Bài chủ tịch hồ chí minh phạm văn đồng năm 2024

Sinh ngày 1-3-1906, tại làng quê xã Đức Tân, Mộ Đức, Quảng Ngãi, thuở nhỏ đồng chí Phạm Văn Đồng đã được học chữ Hán, rồi theo cha ra Huế học ở Trường tiểu học Việt - Pháp Đông Ba, Trường Quốc học Huế. Sau đó ông ra học ở Trường Bưởi [Chu Văn An - Hà Nội]. Trong thời gian theo học ở Trường Quốc học Huế, ông đã có những hoạt động yêu nước từ rất sớm. Trong những năm 1925-1926, ông đã tham gia phong trào bãi khóa, đấu tranh đòi thực dân Pháp ân xá cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Chu Trinh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng [5-11-1968].

Năm 1926, đồng chí tham dự lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu [Trung Quốc] do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp tổ chức, giảng dạy và được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Cuối năm 1927, sau khi về nước và hoạt động ở Nam Kỳ, đồng chí Phạm Văn Đồng có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành tổ chức cách mạng ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Ngày 29-7-1929, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo. Sau khi được trả tự do vào năm 1936, Phạm Văn Đồng ra Hà Nội hoạt động công khai trên mặt trận báo chí cách mạng của Đảng. Tháng 5-1940, đồng chí được Trung ương Đảng cử sang hoạt động ở Côn Minh [Trung Quốc], làm việc bên cạnh lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và trở thành một trong những cộng sự đắc lực của Người. Năm 1942, khi trở về Cao Bằng hoạt động, Phạm Văn Đồng là người có nhiều công lao trong quá trình vận động, tổ chức Mặt trận Việt Minh, tham gia xây dựng căn cứ địa Việt Bắc, chuẩn bị lực lượng và các điều kiện tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng 8-1945.

Trong những năm hoạt động cách mạng, đặc biệt là từ sau năm 1945 đến năm 1987, đồng chí được phân công giữ nhiều cương vị lãnh đạo cao cấp, nhiều trọng trách trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, như: Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng….

Là một trong những cán bộ tiền bối, được Bác Hồ trực tiếp giáo dục và rèn luyện, đồng chí Phạm Văn Đồng đã trở thành người học trò xuất sắc, một cộng sự gần gũi và thân thiết của Bác. Đồng chí đã thể hiện những phẩm chất cao quý của một người cộng sản trung kiên, mẫu mực. "Tận trung với nước, tận hiếu với dân - Dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhân dân - Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư chống quan liêu, tham ô, lãng phí - Nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, nhân cách và có tấm lòng nhân ái, bao dung... Suốt 75 năm công tác liên tục, qua nhiều cương vị, đồng chí Phạm Văn Đồng đã tự học tập, rèn luyện theo tấm gương đạo đức cách mạng của Bác Hồ, suốt đời hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Phẩm chất cao quý người học trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở chỗ từ khi thôi đảm trách các chức vụ trong Đảng và Nhà nước, đồng chí đã dồn sức thực hiện xuất sắc 4 tác phẩm về Tư tưởng Hồ Chí Minh: "Hồ Chí Minh - Một Con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp" [1990]; "Hồ Chí Minh, quá khứ hiện tại và tương lai [1991]; Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh [1993]; và "Những nhận thức cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí Minh" [1998]. Đó cũng là những công trình khoa học đối với công tác nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần quan trọng vào công tác giáo dục chính trị, lý luận của Đảng ta hiện nay.

Khi cùng ở với Bác Hồ và cả sau khi Bác mất, ông luôn giữ nếp sống rất đơn giản, trong cuộc sống, Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng coi nhau như anh em, Bác gọi ông là chú Tô. Giản dị, thanh bạch là những điều đồng chí học được ở Bác Hồ nhiều nhất.

Đồng chí Phạm Văn Đồng còn là nhà văn hoá lớn của dân tộc, đồng chí là người rất sâu sát, chí tình với giới văn nghệ sĩ, khẳng định vị trí quan trọng của văn học, nghệ thuật trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Trên lĩnh vực đối ngoại, đồng chí Phạm Văn Đồng là nhà ngoại giao xuất sắc, là một trong những nhân vật chủ chốt tham gia vào việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thể hiện sinh động tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, được bạn bè quốc tế tin yêu kính trọng.

Cuộc đời của đồng chí Phạm Văn Đồng là một tấm gương sáng về đức độ, tài năng, ý chí và nghị lực cách mạng. Trên cương vị nào đồng chí cũng làm việc hết mình và để lại những dấu ấn sâu sắc. Với 75 năm liên tục hoạt động cách mạng, với những đóng góp không ngừng nghỉ cho cách mạng và dân tộc, đồng chí được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và nhiều phần thưởng cao quý khác. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Đồng chí Phạm Văn Đồng sinh ngày 1/3/1906, trong một gia đình trí thức ở xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi và có tên gọi thân mật là Tô [đây cũng từng là bí danh của ông]. Đồng chí Phạm Văn Đồng là một trong những học trò xuất sắc nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Người về tư tưởng, đạo đức, tác phong, về tư duy chính trị và văn hóa. Với bề dày công tác [đồng chí Phạm Văn Đồng đã có 35 năm liên tục là Ủy viên Bộ Chính trị [1951 - 1986], 32 năm là Thủ tướng Chính phủ [1955 - 1987], 10 năm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng [1987 - 1997], đồng chí Phạm Văn Đồng là một nhà lãnh đạo tài năng, uy tín, một nhà văn hóa lớn của đất nước, được bạn bè quốc tế trân trọng, nể phục.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Khi còn là một thanh niên, đồng chí Phạm Văn Đồng đã sớm giác ngộ cách mạng, đã biết đến lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và tìm hiểu tư tưởng cách mạng của Người thông qua sách báo được truyền bá vào Việt Nam lúc bấy giờ như báo “Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Tạp chí thư tín quốc tế…

Năm 1926, đồng chí được sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức và trực tiếp giảng dạy. Đây là một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Phạm Văn Đồng. Ý chí cách mạng, lý tưởng cộng sản và tinh thần yêu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ảnh hưởng sâu sắc tới tình cảm và lý tưởng của đồng chí, biến đồng chí từ một thanh niên yêu nước trở thành một chiến sĩ cách mạng chân chính.

Đầu năm 1940, khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị về nước lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã giao cho đồng chí Phạm Văn Đồng những nhiệm vụ quan trọng. Cũng từ đây, bắt đầu một thời kỳ dài gần 30 năm [cho tới khi Bác mất], đồng chí Phạm Văn Đồng thường xuyên làm việc bên Bác, theo sự chỉ dẫn và phân công của Người.

Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và giữ cách sống mẫu mực của một đảng viên cộng sản chân chính theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí luôn là tấm gương mẫu mực về một người cán bộ lãnh đạo, tận tâm tận lực, vì dân, vì nước, liên khiết, khiêm tốn, giản dị, gần gũi với Nhân dân.

Đối với Tuyên Quang, đồng chí Phạm Văn Đồng đã có khoảng thời gian hoạt động cách mạng thời kỳ Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Tháng 6/1949, đồng chí Phạm Văn Đồng từ Nam Trung Bộ trở lại Tuyên Quang nhận công tác mới, được bổ sung là Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Tại phiên họp Hội đồng Chính phủ từ ngày 25 đến ngày 27/7/1949, đồng chí được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ, đồng thời giữ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng tối cao.

Trên cương vị Thủ tướng, đồng chí thay Chủ tịch Hồ Chí Minh điều hành công việc của Chính phủ và cùng đồng chí Phan Mỹ điều hành Văn phòng Chủ tịch phủ - Thủ tướng phủ, lo những vấn đề kinh tế, tài chính, tiền tệ, ngân hàng, canh công, về văn hoá, xã hội, tổ chức, nhân sự, ngoại giao, nhất là vấn đề xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân.

Thời gian ở Tuyên Quang, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ở và làm việc tại nhiều địa điểm trên đất Tuyên Quang như: huyện Sơn Dương gồm các xã Bình Yên [1949], Tân Trào [1950-1953]; huyện Chiêm Hoá bao gồm các xã Kiên Đài [cuối 1950, đầu 1951], Kim Bình [tháng 2 đến tháng 3/1951]; huyện Yên Sơn: xã Kim Quan [1954].

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí Phạm Văn Đồng được bầu làm Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương. Đồng chí còn đảm nhận các nhiệm vụ Bí thư Đảng đoàn Chính phủ, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Tiểu ban Miên – Lào, thành viên Ban Tuyên huấn Trung ương.

Ngày 11/3/1951, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng được Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Việt – Miên – Lào bầu vào Uỷ ban Liên minh nhân dân Việt - Miên - Lào.

Tháng 9/1953, Bộ Chính trị đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong Chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954. Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập “Hội đồng cung cấp Mặt trận” do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Hội đồng cung cấp có nhiệm vụ chỉ đạo việc tiếp tế cho tiền tuyến của các cơ quan kho thóc, y tế, mậu dịch; lo công tác vận tải và dân công, huy động tối đa sức người, sức của cho các trận đánh lớn trên chiến trường.

Từ Kim Quan, tháng 3/1954, Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng – Trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã lên đường tham dự Hội nghị Giơnevơ.

Trong hai cuộc kháng chiến cứu quốc, trên cương vị Phó Thủ tướng rồi Thủ tướng Chính phủ, đồng chí Phạm Văn Đồng đã lo tổ chức một bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, ít tốn kém mà có hiệu quả, tích cực phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế; đảm bảo cuộc sống của Nhân dân; huy động sức người, sức của cho kháng chiến; tăng cường sức mạnh và sự an toàn hậu phương của chiến tranh; tổ chức tốt công tác chi viện cho tiền tuyến.

94 tuổi đời, 75 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Phạm Văn Đồng đã cống hiến trọn đời cho đất nước, mang hết nhiệt tình, tài năng và trí tuệ phục vụ cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, đồng chí cũng luôn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp cách mạng, vào tương lai tươi sáng của đất nước./.

Chủ Đề