Hư Thực là hai cương dùng để chỉ rõ chính khí, tà khí thịnh hay suy:
Hư là chính khí hư [ Chính khí không đủ ]
Thực là tà khí thực [ Tà khí mạnh sinh ra thực ]
Do bản chất mạnh yếu, sinh ra tà khí thịnh suy không giống nhau, nên châm cứu có thủ pháp bổ tả khác nhau.
Hư chứng: Hiện tượng suy nhược, bất túc, bệnh kéo dài từ lâu.
Thực chứng: Hiện tượng cường thịnh, hữu dư, bệnh mới mắc.
Biểu thực: Nóng, không có mồ hôi.
Biểu hư: Nóng có mồ hôi.
Lý thực : Bụng rắn, đại tiện bế.
Lý hư: Bụng mền đại tiện lỏng.
Khí hư: Hơi thở ngắn, nói nhỏ, tự ra mồ hôi, tim hồi hộp ù tai, mỏi mệt, ăn ít, tiêu hóa thất thường, mạch vi hoặc hư: Thoát giang [Nam], sa tử cung [Nữ].
Khí thực: Đàm nhiệt, thấp nhiệt, thực trệ, táo nóng, bụng cứng đầy, buồn bực nhiều đờm đại tiện bón hoặc đi ít.
Huyết hư: Tâm phiền, ít ngủ, nóng tính hay giận, hay sốt về đêm, ra mồ hôi trộm, da thịt khô, môi nhợt mạch tế vô lực.
Huyết thực: Khi nóng khi lạnh, hay sốt, có mồ hôi trộm, người đau, bụng hông đau, chất lưỡi tím, đại tiện đen, kinh bế [Nữ].
Muốn phân biệt rõ ràng về hư, thực phải dựa vào chẩn mạch mới khỏi lầm lẫn:
- Mạch có lực là chứng Thực.
- Mạch vô lực là chứng Hư.
Trương Trọng Cảnh viết: Cần phân biệt rõ Hư thực. Bệnh hư nên Bổ. Bệnh thực nên tả.