Ai là nữ nhà báo đầu tiên của Việt Nam

Nhân kỉ niệm Ngày Báo chí Việt Nam 21/6, chúng ta cùng ngược dòng thời gian đi tìm những nhà báo đầu tiên của đất nước ta, để hiểu thêm về những dấu ấn đậm nét của họ.


1. Trương Vĩnh Ký - nhà báo đầu tiên của Việt Nam


Nhà báo chính thức đầu tiên trong lịch sử nước nhà chính là Trương Vĩnh Ký [Pétrus Ký] - người con đất Nam Kỳ. Cuộc đời ông là một hành trình đầy biến cố, bắt đầu với tuổi thơ dữ dội, nhiều long đong.


Cơ duyên đến với nghề của ông thật là kì lạ: xuất phát điểm là một tu sĩ theo đạo Công giáo tài ba từng du học tại Chủng viện Giáo hoàng ở Penang [Malaysia] song vì chịu tang mẹ, ông trở lại Việt Nam, rồi bắt đầu theo nghiệp viết lách. Trước đó, thậm chí có thời kì ông đã hợp tác với Toàn quyền Đông Dương Paul Bert và là thầy dạy tiếng Pháp của vua Đồng Khánh.


Nhà báo Trương Vĩnh Ký...


... và tờ Gia Định báo.


Sức viết của ông gần như vô hạn khi cho ra đời tới 118 tác phẩm, bao gồm sách nghiên cứu, sưu tầm, dịch... Thông thạo tới 26 ngôn ngữ, ông từng được vinh danh là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ XIX. Thời bấy giờ, J.Bouchot - một học giả người Pháp đã gọi ông là “nhà bác học duy nhất ở Đông Dương”.


Bước chân vào nghề, dấu ấn mà Pétrus Ký để lại là việc trở thành chủ biên tờ báo Gia Định - tờ báo đầu tiên của nước ta.Nó được xuất bản số đầu tiên ngày 15/4/1865, tồn tại suốt 44 năm, đặt nền móng cho báo chí nước nhà. Đây cũng là tờ báo có quảng cáo đầu tiên ở Việt Nam.


Báo Gia Định là tờ báo có quảng cáo đầu tiên ở Việt Nam.


Ông mất năm 62 tuổi và để lại cho hậu thế những suy nghĩ xung quanh lời ước nguyện cuối đời của mình: “Miseremini mei saltem vos acimic mei” [Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi].


2. Sương Nguyệt Anh - nữ nhà báo hồng nhan bạc mệnh


Tờ Nữ giới chung - tờ báo phụ nữ đầu tiên của Việt Nam lại ghi dấu ấn đậm nét của bà Sương Nguyệt Anh. Trong lịch sử báo chí dân tộc, bà là người phụ nữ đầu tiên làm nghề này.


Nhà báo Sương Nguyệt Anh.


Cuộc đời 58 năm của bà gói gọn lại trong vài từ: gian truân và khổ hạnh. Điều kì lạ là cho tới ngày nay, chưa một tài liệu nào xác định được rõ xem tên, họ thật sự của bà là gì, Nguyệt Anh hay Nguyệt Ánh, Ngọc Khuê, Xuân Khuê, Xuân Hạnh... Chỉ có thể chắc chắn rằng, bà là người con thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Thật không may, cuối đời, Sương Nguyệt Anh cũng mắc bệnh như cha, qua đời trong bóng tối của mù lòa.



Bà là một trang hồng nhan bạc mệnh đích thực. Xinh đẹp, tài năng, được nhiều người theo đuổi nhưng chồng lại mất sớm, bà thủ tiết nuôi con khôn lớn. Đến khi bước vào làng báo thì con gái cũng qua đời. Bút danh của bà có chữ “Sương” là do bà tự thêm vào cũng vì những lẽ ấy. Bà làm chủ bút của tờ Nữ giới chung, được độc giả ủng hộ vô cùng nồng nhiệt. Dẫu vậy, do tầm ảnh hưởng lớn nên chỉ sau 22 tuần, tờ báo đã bị đình bản bởi thực dân Pháp.


3. Hoàng Tích Chu - ngôi sao băng vụt sáng


Nhà báo cuối cùng, là một ngôi sao băng vụt qua làng báo chí Việt Nam thời kì đầu: Hoàng Tích Chu. Nói vậy bởi lẽ sự nghiệp làm báo của ông chỉ vỏn vẹn có vài năm, nhất là khi ông mất khi rất trẻ, hưởng dương 36 tuổi.



Dẫu thế, những đóng góp và công lao của ông là vô cùng quan trọng. Ông là nhà báo mở đầu quá trình cách tân báo chí Việt Nam với lối viết đơn giản, trong sáng, phá tan cách viết sáo mòn, nhiều điển tích tồn tại trước đó.Bên cạnh sự nghiệp lừng lẫy, Hoàng Tích Chu cũng có một mối tình để đời với kỹ nữ Đốc Sao bậc nhất Hà thành.


Nhà nghèo nhưng ông luôn giúp đỡ cô Đốc công việc tại sàn khiêu vũ của cô. Hai người đến với nhau, tình cảm sâu đậm tới nỗi sau khi ông mất, cô Đốc Sao đã tình nguyện ở góa suốt đời, lấy tên “bà quả phụ Hoàng”.


Bạn có thể xem thêm:


Ngược quá khứ tìm hiểu tờ báo đầu tiên tại Việt Nam

Sương Nguyệt Anh [chữ Hán: 孀月英, 8 tháng 3[a] năm 1864 - 20 tháng 1 năm 1921[b]] là một nhà thơ và là chủ bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Tờ báo Nữ giới chung [女界鐘] do bà phụ trách là tờ báo đầu tiên của phụ nữ được xuất bản tại Sài Gòn.[1]

Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Khuê [theo "Nguyễn chi thế phổ"],[2] tuy nhiên tên ghi trên bia mộ lại là Nguyễn Ngọc Khuê, tự là Nguyệt Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh. Bút hiệu Sương Nguyệt Anh của bà có nghĩa là "Góa phụ Nguyệt Anh".[3]

 

Mộ nữ sĩ Sương Nguyệt Anh tại Ba Tri

Sương Nguyệt Anh sinh tại làng An Bình Đông, nay là xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre.[4] Bà là con gái thứ tư [cho nên trong gia tộc thường gọi bà là Năm Hạnh][c] của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, mẹ là bà Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc.

Thuở nhỏ, bà cùng người chị tên là Nguyễn Thị Xuyến, được cha [Đồ Chiểu] truyền dạy nên giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Khi cả hai khôn lớn, nổi tiếng tài sắc, được người quanh vùng ca tụng gọi là Nhị Kiều.

Năm 1888, Sương Nguyệt Anh được 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ Ba Tường đến hỏi bà làm vợ không được, nên mang lòng oán hận, đang tìm cách hãm hại. Để tránh tai hoạ, bà cùng gia đình người anh [Nguyễn Đình Chúc] chuyển sang Cái Nứa [Mỹ Tho] rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết duyên với một phó tổng sở tại góa vợ tên Nguyễn Công Tính,[d] sinh được một gái tên là Nguyễn Thị Vinh. Năm con gái được 2 tuổi thì chồng mất. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống. Và cũng từ đó, bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ "sương" [孀], thành "Sương Nguyệt Anh", có nghĩa là "Nguyệt Anh goá chồng".

Những năm 1906-1908, hưởng ứng phong trào Đông Du của Phan Bội Châu bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học sinh xuất dương sang Nhật du học.

Năm 1917, Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc mời làm chủ bút tờ Nữ giới chung nghĩa là "tiếng chuông của nữ giới". Tờ báo ra số đầu tiên ngày 1 tháng 2 năm 1918, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội.[e] Nhưng dù ngòi bút của Sương Nguyệt Anh có khéo léo đến đâu, tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. Tháng 7 năm 1918, tờ Nữ giới chung bị đình bản.[5] Cũng ngay lúc này, người con gái độc nhất của bà [Nguyễn Thị Vinh][f] vừa sinh nở xong, ngã bệnh qua đời.

Sau đó mắt bà bị bệnh thường xuyên đau nhức và sức khoẻ cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hoà [Ba Tri], nương náu nơi nhà người em út tên là Nguyễn Đình Chiêm để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị mù loà hẳn.

Từ đấy, sớm chiều bà lại tiếp tục dò dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Sáng sớm ngày 12 tháng Chạp năm Tân Dậu [tức 9 tháng 1 năm 1922], Sương Nguyệt Anh trút hơi thở cuối cùng, lúc 58 tuổi[g]

Lúc đầu, mộ Sương Nguyệt Anh ở Mỹ Nhơn, về sau [năm 1959] được đồng bào cải táng dời về nằm cạnh mộ phần của song thân bà, tức nằm trong khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu ngày nay.

Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng không gom thành tập. Nay chỉ còn tản mác một số bài thơ, như: Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự, Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô, vua Thành Thái vào Nam, cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến... Và vài bài vè, như: Vè tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề...

Thơ

Ngoài bản dịch bộ Yên Sơn ngoại sử của Trung Quốc ra thơ lục bát, một số ít bài thơ chữ Hán, thể vè lục bát; thơ của Sương Nguyệt Anh phần lớn là thơ Nôm, theo thể Đường luật.

Để bộc lộ cuộc nợ duyên dang dở của mình, bà viết:

Năm canh thức nhấp... năm canh những Nửa gối so le, nửa gối chờ Vườn én rủ ren trên lối cũ, Canh gà xao xác giục tình xưa...

Nhưng phần nhiều, thơ của bà là để đối đáp lại những người đã trêu ghẹo, đã tỏ tình với mình, nhằm nêu lên đức kiên trinh của người phụ nữ Nam Bộ, như Tiễn ông Kinh Hối nhậm chức kinh lịch ở Sa Đéc, Hoạ thơ Bảy Nguyện, Hoạ thơ Phủ Ngọc, Hoạ thơ Bái Liêu, Thưởng Bạch Mai, Vịnh ni cô,....

Trong số bài thơ khác, Sương Nguyệt Anh đã kín đáo gửi gắm tấm lòng yêu nước, thương dân, quan tâm đến thời cuộc, trích:

Vui lòng thánh đế nơi xe ngựa, Xót dạ thần dân chốn lửa than Nước mắt có cùng trời đất biết, Biển dâu một cuộc thấy mà thương. [Vua Thành Thái vào Nam]

Năm 1915, ông Việt sĩ sau khi đã khen ngợi Sương Nguyệt Anh rằng: Cuộc đời bà đã trải qua biết bao đau khổ, nhưng biết bao nỗi khổ đó hình như để thử thách người thiếu phụ kiên trinh, ông còn nhận định như sau:

Nhắc đến Sương Nguyệt Anh, người ta còn thấy lại nơi bà một tấm gương hoạt động cho phái nữ lưu; người ta không quên một cây bút rắn rỏi đã từng nêu trên tờ Nữ giới chung nhiều vấn đề lý thú về phận sự đàn bà đối với gia đình và xã hội. Trong buổi giao thời, phụ nữ nước nhà vừa ra khỏi khuê môn để tiếp xúc với văn hóa Âu Tây, bà Sương Nguyệt Anh rất xứng đáng là nữ sĩ tiền phong trên đất Việt.[6]

Bút hiệu của bà được đặt cho một số đường phố tại Việt Nam, nhưng thường bị viết sai chính tả thành "Sương Nguyệt Ánh", ví dụ ở Đà Lạt[7] và Vũng Tàu.[8] Đường Sương Nguyệt Anh ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh cũng từng bị viết sai nhưng đã được khắc phục, song nhiều bảng hiệu trên đường vẫn dùng tên sai.[9]

  1. ^ Tức mồng 1 tháng 2 âm lịch
  2. ^ Ghi theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập [tập 2, Nhà xuất bản. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1980, tr. 28] và Mai Huỳnh Hoa [Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1576]. Bia mộ ghi bà "mất ngày 12 tháng 12 năm Tân Dậu [1922], hưởng thọ 58 tuổi"; ngày này tương ứng âm lịch nhưng khác một năm.
  3. ^ Theo tục lệ ở Nam Bộ, con đầu lòng kể thứ hai, nên mặc dù Sương Nguyệt Anh là con gái thứ tư trong gia đình, nhưng được gọi là thứ năm.
  4. ^ Có sách ghi tên Trình. Ở đây ghi theo Nguyễn Liên Phong vì ông là người sống cùng thời với Sương Nguyệt Anh. Ngoài ra, ông còn cho biết thêm chi tiết: "Con gái ông Đồ Chiểu hình trạng nho nhã ốm yếu, tính nết điềm tịnh hiền lành. Thuở nhỏ cô lấy chồng, tên là thầy phó Tính, về ở theo quê chồng tại chợ Rạch Miễu" [Điếu cổ hạ kim thi tập xuất bản 1915].
  5. ^ Toà soạn đặt tại số nhà 15 đường Taberd [nay là đường Nguyễn Du, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh]. Chủ nhiệm là ông Henri Blanquière. Tờ báo phát hành định kỳ hàng tuần với các chuyên mục: xã thuyết, văn nghệ, gia chánh, học nghề, cùng các trang lời hay ý đẹp và mẹ con nói chuyện. Có thể nói, "Nữ giới chung" là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam thời đó chú trọng đến việc dạy nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán những luật lệ khắt khe đối với nữ giới.[1] Lưu trữ 2008-06-01 tại Wayback Machine
  6. ^ Cô Vinh lấy chồng là ông Mai Bạch Ngọc [hay Mai Văn Ngọc], sinh một cô con gái đặt tên Mai Huỳnh Hoa nhũ danh Kim Ba, sau này kết duyên với nhà hoạt động chính trị Phan Văn Hùm [1902-1946], tác giả Ngồi tù khám lớn [1929]
  7. ^ Ngày mất ghi theo bia mộ. Nhưng theo Mai Huỳnh Hoa thì bà mất tại Ba Tri ngày 2 tháng Chạp năm Canh Thân tức 20 tháng 1 năm 1921 [Từ điển Văn học, tập 2. Nhà xuất bản KHXH, tr. 320].

  1. ^ Theo Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập 1, tr. 28.
  2. ^ "Nguyễn chi thế phổ" do Nguyễn Đình Chiểu biên soạn, Nguyễn Đình Huy [cha ông Chiểu] hiệu chính.
  3. ^ Denecke, Wiebke. “Shared Literary Heritage in the East Asian Sinographic Sphere”. Trong Denecke, Wiebke; Li, Wai-yee; Tian, Xiaofei [biên tập]. The Oxford Handbook of Classical Chinese Literature [1000 BCE-900 CE]. Oxford University Press. tr. 529.
  4. ^ Tường Khanh [19 tháng 10 năm 2013]. “Sương Nguyệt Anh - nữ chủ bút báo đầu tiên của Việt Nam”. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2022.
  5. ^ Theo Nguyễn Ngọc Hiền, Nữ sĩ Việt Nam, Nhà xuất bản Thanh Niên, 2005, tr.478
  6. ^ Dẫn theo GS. Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ danh nhân tự điển, Nhà xuất bản Hồn Thiêng, Sài Gòn, 1966, tr. 1161
  7. ^ Minh Đạo [15 tháng 12 năm 2014]. “Xin gọi đúng tên Sương Nguyệt Anh”. Báo Lâm Đồng. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2022.
  8. ^ “PHẢN ÁNH: ĐẬU XE LẤN CHIỀM LÒNG ĐƯỜNG VÀ VỈA HÈ TẠI ĐƯỜNG PHAN KẾ BÍNH VÀ ĐƯỜNG SƯƠNG NGUYỆT ÁNH, PHƯỜNG 9”. UBND Thành phố Vũng Tàu. 5 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2022.
  9. ^ Vũ Phượng [17 tháng 10 năm 2016]. “Người Sài Gòn đang gọi tên sai nhiều con đường mà không biết”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2022.

Wikisource có các tác phẩm gốc nói đến hoặc của:
Sương Nguyệt Anh
  • Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, chủ bút tờ báo Phụ nữ đầu tiên Lưu trữ 2008-06-01 tại Wayback Machine - Quehuong.org.vn
  • Sương Nguyệt Anh Lưu trữ 2006-10-07 tại Wayback Machine trên trang web của hội Phụ nữ VN
  • Sương Nguyệt Anh trên trang web của tỉnh Bến Tre

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Sương_Nguyệt_Anh&oldid=68390645”

Video liên quan

Chủ Đề