Bài tập nghe toic my email address is fred

Rất ít người chơi trong lịch sử chơi golf có nhịp điệu, sự cân bằng và uyển chuyển như các Fred Couples sở hữu. Nếu bạn có bài phỏng vấn cho các golfer chuyên nghiệp về ai là người có cú Swing hay nhất mọi thời đại, Fred sẽ lọt vào danh sách này.

Fred Couples trong sự nghiệp có 15 danh hiệu PGA Tour, 7 lần chơi ở Presidents Cup và sở hữu The Masters. Đây cũng không phải là số danh hiệu quá nhiều và khiến bạn hấp dẫn nhưng cách mà Fred có nó trông rất dễ dàng. Trong năm 2022, Fred Couples đã có vòng đấu gậy thấp nhất trong sự nghiệp trên PGA Tour Champions khi về 60 gậy, ghi 12 birdie và không mắc bogey nào. Chiến thắng cách biệt 6 gậy tại giải SAS Championship, danh hiệu đầu tiên sau hơn 5 năm qua.

Fred Couples từng nói: "Về mặt swing và kỹ thuật, bạn thấy tôi thậm chí còn không squat [nhún, đè xuống] trong cú đánh của mình. Tôi không ngắm hướng khi mà tôi đang chơi tốt"

Nếu quan sát thì thấy Fred có tư thế thiết lập thế đứng cũng như khi đánh bóng khả thẳng đứng. Cách người đàn ông này ''vít'' cực gọn gàng và đơn giản. Chính điều này đã khiến cho Couple là bậc thầy của sự tinh gọn. Không những thế Swing của Couple còn cực kỳ hiệu quả. Những gì đạt được trong sự nghiệp giúp ông đã vào đại sảnh danh vọng thế giới.

Điểm mấu chốt trong Swing của Fred Couples là gì?

"Phần lớn thời gian tập Swing của tôi, tôi chỉ tập trung vào follow through [swing gậy đi qua bóng]. Tôi đưa gậy đi xuống đúng điểm đó và theo đúng hướng vạch thẳng mong muốn" - Fred Couples nói

Chìa khóa nằm ở động tác sau khi impact [mặt gậy chạm vào bóng] của ông. Fred giải thích, anh có thể đưa gậy giải phóng hoàn toàn xuống theo hướng mục tiêu, và chắc chắn nó sẽ đi thẳng.

“Tôi cố gắng đưa tay đi giúp gậy vào sau bóng sau đó đưa tay đi xuống tiếp tục theo đường thẳng như được vạch ra. Đó là những gì tôi tập Swing và là điều đơn giản nhất mà tôi nỗ lực hàng ngày" - Fred Couples.

Trong những năm đầu sau khi hồi hương, Fred nhiễm phải căn bệnh PTSD một cách từ tốn. Đó là một thứ căn bệnh thời thượng, sang trọng, và thật là dại dột nếu không vướng phải căn bệnh này. Fred hút cần sa, uống rượu, và làm thơ, theo cái thứ tự đó. Anh nhắc thực nhiều đến cái mảnh đất xa xôi có tên gọi là Việt Nam sau khi hút cần sa, sau khi uống rượu, và trong những bài thơ của anh. Đó là một xứ sở đẹp đẽ nếu không có chiến tranh với những người dân hiền lành nếu không có chiến tranh và anh đã có thể yêu một cô gái đẹp đẽ trong đám dân chúng hiền lành đó nếu không có chiến tranh. Thơ anh đại khái như vậy đó. Một hay hai bài thơ của anh đã xuất hiện trong một hay hai tập thơ có chủ đề chiến tranh Việt Nam do một hay hai người bạn của anh chịu trách nhiệm biên tập. Chỉ có vậy thôi. Nhưng ngay cả điều này cũng không làm Fred nản lòng. Anh đã không bỏ qua bất cứ hội hè đình đám nào có liên quan đến thơ văn và chiến tranh Việt Nam. Ở đó anh sẽ xuất hiện với râu tóc lởm chởm, với chiếc bê rê đen lệch lạc trên đầu một cách cố tình, và bộ đồ trận bạc phếch của lính khinh kỵ với huy hiệu quân chủng và hàng chữ “Đà Nẵng” ở ngực áo. Ở đó anh sẽ tìm thấy những người ăn mặc tương tự, và một số trong bọn họ là bạn của anh. Ở đó anh thấy mình quan trọng hẳn lên, anh thuộc về nhóm những cựu chiến binh làm văn nghệ, những nghệ sĩ.

Ở một trong những cuộc hội họp như vậy anh có dịp tiếp xúc với những nhà văn nhà thơ đến từ Việt nam. Đó là lần đầu tiên. Sẽ có thêm những cuộc gặp gỡ tương tự sau này. Họ gồm một nhà thơ lão thành, một nhà văn trung niên, và một phụ nữ trẻ vừa viết văn vừa làm thơ. Họ đến đây theo lời mời của trung tâm nghiên cứu hậu quả chiến tranh thuộc một viện đại học danh tiếng của thành phố. Buổi hội thảo quy tụ khá đông người. Hầu hết là các nhà văn nhà thơ gốc gác cựu chiến binh. Một số trong bọn họ không cần phải nhún nhường, và điều này được biểu lộ trong cung cách tự giới thiệu của họ. X, thi sĩ, cựu chiến binh. Y, nhà văn, cựu chiến binh. Z, kịch tác gia, cựu chiến binh… Nhưng Fred không cảm thấy khó chịu chút nào hết. Chốc nữa đây anh sẽ có mặt trên diễn đàn. Anh có năm phút để phát biểu, và anh đã hứa với chính mình [và đồng thời với người bạn vốn là một chức sắc của trung tâm] sẽ không hoang phí khoảnh khắc quý giá này. Phải nói là anh có chút hồi hộp khi chờ đến phiên mình. Có nhiều hơn là một chút.

Đó là một xứ sở đẹp đẽ nếu không có chiến tranh với những người dân hiền lành nếu không có chiến tranh và tôi đã có thể yêu một cô gái đẹp đẽ trong đám dân chúng hiền lành đó nếu không có chiến tranh. Fred bắt đầu như vậy và tiếp tục nói về những điều tương tự trong hai phút tiếp theo. Ở phút thứ ba, Fred buộc tội chính anh. Tôi đã đến, mang theo chiến tranh, và chính vì vậy, quê hương của anh chị đã không còn là một xứ sở đẹp đẽ. Tôi đã ra đi, để lại sau lưng đổ nát và bất hạnh. Ở phút thứ tư, anh nhân danh cựu chiến binh và nhân dân Hoa Kỳ chân thành xin lỗi những nhà văn nhà thơ đến từ Việt Nam về những bất hạnh do anh gây ra ở phút thứ ba. Những người dự khán nghe thấy nỗi xúc động trong giọng nói đứt quãng của Fred, trên khuôn mặt nhăn nhíu khổ sở của anh, và ở những giây cuối cùng của một trăm hai mươi giây còn lại, trong đôi mắt anh lúc này đã nhòe nhoẹt mước mắt. Tôi cầu xin sự tha thứ của nhân dân Việt Nam. Tôi xin được cái hân hạnh ôm hôn anh chị, những người dân Việt Nam anh hùng. Anh chấm dứt bài phát biểu của mình như vậy. Fred rời bục gỗ trong tiếng vỗ tay râm ran và bước đến dãy bàn có những nhà văn nhà thơ đến từ Việt Nam. Anh ôm hôn nhà thơ lão thành và nhận ra một mùi kỳ dị từ người ông già phát ra. Fred nghĩ mình sẽ không muốn ôm hôn ông lão này một lần nào nữa. Thực là đáng tiếc cho anh. Anh sẽ không bao giờ biết được sự quyến rũ của thuốc lào. Nhà văn trung niên, trái với sự lo ngại của Fred, không có mùi gì đặc biệt. Nhưng người phụ nữ trẻ lại là một ngạc nhiên thích thú. Từ cơ thể nhỏ nhắn của cô toát ra mùi da thịt trộn lẫn với mùi nước hoa thực lạ. Da thịt hay nước hoa, mùi nào là thơ của cô, Fred tự hỏi.

Bài phát biểu của Fred, bằng một cách nào đó, đã trở thành một tiết mục thường xuyên trong những cuộc hội thảo sau đó của trung tâm khi có sự hiện diện của văn nghệ sĩ đến từ cái xứ sở đẹp đẽ nếu không có chiến tranh. Bây giờ thì Fred đã trở nên điêu luyện hơn trong việc trình diễn tiết mục của mình. Anh không còn xúc động nhiều như lần đầu tiên. Anh không chắc mình có xúc động, nhiều hoặc ít, hay không nữa! Nhưng Fred có thực sự xúc động hay không không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng đến từ những người khách phương xa. Fred có thể đọc thấy nỗi xúc động và niềm tự hào trên khuôn mặt họ. Có thể điều này giúp họ cảm thấy bớt nhỏ bé, bớt lạc lõng. Có thể đó là một trong những điều ít ỏi mà họ sẽ còn nhớ đến rất lâu. Đó là món quà văn nghệ của Fred, bên cạnh những bài thơ khiêm tốn của anh.

“Fred Woodall, cựu chiến binh, thi sĩ.” Bây giờ thì Fred cảm thấy yên tâm với lời tự giới thiệu của mình. Có thể anh là một nhà thơ với những tác phẩm khiêm tốn. Nhưng đâu phải chỉ có thơ! Còn có những điều khác nữa, những điều mà anh không cần phải nhún nhường về khả năng của mình. Chẳng hạn như phát biểu trước một cử tọa đông đảo về cái xứ sở xa tít tắp bất kể có chiến tranh hay không và vô cùng đẹp đẽ nếu không có chiến tranh. Về những bất hạnh mà anh đã mang đến cho xứ sở đó. Và những lời xin lỗi chân thành lẫn trong tiếng thổn thức của niềm ân hận vô biên. Và những giọt nước mắt ở những giây cuối cùng của một trăm hai mươi giây cuối cùng. Và sẽ không có nhà thơ lão thành với cái mùi kỳ dị ở dãy bàn mà anh sẽ hướng đến khi bài phát biểu chấm dứt.

PN Tháng 10. 1999

“Fred Woodall, war veteran, poet.” Fred now feels comfortable with his self-introduction. Maybe he is simply a poet with modest outputs. But there is more to life than poetry! There are many other things that he doesn’t need to be modest about, like making a speech in front of a packed audience about a land far, far away whether or not there were war that could also be exceedingly beautiful if there were no war; the calamity he brought to that land; the choked-up apology out of endless regrets; and the tears at the very last seconds of the remaining one hundred and twenty seconds. He only hopes that there would not be any old Vietnamese poet with a strange odor sitting at the table toward which he plans to head immediately after the end of his speech.

Chủ Đề