Đối với người dân Hội An, chùa Cầu là linh hồn, là biểu tượng tồn tại hơn bốn thế kỷ qua. Dự án như một mảnh ghép nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Ngày nay, ngôi chùa vẫn còn đó, uy nghiêm và tĩnh lặng như chứng nhân lịch sử của một thời huy hoàng nhưng vẫn sáng ngời của Hội An. Nằm ở đoạn tiếp giáp của đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú, Chùa Cầu không chỉ gây ấn tượng với lối kiến ​​trúc độc đáo mà còn bởi những bí ẩn mà công trình này mang. Chùa Cầu - đúng như tên gọi - là một ngôi chùa nằm trên cây cầu bắc qua một con lạch nhỏ ở phố cổ Hội An, được xây dựng vào đầu thế kỷ 17 [khoảng năm 1617] bởi các thương nhân Nhật Bản.

Ban đầu chỉ xây cầu bắc qua sông Hoài. Mãi đến năm 1653, người ta mới xây dựng một phần mới của ngôi đền. Khu vực này nối liền với lan can phía Bắc, nhô ra giữa cầu, và cái tên Chùa Cầu cũng bắt nguồn từ đó. Đó là tác phẩm duy nhất có nguồn gốc từ xứ sở Phù Tang trong lịch sử. Năm 1719, khi chúa Nguyễn Phúc Chu đến thăm Hội An, thấy chùa cầu đặc biệt nên đã đặt tên cầu là Lai Viễn Kiều, có nghĩa là “bạn phương xa”. Ngày nay, bạn vẫn có thể bắt gặp 3 chữ Hán: “Lai Viễn Kiều” chạm nổi trên bức đại tự trước cửa chùa.

Được xây dựng bởi người Nhật, cây cầu có mái che mang nét kiến ​​trúc đặc trưng của Việt Nam. Phần cầu dài 18m uốn cong rất thoai thoải. Móng cầu được làm bằng những cột đá cắt vuông vức rất chắc chắn. Chùa Cầu là một công trình kiến ​​trúc phức hợp: CỬA và CẦU. Chùa và cầu được nối với nhau bằng một bức tường gỗ với cổng chính ở hai bên trên và dưới. Phần trên của cầu được thiết kế theo kiểu chùa độc đáo. Chùa gồm 7 gian. Trong đó, 5 gian có kết cấu gỗ theo kiểu chồng cột, 2 đầu hồi uốn cong hình mai cua, lợp ngói âm dương - một nét đặc trưng của kiến ​​trúc Việt Nam. Ở giữa là lối đi kiểu cầu vồng, hai bên có hành lang hẹp làm nơi nghỉ dưỡng bảy gian bằng gỗ. Toàn bộ chùa và cầu được làm bằng gỗ, sơn và chạm khắc nhiều hoa văn tinh xảo theo kiến ​​trúc Việt Nam – tiêu biểu là hình rồng, đồng thời phảng phất chút phong cách Nhật Bản.

Câu chuyện về sự ra đời của cây cầu có mái che gắn liền với những truyền thuyết tâm linh của Nhật Bản. Người Nhật tin rằng dưới đại dương có một vùng biển tên là Namazu. Mỗi khi nó di chuyển, chiếc đuôi của nó vặn xoắn dữ dội khiến mặt đất rung chuyển tạo nên những cơn chấn động kinh hoàng và chỉ có thần sấm sét và kiếm đạo Kashima mới có thể chế ngự được con cá trê khổng lồ này. . Người Nhật cho rằng Namazu có đầu ở Nhật Bản, đuôi ở Ấn Độ, nhưng lưng của nó lại bị cắt ngang bởi một khoảng trống ở Hội An mà cây cầu Nhật Bản bắc qua. Mỗi lần con thủy quái này quẫy đạp, Nhật Bản lại động đất và Hội An không an toàn. Thật trùng hợp, khi sang Việt Nam buôn bán ở Hội An, các thương nhân Nhật Bản thường xuyên phải đối phó với lũ lụt.

Để có thể yên tâm làm ăn, có kinh nghiệm, người Nhật khi đến định cư ở Hội An đã cố gắng tìm thầy phong thủy giỏi để xem thế, lập điểm xây dựng ở đây một hình thanh kiếm. cây cầu đâm vào cột sống của Namazu, ngăn cản nó vẫy đuôi để gây ra động đất. Ngoài ra, người Nhật còn tin rằng linh nữ [khỉ] và linh khuyển [chó] có khả năng trấn áp loài thủy quái này. Vì vậy, để chế ngự Mamazu, người Nhật thờ thần khỉ và thần chó ở hai đầu cầu để chế ngự thủy quái. Cứ điểm chính thức là một bia đá cách cầu khoảng 1 km về phía tây bắc theo đường chim bay. Tấm bia đá khuất sau gốc cây đa ở đường Phan Châu Trinh, cách nhà thờ Tin Lành 300m.

Theo thời gian, khi người Nhật dần biến mất khỏi Hội An, những người Hoa lập nên làng Minh Hương đã nhiều lần góp công trùng tu, sửa chữa công trình kiến ​​trúc cổ kính này. Chùa được trùng tu vào các năm 1817, 1865, 1915, 1986. Tuy được bổ sung thêm một số họa tiết, linh vật tôn kính theo tín ngưỡng của người Hoa nhưng về cơ bản Chùa Cầu không có nhiều thay đổi.

Nhìn từ xa, Chùa Cầu bắc qua một nhánh nhỏ của dòng Thu Bồn quanh năm ôm lấy thành phố, với đường cong của mái che mềm mại, uyển chuyển như chiếc cầu vồng, làm bừng sáng cả một góc phố cổ kính, xưa cũ. mà hiện đại, trầm mặc mà nhộn nhịp, đa sắc màu từ văn hóa đến kiến ​​trúc và tôn giáo. Xung quanh Chùa Cầu được bao bọc bởi những khu phố cổ ngàn năm lịch sử, đâu đó một góc cây cổ thụ hơi buồn nhưng vẫn tràn đầy niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng rạng rỡ của người dân nơi đây. , những con người không ngừng ước mơ và lạc quan yêu đời.

Trầm mặc, cổ kính, trầm mặc giữa nhịp sống hối hả của phố Hội hiện đại, Chùa Cầu ẩn chứa một chiều sâu triết học. Nơi đây đã bao lần chứng kiến ​​sự biến thiên của lịch sử theo thời gian và hơn hết là ghi dấu sự giao thoa của những nền văn hóa đặc sắc, tất cả đã mang đến cho Phố Hội vẻ đẹp hiếm có của Hội An ngày nay.

Năm 1990, cầu có mái che được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Không chỉ mang ý nghĩa tâm linh, cây cầu còn có vai trò quan trọng về giao thông. Đến nay, ngôi chùa dường như đã trở thành tài sản vô giá, chính thức được chọn là biểu tượng của Hội An.

6. Tả một danh lam thắng cảnh: Vịnh Hạ Long

Đất nước hình chữ S nhỏ bé của chúng ta có rất nhiều điểm du lịch độc đáo và nổi tiếng. Tự hào được thiên nhiên ưu đãi, Việt Nam có rất nhiều bãi biển, vịnh đẹp. Có rất nhiều nơi như vậy. Nhưng không thể không có Vịnh Hạ Long.

Hạ Long là tên gọi đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Được UNESCO công nhận là 7 kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất thế giới, Vịnh Hạ Long đã góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hình ảnh đẹp của nước ta trong mắt bạn bè quốc tế. Vịnh Hạ Long nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam, thuộc một phần của Vịnh Bắc Bộ. Vịnh Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh - Việt Nam bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Đồn. Phía tây nam vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, một phần giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km với tổng diện tích 1553 km2.

Vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ. Ở đây có hai loại đảo là đảo đá vôi và đảo đá phiến sét, tập trung ở Bái Tử Long và Vịnh Hạ Long. Tại đây chúng ta có thể tham gia chiêm ngưỡng hàng loạt hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng di sản thiên nhiên được UNESCO công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 hòn đảo. Phần thiên nhiên này được nhận dạng như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Đầu Gỗ ở phía tây, hồ Ba Hầm ở phía nam và đảo Cống Tây ở phía đông. Nét độc đáo của Vịnh Hạ Long nằm ở hình dáng và đặc điểm của những hòn đảo nhỏ này.

Những hang động tuyệt đẹp cũng là một điểm nhấn lớn của Hạ Long. Từng đảo, từng cụm đảo nhìn từ xa như xếp lớp lên nhau, khi lại gần như xen kẽ tạo thành một quần thể đẹp đến kỳ lạ. Chúng ta nên tự hào vì được thiên nhiên ưu ái. Mỗi hòn đảo trong vịnh không chỉ có vẻ đẹp mà còn có hình thù vạn vật. Từ hòn Trống Mái, hòn Ông Sư, hòn Lã Vọng, rồi đến đảo Tuần Châu, hang Trinh Nữ….

Vịnh Hạ Long không chỉ đẹp bởi những đảo đá, núi đá, hang động mà còn đẹp bởi biển nơi đây. Nước biển rất trong xanh. Đó là lý do tại sao khách du lịch thường đến đây để tắm biển và ngắm nhìn các hòn đảo và hang động. Cái tên Vịnh Hạ Long có từ thời Pháp thuộc. Trước đây vịnh có tên là Lục Châu, Lục Hải. Thời Lý, vịnh có tên là Hải Châu. Thời các vua Trần, Lê được gọi bằng các tên như: An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn, Lục Thủy. Tên của vịnh đã thay đổi rất nhiều trong những năm qua. Cái tên Vịnh Hạ Long xuất phát từ truyền thuyết Rồng đáp xuống che chở cho chúng ta khỏi giặc ngoại xâm. Theo nghĩa Hán Việt, "Long" là rồng, "hà" có nghĩa là đáp xuống. Cái tên Hạ Long được đặt theo truyền thuyết này. Vịnh Hạ Long được tôn vinh là kỳ quan thiên nhiên thế giới không chỉ bởi vẻ đẹp mà còn bởi nhiều yếu tố khác. Chẳng hạn, nơi đây có nhiều di chỉ khảo cổ học nổi tiếng: Đồng Mang, Soi Nhụ, Thới Giếng... Hạ Long đã được chứng minh là cái nôi của nền văn minh nhân loại vào cuối thời kỳ đồ đá. Bên cạnh đó, ở đây còn có sự đa dạng sinh học bậc nhất. Với sự tập trung của vô số loài động thực vật đặc trưng cho từng loại hệ sinh thái: hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng nhiệt đới… cũng như hàng nghìn loài động vật biển quý hiếm chỉ có tại vịnh Hạ Long. Một điểm không kém phần quan trọng của Vịnh Hạ Long này là nó gắn liền với bao giai thoại lịch sử của dân tộc, bao chiến công lừng lẫy chống giặc ngoại xâm của các vị tướng anh hùng. Có thể kể đến: chiến thắng Bạch Đằng lừng lẫy năm xưa.

Một kỳ quan thiên nhiên, một dấu ấn lịch sử. Đến với Vịnh Hạ Long, bạn không chỉ được tận hưởng không gian tuyệt đẹp, được bao bọc bởi thiên nhiên, khung cảnh thoải mái, êm dịu mà còn được thưởng thức những món hải sản ngon, các hoạt động vui chơi giải trí. . Đến với Hạ Long chắc chắn bạn sẽ có một kỳ nghỉ tuyệt vời.

7. Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở địa phương em: Phố cổ Hội An

Phố cổ Hội An là một đô thị nổi tiếng của tỉnh Quảng Nam, một đô thị cổ còn hầu như nguyên vẹn với hơn 1000 di tích kiến ​​trúc phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc, giếng cổ... những món ăn truyền thống, tâm hồn của người dân nơi đây. Một chuyến ghé thăm Hội An sẽ làm say lòng du khách bởi vẻ đẹp vượt thời gian, vô cùng mộc mạc và bình dị.

“Tôi muốn nói với thành phố Lai Viễn Kiều Hội

Chờ người quay về bóng sông chiều

Mái cầu gỗ uốn cong, chạm trổ sơn son

Trăm năm ngói vẫn ấm rêu”.

Hội An nổi tiếng với vẻ đẹp kiến ​​trúc truyền thống và hài hòa của những ngôi nhà, những bức tường và những con đường. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Phố cổ Hội An vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính trầm mặc, rêu phong trong từng mái ngói, viên gạch, hàng cây…, nét chân thực của người dân địa phương. Loại hình nhà ở phổ biến nhất là nhà hình ống một hoặc hai tầng với chiều ngang hẹp và chiều sâu rất lớn. Ngôi nhà được làm từ những vật liệu có độ bền cao do khí hậu nơi đây khắc nghiệt, hai bên có tường gạch và khung gỗ riêng biệt, chia làm ba gian, ở giữa có lối đi. Mỗi ngôi nhà ở Hội An đều đảm bảo sự hài hòa giữa không gian sống và thiên nhiên nên ngoài việc bố trí ngôi nhà thành từng gian, phần sân trong nhà được lát đá và trang trí bể nước, hòn non bộ, cây cảnh tạo nên vẻ đẹp tổng thể. Với lối kiến ​​trúc độc đáo, không gian ngôi nhà ở Hội An luôn thoáng đãng, tràn ngập ánh nắng, con người và thiên nhiên hòa làm một.

Các con phố trong khu phố cổ được bố trí theo chiều ngang theo kiểu bàn cờ với những con phố ngắn, đẹp, những ngôi nhà quanh co, bao bọc. Rảo bước qua từng con phố nhỏ yên bình này, du khách không chỉ được thưởng thức những món ăn ngon mà còn thấy được một phần cuộc sống thường ngày của người dân Hội An, một cuộc sống yên bình và giản dị đến lạ kỳ. Quần thể di tích kiến ​​trúc của Hội An rất phong phú và xinh đẹp nên nơi đây đã, đang và sẽ luôn là địa điểm thu hút du khách trong và ngoài nước đến tham quan, khám phá và tận hưởng trọn vẹn kỳ nghỉ của mình khi đặt phòng.Khách sạn ngay phố cổ phố Hội An.

Bạn nhất định phải ghé thăm "biểu tượng của Hội An" - cây cầu có mái che. Chùa Cầu hay còn gọi là Chùa Nhật Bản, nằm cạnh đường Nguyễn Thị Minh Khai và Trần Phú, là một công trình kiến ​​trúc độc đáo và tiêu biểu của Hội An, được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ 16 bởi các thương nhân Nhật Bản đến đây. để giao dịch tại đây.

Ngoài ra, để hiểu hơn về đời sống, văn hóa của người dân Hội An, du khách nên ghé thăm một số ngôi nhà cổ và các công trình tâm linh, xã hội nổi tiếng như nhà cổ Quân Thắng, Đức An, Tân Ký,… hay một số hội quán như Phúc Kiến, Triều Châu, Quảng Đông... Đây là những địa điểm đẹp ở Hội An giúp du khách trải nghiệm không gian văn hóa đặc trưng của thành phố Hội An.

Đèn lồng cũng được coi là một “đặc sản” không thể bỏ qua trong chuyến du lịch Hội An, du khách có thể dễ dàng bắt gặp những chiếc đèn lồng đủ màu sắc, hình dáng khắp các con phố, ngôi nhà. Vào ngày rằm hàng tháng, trong mắt du khách lại có một Hội An khác – một Hội An lộng lẫy trong ánh sáng của đèn hoa đăng và đèn lồng.

Phố cổ Hội An vẫn mang vẻ đẹp riêng len lỏi trong từng góc phố, từng mái nhà và cả trong những con phố nhỏ. Đến đây, du khách có thể cảm nhận được sự ấm áp trong từng món ăn, nụ cười thân thiện, gần gũi của người dân. Ngay cả cây cỏ, không gian nơi đây cũng hấp dẫn du khách. Bước xuống từng con phố nhỏ, người ta có cảm giác tìm lại những ngày xưa cũ, những kỷ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ trên mảnh đất xa lạ mà thân thương này.

8. Tả về phố cổ Hội An - văn mẫu 2

Phố cổ Hội An - nơi gắn liền với quá khứ đặc biệt về sự giao lưu của nhiều nền văn hóa: Việt, Nhật, Hoa; một thành phố gắn liền với thương cảng quan trọng của Đông Nam Á trong nhiều thế kỷ.

Cho đến nay, kiến ​​trúc của Hội An vẫn được bảo tồn gần như nguyên trạng với quần thể kiến ​​trúc còn sót lại gồm nhiều loại hình: nhà ở, hội quán, đình, chùa, miếu, giếng, cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, v.v. chợ. .. kết hợp với những con đường ngang dọc tạo thành những ô vuông kẻ caro, một kiểu mẫu phổ biến của các thị trấn buôn bán phía đông thời Trung Cổ. Bên cạnh cuộc sống thường nhật của người dân địa phương, những tập tục, sinh hoạt văn hóa lâu đời vẫn tồn tại và được duy trì, vì vậy nơi đây là một bảo tàng sống về kiến ​​trúc và lối sống đô thị.

Phố cổ Hội An cùng với cảnh sắc thiên nhiên, bãi biển sông, biển đảo và những món ngon truyền thống thu hút đông đảo du khách đến tham quan, học tập trong và ngoài nước. Sự giao thoa văn hóa đã khiến Hội An được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 1999.

Thương cảng Hội An được hình thành từ thế kỷ 15, là nơi các thương nhân Trung Quốc, Nhật Bản và Bồ Đào Nha cập bến và để lại dấu tích của mình qua các ngôi chùa. Cho đến nửa sau thế kỷ 17, nơi đây dần thay đổi nhưng vẫn là một đô thị Đại Việt điển hình. Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Hội An vẫn là nơi buôn bán nhộn nhịp cho đến khi có những biến động lớn về chính trị - xã hội. Vào những năm 80, khu phố cổ trở thành điểm du lịch thu hút du khách thập phương. Xưa phố cổ Hội An chỉ có một con đường duy nhất kéo dài từ chùa Cầu đến chùa Ông [nằm trước chợ Hội An bây giờ] và sau này kéo dài đến chùa Ông Bổn. Hội An nhìn ra sông Chợ Củi, được đặt tên theo sông Thu Bồn vào đầu thế kỷ 20. Chợ Củi có quy mô thương mại lớn và là thắng cảnh nổi tiếng sánh ngang với Ngũ Hành Sơn. Đến đây, điều thú vị nhất bao giờ cũng là được tản bộ trên những con phố vắng lặng hay ngồi trên chiếc xích lô, lặng lẽ nhìn từng mái ngói rêu phong cũ kỹ cách đây mấy trăm năm. Đặc biệt về đêm, nơi đây càng trở nên lung linh huyền bí bởi ánh nến thắp trong những chiếc đèn lồng kiểu Trung Hoa hay những chiếc đèn hình quả cầu, quả bầu tre phủ ô vuông lụa nhiều màu sắc treo trên đầu hiên nhà. Đến Hội An không thể không ghé thăm Chùa Cầu, biểu tượng của phố cổ nơi đây. Chùa Cầu hay còn gọi là Lai Viễn Kiều, bắc qua dòng suối đổ ra sông Thu Bồn, được các thương gia Nhật Bản xây dựng vào khoảng thế kỷ 16, 17. Chùa Cầu Hội An được người Nhật xây dựng từ những ngày đầu của Hội An .Thành gồm hai phần: Cầu và Chùa. Cầu làm bằng gỗ, lợp ngói. Chùa có kiến ​​trúc khá đặc biệt, mái ngói âm dương đã bạc màu theo thời gian. Chùa và cầu đều làm bằng gỗ sơn son, chạm trổ công phu, không chỉ là cầu, là chùa mà còn là nơi gặp gỡ của những xóm làng xưa, với ước mơ về một cuộc sống hòa thuận, cộng đồng yêu thương.

Các di tích khác như Hội quán Quảng Đông, Hội quán Phước Kiến, chùa cổ kính và những ngôi nhà gỗ hàng thế kỷ khiến du khách phải trầm trồ trước sự khéo léo và tinh tế vẫn còn rất sâu sắc của bàn tay con người. Vừa tráng lệ, vừa uy nghiêm, tất cả các công trình đã trở thành những trang biên niên sử sống động nhất, lưu giữ một quá khứ vàng son của cộng đồng người Hoa cũng như những cư dân trước đây của Hội An.

Những con đường rợp bóng cây và thoang thoảng hương hoa sữa tháng 10, những con ngõ uốn lượn quanh phố cổ, những hàng quán san sát và vẻ đẹp cổ kính với những khóm hoa treo trên những mái ngói phai màu... đã tạo nên một Hội An cổ kính và thơ mộng Vì vậy, mặc cho bao đổi thay, bồi đắp của cửa biển và những biến cố của lịch sử, Hội An vẫn tồn tại ở đó, mãi mãi là một ký ức đẹp trong lịch sử phát triển của đất nước ta.

Sáng kiến ​​khôi phục thắp đèn lồng thay cho thắp điện đã mang lại hiệu quả bất ngờ ngay từ buổi đầu tiên. Ánh sáng từ chiếc đèn lồng mềm mại và mang lại cảm giác của năm cũ. Những chiếc đèn tròn, lục giác kiểu Trung Hoa treo dưới mái hiên và hai bên cửa, đèn lồng kiểu Nhật hay đèn ống dài bằng giấy trắng thả dọc theo cột, đèn trụ vuông, đèn hộp lớn nhỏ… tất cả tạo nên một thế giới lung linh, kỳ ảo. Đỉnh cao của sự phát triển là hoạt động “Đêm phố cổ” diễn ra hàng tháng vào đêm 14 âm lịch. Với đêm phố cổ, không chỉ văn hóa vật thể mà văn hóa phi vật thể của Hội An cũng được tôn vinh với các lễ hội hát bài chòi, hát đối đáp, văn hóa ẩm thực, câu lạc bộ thơ ca, nhạc dân tộc, múa truyền thống, múa lân, lồng đèn kết hoa, trẻ em hát dân ca ở Pagode du Pont...

Trong không khí ấy, hãy thử nếm thử những món ngon xứ Quảng như bánh bò, bánh vạc, cao lầu tại những nhà hàng còn giữ được hình ảnh lâu đời của mình trong không khí ấy. Có mặt trên đường phố Hội An, có vô số cửa hàng bán đèn lồng làm quà lưu niệm. Tùy theo chất liệu vải bọc mà đèn cho các loại ánh sáng khác nhau. Đó có thể là màu đỏ may mắn, màu vàng hạnh phúc, màu đỏ kiêu hãnh hay màu xanh lạnh lùng. Tuy nhiên, khó có thể so sánh với những chiếc đèn lồng hàng thế kỷ được các gia đình lâu đời lưu giữ ở đây và chỉ được trưng bày vào buổi tối của Lễ hội đèn lồng. Những chiếc đèn này được làm từ gỗ quý, chạm khắc tinh xảo và trên mỗi chiếc cốc là một công việc sơn thật. Những câu chuyện cổ tích nổi tiếng được những người thợ thủ công thời xưa vẽ lên kính, sống động và hoàn hảo như một bức tranh đắt giá. Mỗi khi ngọn nến bên trong chiếu sáng, khung cảnh mây trắng, trời xanh hay làn nước trong xanh sẽ xoay chuyển liên tục, đổ bóng lên mặt kính.

Cảnh sắc huyền ảo, ánh đèn phố cổ quyện với tiếng Bài Chòi, Hò khoan, hò giã gạo… âm vang từ con đò dưới bến sông, dưới mái hiên, lên phố… tạo nên sức hấp dẫn kỳ lạ. Không quá trang nghiêm như Cố đô Huế, không quá sôi động như Chợ Lớn, những nét truyền thống nơi đây mang một vẻ thuần khiết, thu hút những tâm hồn lãng mạn xưa cũ.

Gánh nặng thường trực của Hội An vẫn là những di tích xuống cấp trầm trọng và khu phố cổ quá đông đúc. Từ nhiều nguồn, tỉnh Quảng Nam luôn đầu tư trùng tu, tôn tạo những di tích xuống cấp, hư hỏng nặng trong khu phố cổ. Mỗi ngôi nhà cổ trong phố cổ khi trùng tu, sửa chữa đều có sự giám sát của cơ quan chức năng. Nguồn thu từ bán vé tham quan Phố cổ hàng năm được trích từ 20 đến 80% để tu bổ, tôn tạo các di tích, nhà cổ. Người dân trong ngõ đều có ý thức và trách nhiệm như nhau trong việc bảo tồn phố cổ cũng như ngôi nhà mặt tiền. Chính sách tạo điều kiện thuận lợi để cư dân được hưởng lợi từ việc bảo tồn và phát huy giá trị những gì còn sót lại của phố cổ đã gắn kết người dân Hội An với di sản văn hóa.

Khác với các cố đô Huế, Hạ Long, Mỹ Sơn, Phong Nha-Kẻ Bàng, ở Hội An hơn 90% di tích thuộc sở hữu tư nhân, sở hữu nhân dân, dòng họ, dòng tộc quản lý, sử dụng. Đó là việc làm theo nguyên tắc: Bảo tồn để phát triển. Phố cổ chỉ có giá trị khi biết tôn tạo cố đô bằng chiều sâu văn hóa của nó.

Với sự hỗ trợ của các chuyên gia Unesco, phố cổ Hội An đã giữ vững vị trí được công nhận là di sản văn hóa thế giới vào thời điểm đó. Luôn rêu phong, xưa cũ, thơ mộng và mới mẻ, đó là những con đường sạch đẹp hơn, những ngôi nhà khang trang hơn, hàng hóa phong phú hơn, mẫu mã đẹp hơn, nhưng trên hết là những món quà lưu niệm, những món hàng đặc trưng của phố cổ, tình người luôn ấm áp, thân mật và gần gũi.

9. Mô tả Chùa Hương

Nói đến văn hóa tâm linh của người Việt không thể không nhắc đến những ngôi chùa cổ kính, linh thiêng mang vẻ đẹp độc đáo, trầm mặc, nơi bày tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với người lớn tuổi, nơi sinh hoạt tín ngưỡng. Một trong những ngôi chùa nổi tiếng và cổ kính ở nước ta phải kể đến Chùa Hương - một danh lam thắng cảnh, lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng của Việt Nam.

Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn, là một quần thể văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, một số đình thờ thần, đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, tọa lạc tại xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội City, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 trong thời kỳ Đàng Trong - Đàng Ngoài, sau đó bị tàn phá trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được cố Hòa thượng Thích Chân Viên Thành trùng tu.

Nơi đây gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ Phật Bà, theo truyền thuyết cổ Phật giáo, người con gái thứ ba của Thần Trang Vương xứ Hương Lâm, tên là Thần Thiên, chính là Chúa Ba hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Dưới bàn tay khéo léo của người xưa cũng như vẻ đẹp của tạo hóa mà thiên nhiên ban tặng, vẻ đẹp của Chùa Hương mang một dấu ấn rất riêng, đưa ta đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến ​​trúc nằm rải rác trong thung lũng suối Yến.

Khu chính là chùa Ngoài, hay còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù. Chùa nằm cách bến Tró không xa, khách hành hương ngược dòng suối Yến từ bến Đục lên chùa rồi xuống thuyền đi bộ. Tam quan chùa được xây dựng trên ba sân gạch rộng. Sân thứ ba dựng lầu chuông ba mái. Đó là một tòa nhà cổ với vẻ ngoài độc đáo khi để lộ hai đầu hồi hình tam giác ở tầng trên cùng. Tháp chuông này nguyên là của ngôi chùa ở làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông. Năm 1980 được dời về Chùa Hương làm gác chuông. Chùa chính tức chùa Trong không phải là công trình nhân tạo mà là một hang đá tự nhiên.

Vào cửa động có một cửa lớn, mặt trước cửa có bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là một con dốc dài, đường đi được xây 120 bậc đá. Vách động có khắc 5 chữ Hán “Nam Thiên Đệ Nhất Động” là bút tích của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm. Ngoài ra, hang còn có một số bia đá, văn thơ trên vách đá.

Lễ hội chùa Hương diễn ra vào ngày mồng sáu tháng giêng âm lịch và thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ hội, hàng triệu phật tử và du khách thập phương lại nô nức trẩy hội Chùa Hương.

Cao điểm của ngày lễ là từ rằm tháng giêng đến 18 tháng 2 âm lịch, là ngày lễ của địa phương nhưng ngày nay lễ khai ấn được hiểu là mở cửa chùa. Lễ hội Chùa Hương trong phần lễ rất đơn giản. Vào đêm khai hội, tất cả các đình, chùa, đình, miếu đều thắp hương. Tại chùa Trong có lễ dâng hương gồm hương, hoa, đèn, nến, trái cây và đồ chay. Đến giờ cúng, có hai vị tăng ni mặc áo cà sa, mang lễ vật chay rồi đi dùng lễ vật ở bàn thờ.

Từ ngày khai hội cho đến khi kết thúc, sư sãi ở các chùa trên chỉ thỉnh thoảng đến tụng kinh nửa tiếng đồng hồ ở các đình, miếu, điện. Hương khói mãi không dứt. Còn phần lễ thì có phần "thiền". Nhưng ở ngôi đền bên ngoài, họ thờ các vị thần núi cao hơn với đủ màu sắc của Đạo giáo.

Đền Cửa Võng là “chữ thật của rồng thiêng” thờ nữ thần Thượng Ngàn, người cai quản vùng rừng núi xung quanh với tên gọi “nàng Hồng” của vị thần núi tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quán thờ Ngũ Hổ và Cá Ông. Có thể thấy, lễ là sự tổng hòa của cả hệ thống tín ngưỡng, hầu như của tất cả các tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam.

Trong lễ hội có rước và rước. Người làng đến nhà ông chuẩn bị lễ vật, khiêng bài văn ra đền để chủ tế đọc long trọng và điều khiển các già làng làm lễ tế để thiết đãi các vị thần làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ của các hoạt động văn hóa dân tộc đặc sắc như chèo thuyền, leo núi, chèo, văn nghệ.

Không chỉ có vẻ đẹp độc đáo về kiến ​​trúc, cảnh sắc chùa chiền cũng như nét đặc sắc của lễ hội mà Chùa Hương còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và còn là giá trị sống của chuỗi phát triển nhân loại từ ngàn xưa cho đến ngày nay, cần phải bảo tồn, gìn giữ và bảo tồn những di sản mà ông cha ta để lại.

Vì vậy, với những giá trị đó, Chùa Hương là niềm tự hào của người Hà Nội nói chung và người Việt Nam nói riêng, đến với Chùa Hương là đến với một không gian thanh tịnh, sống chậm lại để cảm nhận sự nhẹ nhõm trong tâm hồn, trút bỏ mọi áp lực, căng thẳng của cuộc sống bên ngoài.

mười.

10. Mô tả Văn Miếu Quốc Tử Giám

Văn Miếu nằm giữa thủ đô Hà Nội, được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Ngay từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã quy tụ nhiều nhân tài, góp phần xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay, Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi đến thăm Hà Nội bởi kiến ​​trúc độc đáo và ấn tượng.

Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao thăng trầm cùng lịch sử nhưng nơi đây vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ bao đời nay. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lý. Văn Miếu được đưa vào hoạt động từ năm 1076 đến năm 1820, đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.

Văn Miếu bao gồm hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Quốc Tử Giám thờ Chu Văn An, người thầy đầu tiên của nhà trường. Trải qua năm tháng, Văn Miếu vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính.

Văn Miếu lúc đầu là nơi học tập của các vương hầu, về sau được mở rộng cho các bậc hiền tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội điện có tường gạch bao quanh. Với những công trình kiến ​​trúc được thiết kế từ xa xưa, ghi dấu ấn bởi bao biến thiên của thời gian, những đổi thay của đất nước.

Khi bước vào Văn Miếu, du khách sẽ đến cổng chính, trên cổng chính có chữ Văn Miếu. Ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai là Khuê Văn Các được xây dựng vào năm 1805 với 2 tầng, 8 mái rất khang trang. Là nơi tổ chức bình bình thơ, văn hay của các nghĩa sĩ xưa. Khu thứ ba từ Khuê Văn đến Đại Thành Môn, ở giữa có hồ hình vuông gọi là Thiên Quang Tỉnh. Hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 tấm bia tiến sĩ ghi tên tuổi, nơi sinh, học vị của các danh nhân như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn...

Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; Có những cổ vật quý hiếm được truyền từ đời này qua đời khác như chuông Bích Ứng do Nguyễn Nghiễm đúc năm 1768. Đây được coi là quả chuông lớn có giá trị văn hóa lịch sử lâu đời. Bên trong có hai chữ Thọ Xương, bên ngoài khắc bài Tôi biết theo kiểu cuốn thư kể về công dụng của cây đàn này. Khu 5 là trường Quốc Tử Giám. Đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài giỏi, đỗ đạt cao giúp nhà vua nâng cao kiến ​​thức. Từ ngôi trường này có nhiều người có ảnh hưởng lớn đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải...

Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch ngói đất nung mang nét nghệ thuật đặc trưng của thời Lê, Nguyễn. Những nét kiến ​​trúc độc đáo này được thi công khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.

Cho đến ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là điểm đến du lịch của nhiều người vừa để tưởng nhớ về cội nguồn, để thành kính và để học hỏi câu chuyện của cha ông. Nơi đây còn được coi là trung tâm của Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn hiến.

11. Trình bày bến Nhà Rồng

“Thành phố Hồ Chí Minh quê hương ta đã viết nên bản anh hùng ca, bản anh hùng ca ngàn năm chói lọi trường tồn…”. Lời ca vang lên, khơi dậy trong mỗi người niềm tự hào được làm công dân của một thành phố anh hùng, mang nhiều dấu ấn lịch sử thiêng liêng trong suốt quá trình đấu tranh hào hùng của dân tộc: “Việt Nam ta gọi tên ta”. Từ thành phố này, đến Bến Nhà Rồng, Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, nên trong hơn sáu mươi tỉnh, thành phố, chỉ có nơi đây vinh dự được mang tên Bác kính yêu. Bến Nhà Rồng được xây dựng trong Bảo tàng Hồ Chí Minh và là địa chỉ thân thương của người dân địa phương nói chung và người dân thành phố nói riêng.

Sau một thế kỷ rưỡi [150 năm], trải qua bao thăng trầm, Bến Nhà Rồng vẫn sừng sững uy nghi tại số 1 Nguyễn Tất Thành, Q.4, TP.HCM [đường Trịnh Minh Thế trước đây]. . Ngay cửa ngõ vào thương cảng sầm uất nhất cả nước – Cảng Sài Gòn. Bến Nhà Rồng nằm ở vị trí trung tâm, đối diện bến Bạch Đằng lộng gió. Khi thành phố lên đèn, cả khu vực lung linh huyền ảo, góp phần tô điểm cho thành phố thêm rực rỡ, xứng danh “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Bến Nhà Rồng nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, là một nhánh của hệ thống bảo tàng và di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Nơi đây, trước ngày 30/4/1975 là trụ sở của Tập đoàn Vận tải Hoàng Đế [Messageries Impériales] - một trong những công trình đầu tiên được thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn. Tòa nhà được xây dựng từ giữa năm 1862 đến cuối năm 1863 thì hoàn thành theo lối kiến ​​trúc phương Tây, nhưng trên nóc có đắp đôi rồng chầu nguyệt theo thể thức “lưỡng long chầu nguyệt”, một lối trang trí quen thuộc của người Việt. Đền. Với kiến ​​trúc độc đáo này, Tổng công ty vận tải Hoàng Đế được gọi là Nhà Rồng và bến cảng được gọi là Bến Nhà Rồng. Năm 1955, sau thất bại của thực dân Pháp, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền Nam Kỳ quản lý, họ cho sửa lại mái ngói của ngôi đình và thay đôi rồng cũ bằng đôi rồng mới hướng ra ngoài. Với diện tích xây dựng trong tòa nhà gần 1500m², diện tích còn lại là sân vườn tràn ngập cây xanh trong không khí trong lành, khung cảnh nên thơ nơi đây trưng bày hơn 400 loại cây quý từ khắp mọi miền đất nước. Chúng ta vui mừng khi nhìn cây Tân Trào của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, cây bồ đề của Tổng thống Ấn Độ.

Cùng với thời gian, Bến Nhà Rồng ngày càng trở thành địa chỉ lưu giữ những sự kiện trọng đại, trọng đại gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Ngày 5-6-1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành tay trắng từ con tàu Latouche Treville xuống biển trong chuyến hải trình “30 năm không ngơi nghỉ”: Người đi chờ cờ Mỹ, châu Phi, những vùng đất tự do. bầu trời từ nô lệ.

Cùng với lịch sử thiêng liêng của Bến Nhà Rồng, nơi đây còn lưu truyền nhiều tư liệu, hiện vật quý giúp mọi người hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ thiên tài, vị cha già kính yêu của dân tộc - Hồ Chí Minh. Sau nhiều lần chỉnh sửa, bảo tàng về cơ bản được xây dựng thành 12 phòng trưng bày với khoảng 170 tư liệu, tranh ảnh, hiện vật. Nếu ai đó đã từng đến bảo tàng, hẳn sẽ lặng đi và xúc động khi được tận mắt nhìn thấy những kỷ vật của mình.

Bảo tàng là một trong những nơi mọi người đến nghiên cứu, trao đổi, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác Hồ. Hàng năm, bảo tàng thu hút hàng triệu lượt khách tham quan trong và ngoài nước. Bến Nhà Rồng, Bảo tàng Hồ Chí Minh vinh dự được chọn là biểu tượng của TP nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn TP.HCM. Ngày qua ngày, các thế hệ con cháu vẫn đến trước tượng đài thắp nén nhang tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với người đẹp nhất mọi thời đại của dân tộc:

“Cùng nhau cầu nguyện

Người đạt đến mãi mãi

Vững vàng như dãy Trường Sơn”.

12. Tả Đà Lạt

Đà Lạt – đối với tôi đó là một thành phố đáng đến, một thành phố đáng sống và tôi không biết mình đã yêu Đà Lạt từ lúc nào. Thị trấn sương mù này mang một vẻ đẹp mềm mại và thanh tao mà chúng ta không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác trên đất nước Việt Nam. Nhắc đến Đà Lạt, dù bạn là người mới đến cũng có rất nhiều điều muốn chia sẻ, muốn bày tỏ và đặc biệt là kể về Đà Lạt một cách nhiệt tình nhất.

Từ Bắc chí Nam, dọc dải đất hình chữ S này có biết bao danh lam thắng cảnh, biết bao vùng đất tươi đẹp được thiên nhiên ưu đãi, nhưng với tôi, Đà Lạt là một trong những nơi được mẹ thiên nhiên ưu ái nhất. Là một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Lâm Đồng, một thị trấn trên cao nguyên Lâm Viên của Tây Nguyên Việt Nam. Vị trí của thành phố nằm trên cao nguyên nên có độ cao khoảng 1500m so với mực nước biển, diện tích hơn 39.000 km2, giáp ranh giữa các huyện Lạc Dương, Đơn Dương, Lâm Hà và Đức Trọng. Đà Lạt được mệnh danh là thành phố của hồ và thác với khoảng 16 hồ lớn nhỏ, trong đó nổi tiếng nhất là Hồ Xuân Hương nằm ở trung tâm thành phố. Thành phố Đà Lạt nằm ở vị trí đặc biệt, tạo nên khí hậu đặc biệt khác hẳn với các vùng lân cận, nơi đây có khí hậu miền núi ôn hòa, mát mẻ quanh năm, được bao bọc bởi những rừng thông xanh mướt khác thường tạo nên bầu không khí trong lành, thoáng đãng rất dễ chịu. thích hợp nghỉ dưỡng, tham quan và du lịch trải nghiệm. Nhiệt độ trung bình ở đây luôn dưới 20 độ C kể cả những tháng nóng nhất, ở Đà Lạt thời tiết sương mù rất phổ biến, có năm có tới 80-85 ngày có sương mù, khoảng 4-5 ngày xuất hiện sương mù dày đặc, có thể điều này là lý do Đà Lạt được mệnh danh là thành phố sương mù. Đà Lạt còn nổi tiếng là thành phố hoa, bởi phù hợp với nhiều loài hoa, sự đa dạng và phong phú của các loài hoa đã giúp thành phố này tổ chức các lễ hội hoa, hội hoa quy mô ngày càng lớn, thu hút sự quan tâm của du khách trong và ngoài nước. . Không chỉ có hoa, Đà Lạt còn là xứ sở của trái cây, nhiều loại trái cây là đặc sản của nơi đây như dâu tây, hồng, mận, đào,…

Nhắc đến Đà Lạt mà không nhắc đến con người nơi đây quả là một thiếu sót. Người Đà Lạt rất thanh lịch, họ mang nhịp sống chậm rãi và hiền hòa cùng với bản tính rất nồng hậu và hiếu khách, chẳng vì thế mà ai đến vùng đất này cũng dành những mỹ từ đẹp đẽ nhất để nói về Đà Lạt. Sự phóng khoáng, hiếu khách của người dân nơi đây là ấn tượng đẹp cũng như sợi dây níu giữ trong lòng du khách. Từ lâu Đà Lạt đã trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng trong top những địa điểm du lịch của Việt Nam, hàng năm nơi đây thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước đến tham quan và nghỉ dưỡng.

Du lịch Đà Lạt ngày càng chuyển mình, nhiều nhà hàng, khách sạn cao cấp mọc lên, các điểm tham quan du lịch cũng ngày càng nhiều tạo cho Đà Lạt một diện mạo mới, một phong cách rất châu Âu mà người ta thường gọi là “Paris thu nhỏ”. Ở Đà Lạt, thật khó để nhớ hết những địa điểm du lịch, nhưng một khi đã đến đây, bạn không thể bỏ qua những địa điểm nổi tiếng như hồ Xuân Hương – trái tim của thành phố với khung cảnh rừng thông bao quanh, bãi cỏ, bãi cỏ… vườn hoa rất thơ mộng, trữ tình. Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt được hiệp hội kiến ​​trúc sư thế giới công nhận là một trong 1000 công trình độc đáo của thế giới thế kỷ 20, hay Dinh Bảo Đại - một dinh thự đẹp và trang nhã gắn liền với những thị trấn nhỏ. Khung cảnh tạo nên một công trình đồ sộ. Thung lũng tình yêu là địa điểm mà các bạn trẻ không thể bỏ qua, sở hữu vẻ đẹp thơ mộng, sông nước hữu tình, ngàn hoa khoe sắc và không khí trong lành đã thu hút mọi du khách đắm chìm trong khung cảnh lãng mạn nhất. Cuối cùng là núi Lang Biang – biểu tượng huyền thoại của câu chuyện tình đẹp nhất xứ sở sương mù, một ngọn núi hùng vĩ đầy vẻ đẹp mà gần gũi.

Với lịch sử hơn một thế kỷ, Đà Lạt đã trải qua bao thăng trầm, bao lần xây dựng và đổi mới, nhưng vẫn giữ được nét duyên dáng và thanh lịch vốn có. Có thể nói Đà Lạt như một bông hoa xinh đẹp giữa rừng hoa Việt Nam, một vẻ đẹp mà theo thời gian càng trở nên đẹp hơn, càng được nhiều người ngưỡng mộ.

13. Thuyết minh về Chùa Một Cột

Chùa Một Cột là một công trình kiến ​​trúc độc đáo gắn liền với các giá trị văn hóa lịch sử của dân tộc. Chùa Một Cột không chỉ được coi là ngôi chùa có kiến ​​trúc nghệ thuật độc đáo ở Việt Nam cũng như Châu Á, mà còn được biết đến là điểm đến tâm linh, trở thành biểu tượng văn hóa ngàn năm văn hiến của thủ đô Hà Nội.

Chùa Một Cột còn có tên gọi khác là Diên Hựu Tự hay Liên Hoa Đài, ngôi chùa nổi tiếng với lối kiến ​​trúc xây dựng độc đáo, toàn bộ ngôi chùa được dựng trên một cột đá cao khoảng 4m. Chùa được xây dựng từ thời Lý trên đất làng Thanh Bảo, huyện Quảng Đức, nằm về phía tây của kinh thành Thăng Long xưa. Ngày nay, chùa tọa lạc trên phố Chùa Một Cột, cạnh Quảng trường Ba Đình - Lăng Chủ tịch.

Chùa Một Cột được xây dựng dựa trên cảm hứng về giấc mơ của vua Lý Thái Tông. Trong giấc mơ, nhà vua thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen và được mời đến đài. Khi tỉnh dậy, vua kể lại giấc mộng cho quần thần và được hòa thượng Thiên Tuế khuyên xây chùa. Vì vậy, vào mùa đông năm 1049, vua Lý Thái Tông cho xây chùa. Để kiến ​​tạo chùa Một Cột, nhà vua cho dựng một cột đá giữa hồ và xây một đài hoa sen, bên trên là tượng Bồ tát Quán Thế Âm.

Sau khi dựng chùa, vua Lý Anh Tông thường lui tới cầu phúc, làm việc thiện nên ít lâu sau hoàng hậu mang thai, hạ sinh một hoàng tử khôi ngô tuấn tú. Nhờ sự ra đời kỳ diệu của hoàng tử, nhà vua coi đó là ân huệ của trời đất nên đã cho xây thêm một ngôi chùa bên cạnh chùa một cột để tạ ơn. Cụm di tích này được đặt tên là Diên Hựu Tự với mong muốn “phước lành bền lâu”.

Vì muốn trùng tu lại chùa, năm 1105, vua Lý Nhân Tông cho người trùng tu và dựng thêm hai ngôi tháp lợp sứ trắng trước sân. Ba năm sau, Nguyên phi Ỷ Lan hạ lệnh thi triển “Đại tướng quân” ​​đánh thức lòng thiên hạ.

Chùa Một Cột là một di tích lịch sử có giá trị nghệ thuật và được đánh giá cao không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Thật vậy, năm 1962, chùa đã được công nhận là Di tích lịch sử kiến ​​trúc nghệ thuật cấp quốc gia và năm 2012, chùa Một Cột đã xác lập kỷ lục “Ngôi chùa có kiến ​​trúc độc đáo nhất Châu Á” do Tổ chức Kỷ lục Châu Á trao tặng.

Chùa Một Cột được biết đến là ngôi chùa có kiến ​​trúc độc đáo bởi chùa Một Cột mang dáng dấp của một bông hoa sen lớn nhô lên khỏi mặt nước, hình ảnh hoa sen gợi lên sự thanh khiết cao quý và sự trong sáng thuần khiết. Toàn bộ không gian chùa được đặt trên một cột đá cao 4m làm bằng hai khối đá có đường kính 1,2m dưới hồ Linh Chiểu. Ao dưới sân chùa được bao quanh bởi lan can bằng gạch men xanh có hoa văn hình khối. Mái chùa lợp ngói cổ theo hình đầu đao cong vút, trên đỉnh là hình tượng rồng thể hiện sức mạnh thần thánh và uy quyền uy nghiêm.

Chùa Một Cột đã trở thành một trong những biểu tượng quốc gia, một điểm du lịch nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Chùa không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan, thưởng ngoạn vẻ đẹp độc đáo, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.

14. Mô tả về Dinh Độc Lập

Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu kinh tế của cả nước, luôn xinh đẹp và tấp nập nhộn nhịp. Nằm giữa lòng thành phố, nơi đây vẫn còn những công trình kiến ​​trúc ghi dấu ấn lịch sử hào hùng, là nơi để người ta tưởng nhớ và biết ơn hơn về cuộc sống hiện tại. Một trong những địa danh kiến ​​trúc quan trọng là Dinh Độc Lập, một công trình đồ sộ khác, tọa lạc tại 106 Nguyễn Du, Quận 1.

Dinh Độc Lập có nhiều tên gọi, mỗi tên gọi là một giai thoại lịch sử khác nhau. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn, chúng định xây dựng Dinh Thống đốc Nam Kỳ và đến năm 1868 thì hoàn thành và đặt tên là Dinh Norodom. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Ngô Đình Diệm tiếp quản Dinh và đổi tên thành Dinh Độc Lập, xây dựng lại Dinh mới hoành tráng và kiên cố hơn sau sự kiện Dinh bị phá bỏ bên cánh trái. Công trình hoàn thành vào mùa thu năm 1966, dưới sự chỉ đạo của kỹ sư Phan Văn Điển.

Dinh Độc Lập được bao quanh bởi những hàng cây xanh mướt. Trước tòa nhà chính là một khoảng sân rộng được thiết kế ấn tượng bởi thảm cỏ xanh mướt tạo thành một khối tròn, bao quanh là con đường vòng cung có thể đi bộ hai bên khi bước vào qua cổng dinh. Với vật liệu xây dựng chủ yếu là trong nước, Dinh là một công trình đồ sộ do chính tay người Việt xây dựng, chạm trổ, trang trí, thiết kế bố cục và lắp đặt nội thất. Dinh Độc Lập bao gồm ba tầng chính. Bước chân vào Dinh, người ta không chỉ ngạc nhiên bởi lối kiến ​​trúc hiện đại mà còn bởi những chi tiết tinh tế trong từng căn phòng. Tầng 1 có các phòng: họp nội bộ, tiệc, lễ. Phòng lớn nhất với hai dãy ghế tắm nắng quay mặt vào nhau là phòng tiếp khách, được trang trí với những thiết kế vô cùng sang trọng pha trộn giữa phong cách phương Tây và Đông Âu, dùng để tiếp đãi khách. Phòng họp có đầy những chiếc ghế bành xung quanh chiếc bàn hình bầu dục tạo nên một bầu không khí uy nghi, với những chiếc micro đặt trên bàn. Phòng tiệc và các phòng khác cũng được trang trí rất phong phú. Điểm đặc biệt là dù ở căn phòng nào, các kiến ​​trúc sư cũng không quên sự hiện diện của cây cỏ, hoa lá giúp không khí trong lành hơn, mang đến sức sống cho không gian. Tầng 2 là nơi làm việc của các nhà lãnh đạo cao nhất của đất nước. Những phòng lớn như Phòng Trình Quốc thư, nơi các đại sứ tại Sài Gòn từng trình Quốc thư cho Chủ tịch nước trước năm 1975. Phòng được thiết kế theo phong cách Nhật Bản với kỹ thuật sơn mài độc đáo... Ghế chủ tịch có tay vịn hình rồng và được đặt cao hơn các ghế còn lại. Đối diện là ghế dành cho khách. Các mặt ghế còn lại đều khắc hình “con nghê” hoặc chữ “thọ”. Phòng còn lại cũng được trang trí bằng hai chiếc tủ sơn mài "mai lan", "dưa leo" sản xuất năm 1966. Các phòng trên tầng hai lúc bấy giờ là phòng làm việc của chủ tịch nước và phó chủ tịch nước. Tầng 3 được thiết kế phóng khoáng hơn một chút nhằm mục đích giải trí, thư giãn và tích lũy kiến ​​thức. Bên ngoài, đối diện với mặt trước của tòa nhà, là bàn bi-a và một cây đàn piano khá lớn. Khu nhậu nhẹt tán gẫu nằm cạnh rạp chiếu phim và phòng phu nhân tổng thống tiếp khách. Vào những năm 60 của thế kỷ 20, sự xuất hiện của phòng chiếu phim là một bước tiến so với hiện đại, bên cạnh màn đỏ tự động. Không gian nơi đặt rạp chiếu phim cũng là sân khấu biểu diễn nghệ thuật, văn nghệ. Những bức tranh trừu tượng cũng được đặt trong phòng tiếp khách của phu nhân Tổng thống, điểm khác biệt ở căn phòng này là những họa tiết nhẹ nhàng, nữ tính hơn so với những căn phòng khác. Bên cạnh đó là một thư viện đầy ắp sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như sách giáo dục, sách chính trị, thống kê, được xếp ngay ngắn trong tủ gỗ có kính để đựng sách. Sân thượng là nơi có không gian rộng lớn hài hòa với thiên nhiên. Có chiếc trực thăng nằm một góc sân thượng vẫn còn đó, dưới nắng Sài Gòn trông khác quá.

Và còn rất nhiều salon trong Dinh Độc Lập đang chờ được vào thăm và chiêm ngưỡng. Những căn hầm bí mật nơi lắp điều hòa, quạt thông gió, nơi đặt các thiết bị tối tân. Những chiếc đèn chùm lung linh xuất hiện trên nền đá hoa cương sáng bóng. Những thiết kế đặc biệt của từng góc của Dinh Độc Lập vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.

Dinh Độc Lập không chỉ là công trình kiến ​​trúc độc đáo mà còn là minh chứng, nhân chứng lịch sử. Đình đã cùng đất nước và nhân dân trải qua bao thăng trầm của lịch sử Việt Nam. Chính sự kiên cường của Dinh đã để lại cho con cháu ông những bài học quý giá về lòng yêu nước và sự kiên cường trong cuộc sống.

15. Tả Hồ Tây

Hồ Tây là một hồ nước tự nhiên nằm ở phía Tây Bắc trung tâm thành phố Hà Nội với diện tích khoảng 500 ha, có đường quanh hồ dài gần 20 km. Lịch sử địa lý đã chứng minh rằng Hồ Tây là một hồ ngoại sinh dạng lòng chảo, là một đoạn của sông Hồng xưa bị nước đọng sau khi sông đổi dòng. Hồ Tây xưa kia còn được biết đến với các tên gọi khác như Đầm Sác Cao, Kim Ngưu hồ, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài hồ. Mỗi cái tên đều gắn liền với truyền thuyết về nguồn gốc của Hồ Tây huyền thoại.

Sách Tây Hồ Chí chép Hồ Tây có từ đời vua Hùng, khi ấy nơi đây là bến đò ven sông Hồng ở động Lâm Ấp nên gọi là bến Lâm Ấp ở thôn Long Đỗ. Vào thời Hai Bà Trưng, ​​bến này thông với sông Hồng, xung quanh là rừng nhiều loại thực vật chủ yếu như tre, nứa, ngà, lim, lau sậy, gỗ tầm và một số loài động vật quý hiếm.

Ngày nay, phía Tây Hồ Tây còn dấu vết của nhiều làng cổ. Mỗi ngôi làng ở đây đều ít nhiều gắn với một truyền thuyết lịch sử. Làng Nghi Tàm, quê hương của nhà thơ "Xóm Bà Thanh Quan". Làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng. Làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ ông tổ nghề dệt. Làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh. Làng đào Nhật Tân với vườn đào nổi tiếng. Có một nơi mà nhiều du khách muốn đến thăm là chùa Trấn Quốc. Chùa Trấn Quốc tọa lạc trên một bán đảo nhỏ giữa mênh mông sóng nước ngay sát đường Thanh Niên, con đường tuyệt đẹp ngăn cách Hồ Tây và Hồ Trúc Bạch. Là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, có từ thế kỷ thứ 6, thời Lý Nam Đế, Hòa thượng Thích Thanh Nhã, Trụ trì chùa Trấn Quốc, cho biết: “Năm 541-548, chùa có tên là Khai Quốc. Chùa, chùa được xây dựng bên bờ sông Hồng, sau này đến thời Hậu Lê [thế kỷ 17]... dời về đây, xưa nơi đây gọi là bãi cá vàng mà các vua chúa ngày xưa thường lui tới mùa xuân và nước, sau đó các nhà sư vĩ đại đến đây để thực hành. Ngôi chùa đã có lịch sử 1440 năm cho đến nay. Dân cư ở đây rất thưa thớt, sống chủ yếu bằng nghề săn bắt thú rừng, tôm, cua, cá và trồng rừng. Còn bờ đông có Nha Lâm Động [nay là phố Yên Ninh, Hòe Nhai], bờ nam có Bình Sa Động [thời Lý đổi là Giáp Cơ Xã [nay thuộc quận Hoàn Kiếm].

Ở thủ đô Hà Nội, Hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích dày đặc. Chỉ tính riêng khu vực xung quanh Hồ Tây hiện có hơn 20 đình, đền, chùa được liệt kê với nhiều di tích nổi tiếng. Mỗi độ xuân về, các di tích này thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài nước đến tham quan, vãn cảnh chùa. Với lợi thế địa lý độc đáo, Hồ Tây gần như bao trùm không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, công trình nghệ thuật, kiến ​​trúc gắn liền với lịch sử ngàn năm của thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do khiến nhiều du khách đến đây khám phá Hồ Tây. Với nhiều du khách, thú vị nhất là được tham quan Hồ Tây bằng xe điện đi vòng quanh hồ. Anh Nguyễn Quang Lộc, ngụ tại quận Hai Bà Trưng cho biết: “Hồi trước chỉ nghe nói Hồ Tây rộng thôi chứ chưa đi hết, giờ chỉ nghe nói Hồ Tây rộng thôi, giờ đi đâu cũng thấy. Nhưng bây giờ, đi xe điện quanh hồ, tôi biết thêm nhiều điều, hiểu hơn về các làng nghề, các di tích, các đình, chùa quanh Hồ Tây”.

Ở thủ đô Hà Nội, Hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích dày đặc. Chỉ tính riêng khu vực xung quanh Hồ Tây hiện có hơn 20 đình, đền, chùa được liệt kê với nhiều di tích nổi tiếng. Mỗi độ xuân về, các di tích này thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài nước đến tham quan, vãn cảnh chùa. Với lợi thế địa lý độc đáo, Hồ Tây gần như bao trùm không gian văn hóa lịch sử gắn liền với nhiều truyền thuyết, công trình nghệ thuật, kiến ​​trúc gắn liền với lịch sử ngàn năm của thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do khiến nhiều du khách đến đây khám phá Hồ Tây. Với nhiều du khách, thú vị nhất là được tham quan Hồ Tây bằng xe điện đi vòng quanh hồ. Anh Nguyễn Quang Lộc, ngụ tại quận Hai Bà Trưng cho biết: “Hồi trước chỉ nghe nói Hồ Tây rộng thôi chứ chưa đi hết, giờ chỉ nghe nói Hồ Tây rộng thôi, giờ đi đâu cũng thấy. Nhưng bây giờ, đi xe điện quanh hồ, tôi biết thêm nhiều điều, hiểu hơn về các làng nghề, các di tích, các đình, chùa quanh Hồ Tây”.

Ngày nay, Hồ Tây vẫn là lá phổi xanh của thành phố. Hồ Tây không chỉ đẹp bởi mặt nước trong xanh mênh mông mà còn có vẻ đẹp nên thơ của sắc tím của hoa bằng lăng, sự lấp lánh của những cánh phượng hồng mỗi độ hè về. Mặt nước hồ lúc nào cũng lấp lánh những làn gió mát rượi làm tâm hồn con người thêm thư thái. Với không gian như vậy, Hồ Tây thực sự là điểm đến thư giãn của nhiều người dân Hà Nội.

Từ rừng rậm, sa mạc đầm lầy, qua sự dày công xây dựng của nhiều thế hệ, trong đó có sự đóng góp to lớn của nhiều triều đại, Hồ Tây đã trở thành một thắng cảnh Văn hóa - Du lịch nổi tiếng của Thăng Long - Thủ đô Hà Nội. Vì vậy chúng ta hãy cùng nhau bảo tồn và phát triển cảnh quan này.

16. Tả một danh lam thắng cảnh ở Hà Nội - Hồ Gươm

“Mặt hồ Gươm vẫn lung linh mây trời, tỏa hương hoa thơm thủ đô…”. Nhắc đến Hà Nội là gợi lên hình ảnh Hồ Gươm trong xanh và bóng Tháp Rùa nghiêng mình. Hồ Gươm và quần thể kiến ​​trúc của nó đã trở thành một biểu tượng tráng lệ và linh thiêng của Hà Nội - trái tim hồng của cả nước.

Hồ Gươm có từ rất lâu. Cách đây khoảng 6 thế kỷ, theo địa danh hiện nay, hồ gồm hai phần từ phố Hàng Đào, qua Hai Bà Trưng, ​​Lý Thường Kiệt đến phố Hàng Chuối, thông ra sông Hồng. Nước hồ trong xanh quanh năm nên hồ Gươm còn có tên gọi là hồ Lục Thủy.

Vào thế kỷ 15, hồ được đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm. Sự kiện này gắn liền với truyền thuyết về việc trả gươm thần cho Rùa Vàng của người sáng lập ra triều đại hậu Lê - vị anh hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược [1417 - 1427] là Lê Lợi. Tương truyền, khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, có người tìm được một thanh gươm rồi chính ông nhặt được một chuôi kiếm ở trong rừng. Khi lưỡi kiếm được gắn vào chuôi kiếm, thân kiếm ánh lên hai chữ "Thuận Thiên" - "Thuận theo ý trời". Thanh bảo kiếm này đã theo Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Khi lên ngôi, định đô ở Thăng Long, trong một lần vua dạo chơi thuyền trên hồ Lục Thủy, bỗng có một con rùa xuất hiện. Rùa ngẩng đầu lên nói: “Xin trả gươm cho Long Quân”. Thái Tổ hiểu sự tình bèn rút kiếm ra khỏi vỏ, giơ gươm lên, kiếm bay về phía rùa. Rùa ngậm gươm lặn xuống đáy hồ, từ đó hồ Lục Thủy có tên mới là hồ Hoàn Kiếm hay hồ Gươm. Chính truyền thuyết độc đáo này đã khẳng định lòng yêu chuộng hòa bình, căm ghét chiến tranh của cư dân Thăng Long - Hà Nội nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung. Lịch sử này được nêu bật trong lễ kỷ niệm Hà Nội được trao tặng danh hiệu “Thành phố vì hòa bình”.

Về sau, cũng vào thời Lê, hồ còn được dùng làm nơi tập luyện thủy quân nên đôi khi được gọi là hồ Thủy Quân.

Hồ Hoàn Kiếm là một thắng cảnh nổi tiếng của Hà Nội. Xung quanh hồ trồng nhiều loại hoa, cây cảnh. Đó là những rặng liễu rũ, những cành lộc vừng xiên que và những khóm hoa soi bóng xuống lòng hồ. Giữa hồ có Tháp Rùa, cạnh hồ là đền Ngọc Sơn với “Tượng đài Tháp Bút không khiêng”... Hình ảnh Hồ Gươm lung linh như một tấm gương soi tuyệt đẹp trong lòng người. thành phố đi vào lòng biết bao người Hà Nội. . Người Hà Nội sống ở khu vực hồ thường đến đây tập thể dục từ sáng sớm, nhất là vào mùa hè. Họ gọi những khu phố xung quanh hồ là Lakeside. Không phải là hồ nước lớn nhất Thủ đô, nhưng với nguồn gốc đặc biệt, hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với cuộc sống và suy nghĩ của nhiều người. Hồ nằm giữa trung tâm quận với những khu phố cổ chật hẹp đã mở ra một không gian đủ rộng cho các hoạt động văn hóa bản địa. Hồ có nhiều cảnh đẹp. Và hơn thế nữa, hồ còn gắn liền với lịch sử huyền thoại, là biểu tượng của khát vọng hòa bình [trả gươm trả bút], đức thượng võ của dân tộc [gươm thiêng dưới đáy hồ và tháp chèo viết trên bầu trời xanh]. Vì vậy, nhiều văn nghệ sĩ đã lấy hình ảnh Hồ Gươm làm nền cho các tác phẩm của mình. Nhà thơ Trần Đăng Khoa từng viết:

“Hà Nội bên Hồ Gươm

Nước trong xanh như mực

Bờ Hồ, Tháp Bút

Viết thơ lên ​​trời"

Như vậy, Hồ Gươm sẽ mãi sống mãi trong tiềm thức của mỗi người dân Thủ đô nói riêng và nhân dân cả nước nói chung như một biểu tượng thiêng liêng về truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc.

17. Mọi người cũng hỏi về thuyết minh về danh lam thắng cảnh

Danh lam thắng cảnh là gì?

Danh lam thắng cảnh là những địa điểm có giá trị văn hóa, lịch sử, và thiên nhiên đặc biệt, được tôn vinh và bảo tồn để phục vụ mục đích du lịch và khám phá.

Danh lam thắng cảnh có tầm quan trọng như thế nào trong du lịch?

Danh lam thắng cảnh đóng vai trò quan trọng trong du lịch bởi vì chúng thu hút du khách đến tham quan, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, và thiên nhiên của địa phương. Ngoài ra, danh lam thắng cảnh còn góp phần vào phát triển kinh tế và nâng cao hình ảnh của một khu vực du lịch.

Có những địa điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng nào trên thế giới?

Trên thế giới có nhiều địa điểm danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Kim tự tháp Giza ở Ai Cập, Đại lộ Champs-Élysées ở Paris, Cầu Rồng ở Đà Nẵng, và Công viên Quốc gia Yellowstone ở Mỹ.

Khi thuyết minh về danh lam thắng cảnh, cần lưu ý những điều gì?

Khi thuyết minh về danh lam thắng cảnh, cần trình bày các thông tin về lịch sử, kiến trúc, đặc điểm địa hình, và giá trị văn hóa của địa điểm. Ngoài ra, cần mô tả các hoạt động và trải nghiệm du lịch mà du khách có thể tham gia khi đến đó.

Trong hành trình tìm hiểu về các danh lam thắng cảnh, chúng ta đã có cơ hội khám phá những bí mật ẩn chứa trong từng góc cạnh của những nơi đẹp tuyệt vời này. Viết thuyết minh về danh lam thắng cảnh không chỉ là việc trình bày thông tin một cách khô khan, mà còn là cơ hội để chia sẻ niềm tự hào, khám phá sự độc đáo và đẹp đẽ của vùng đất mình yêu thương. Những di tích lịch sử, những cảnh quan thiên nhiên và những kiệt tác kiến ​​trúc đã được tái hiện một cách sống động qua từng câu chữ, từng lời miêu tả, để cho người đọc cảm nhận, tưởng tượng và thấu hiểu hơn về những hình ảnh đẹp mắt mà thiên nhiên và con người đã tạo nên. Bằng việc thể hiện những cảm xúc và sự tôn trọng đối với vẻ đẹp tự nhiên và di sản văn hóa, chúng ta đang góp phần bảo vệ và tôn vinh những giá trị quý báu này, để chúng còn tồn tại và phát triển trong tương lai.

Chủ Đề