Bản chất của pháp luật việt nam là gì

Pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước đặt ra [hoặc thừa nhận] có tính quy phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bặt buộc chung thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước và được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội.

2. Các hình thức thực hiện pháp luật

Các hình thức thực hiện pháp luật bao gồm:

2.1. Sử dụng pháp luật

Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình [thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép]. Những quy phạm pháp luật quy định về các quyền và tự do dân chủ của công dân được thực hiện dưới hình thức này.

2.2. Tuân thủ pháp luật

Tuân thủ [tuân theo] pháp luật [xử sự thụ động] là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm. Những quy phạm pháp luật cấm đoán được thực hiện ở hình thức này.

2.3. Thi hành pháp luật

Thi hành [chấp hành] pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.

2.4. Áp dụng pháp luật

Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể.

3. Bản chất pháp luật

- Bản chất giai cấp của pháp luật. Pháp luật do nhà nước ban hành phù hợp với ý chí nguyện vọng của giai cấp cầm quyền mà nhà nước là đại diện.

- Bản chất xã hội của pháp luật.

+ Các quy phạm pháp luật bắt nguồn từ thực tiễn đời sống xã hội, do thực tiễn cuộc sống đòi hỏi.

+ Pháp luật không chỉ phản ánh ý chí của giai cấp thống trị mà còn phản ánh nhu cầu, lợi ích của các giai cấp và các tầng lớp dân cư khác nhau trong xã hội.

+ Các quy phạm pháp luật được thực hiện trong thực tiễn đời sống xã hội, vì sự phát triển của xã hội.

4. Các đặc trưng của pháp luật

Pháp luật có 03 đặc trưng cơ bản sau:

- Tính bắt buộc chung: Pháp luật do nhà nước ban hành và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước, là quy định bắt buộc với tất cả mọi cá nhân, tổ chức, ai cũng phải xử sự theo pháp luật, nếu không sẽ bị áp dụng những biện pháp cần thiết.

- Tính quy phạm phổ biến: Pháp luật là những quy tắc xử sự chung, là khuôn mẫu chung, được áp dụng nhiều lần, ở nhiều nơi, với tất cả mọi người, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

- Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: Hình thức thể hiện của pháp luật là các văn bản có chứa các quy phạm pháp luật được xác định chặt chẽ về hình thức, văn phong diễn đạt phải chính xác. Cơ quan ban hành văn bản và hiệu lực của văn bản được quy định chặt chẽ trong Hiến pháp hoặc luật.

5. Quy phạm pháp luật là gì?

Quy phạm pháp luật là quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được áp dụng lặp đi lặp lại nhiều lần đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi cả nước hoặc đơn vị hành chính nhất định, do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy định trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

[Khoản 1 Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015]

Diễm My

Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email info@thuvienphapluat.vn.

Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là công cụ không thể thiếu, bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội nói chung và của nền đạo đức nói riêng. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm lành mạnh hóa đời sống xã hội và góp phần bồi đắp nên những giá trị mới. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, sự ra đời và tồn tại của Pháp luật luôn gắn với xã hội có giai cấp và là sản phẩm của sự phát triển của xã hội nên pháp luật hàm chứa trong nó hai thuộc tính là tính giai cấp và tính xã hội.

1. Tính giai cấp của pháp luật

Để giải thích một cách đúng đắn và khoa học về bản chất của pháp luật, học thuyết Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật đã đặt pháp luật trong mối quan hệ với các hiện tượng khác trong xã hội có giai cấp. Theo đó, pháp luật chỉ phát sinh tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp.

Bản chất của pháp luật thể hiện chính ở tính giai cấp của nó, không có “pháp luật tự nhiên” hay pháp luật không mang tính giai cấp.

Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ, pháp luật phản ánh ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị. C.Mác và Ăngghen khi nghiên cứu về pháp luật tư sản đã đi đến kết luận: Pháp luật tư sản chẳng qua chỉ là ý chí của giai cấp tư sản được đề lên thành luật, cái ý chí mà nội dung của nó là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quyết định. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước để thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của nhà nước, ý chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.

Pháp luật là nhân tố để điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm hướng các quan hệ xã hội phát triển theo một “trật tự” phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là công cụ để thực hiện sự thống trị giai cấp.

Tính giai cấp là thuộc tính chung của bất kỳ kiểu pháp luật nào nhưng mỗi kiểu pháp luật lại có những nét riêng và cách biểu hiện đặc thù. Ví dụ: Pháp luật chủ nô công khai quy định quyền lực vô hạn của các chủ nô, tình trạng vô quyền của người nô lệ; Pháp luật phong kiến công khai quy định đặc quyền, đặc lợi của tầng lớp địa chủ phong kiến, cũng như quy định các chế tài hà khắc dã man để trấn áp nhân dân lao động; Trong pháp luật tư sản bản chất giai cấp được thể hiện một cách tinh vi dưới nhiều hình thức như quy định về mặt pháp lý những quyền tự do, dân chủ… nhưng thực chất pháp luật tư sản luôn thể hiện ý chí của giai cấp tư sản và mục đích trước hết nhằm phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản; Pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là công cụ để xây dựng một xã hội mới trong đó mọi người đều được sống tự do, bình đẳng, công bằng xã hội được bảo đảm.

Hình minh họa. Bản chất của pháp luật là gì?

2. Tính xã hội của pháp luật

Pháp luật do nhà nước, đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó hàm chứa tính xã hội. Nội dung của pháp luật luôn mang tính điển hình bởi nó chính là hiện thực của đời sống xã hội, được xã hội thực hiện và sử dụng.

Pháp luật chính là phương tiện và công cụ để giải quyết các vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Trong nhiều trường hợp khi thực tiễn xã hội đặt ra vấn đề cấp bách và để giải quyết nó nhằm đảm bảo sự ổn định, trật tự cho xã hội thì phải cần đến sự hợp lực của cả cộng đồng. Khi đó, nếu pháp luật thực sự là phương tiện để đảm bảo sự liên kết, đồng thuận của cả quốc gia, cả dân tộc, cả cộng đồng thì pháp luật đã thể hiện rất rõ thuộc tính xã hội của nó.

Như vậy, xét về bản chất thì tính xã hội là thuộc tính chung của pháp luật. Điều đó đồng nghĩa với việc mỗi kiểu pháp luật khác nhau thì sẽ hàm chứa thuộc tính xã hội khác nhau, thể hiện thuộc tính xã hội khác nhau trên thực tiễn. Chẳng hạn, pháp luật tư sản ở thời kỳ đầu, sau thắng lợi của cách mạng tư sản đã thể hiện rõ nội dung tiến bộ so với pháp luật phong kiến và có tác dụng tích cực góp phần xóa bỏ những quan hệ kinh tế – xã hội phong kiến lạc hậu, củng cố và thúc đẩy sự phát triển những quan hệ kinh tế – xã hội tiến bộ mới hình thành trong xã hội tư sản chủ nghĩa. Nhưng đến thời kỳ đế quốc chủ nghĩa nó đã có nhiều thay đổi và có những tác động tiêu cực đến các quá trình kinh tế, chính trị và xã hội…

Như vậy, pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp lại vừa thể hiện tính xã hội, hai thuộc tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau, không có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp; ngược lại, cũng không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội.

Pháp luật Việt Nam mang bản chất gì?

Giải thích: Bản chất của Pháp luật nhà nước Việt Nam mang tính giai cấp vì Pháp luật thể hiện ý chí Nhà nước của giai cấp thống trị với Nhà nước là chủ thể, đại diện cho giai cấp cầm quyền, đại diện cho nhân dân ban hành và bảo đảm thực hiện Pháp luật.

Bản chất của pháp luật thể hiện như thế nào?

Bản chất của pháp luật thể hiện thông qua tính giai cấp và tính xã hội [hay giá trị xã hội] của nó. Pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được nhà nước thể chế hoá thành pháp luật và bảo đảm thực hiện.

Bản chất và vai trò của pháp luật là gì?

Pháp luật là công cụ cơ bản để tổ chức và quản lí đời sống cộng đồng nhằm thiết lập, củng cố và bảo vệ trật tự xã hội trên các lĩnh vực của đời sống. Pháp luật là phương tiện để thực hiện những mục đích chung, bảo vệ những lợi ích chung, lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự tồn tại và phát triển của toàn xã hội.

Bản chất xã hội của pháp luật là gì?

2. Bản chất xã hội của pháp luật. Trước tiên, bản chất xã hội của pháp luật được thể hiện ở chính định nghĩa về pháp luật. Theo đó, pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước.

Chủ Đề