Cơ cấu dân số già, những thách thức tiềm ẩn
Chăm sóc người cao tuổi, đối tượng chính sách tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: ÐĂNG KHOA
Hơn 50 năm nỗ lực thực hiện chính sách giảm sinh, công tác dân số nước ta đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, dân số nước ta lại đối mặt với những thách thức mới khi bước vào giai đoạn cơ cấu dân số già nhanh hơn 20 năm so với các nước phát triển.
Việt Nam có cơ cấu dân số vàng, với 70% dân số ở độ tuổi lao động trẻ. Ðiều này sẽ đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế hằng năm. Nhưng hiện nay, dân số Việt Nam đang già đi một cách nhanh chóng. So sánh các cuộc tổng điều tra dân số cho thấy, tỷ trọng dân số trẻ em [từ 0 -14 tuổi] đã giảm mạnh [năm 2012 còn 23,9%] và theo dự báo sẽ tiếp tục giảm và tuổi thọ trung bình của dân số ngày càng cao, theo đó dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm 7% [năm 2011]. Dân số nước ta chính thức bước vào giai đoạn già hóa từ năm 2011. Nếu năm 2012 cứ khoảng 11 người dân thì có một người cao tuổi, ước tính vào năm 2029, cứ sáu người dân sẽ có một người cao tuổi. So sánh với các nước phát triển, thì cơ cấu dân số đang già chuyển sang cơ cấu dân số già ở nước ta tốc độ nhanh hơn so với các nước phát triển là 20 năm. Vô hình trung, chúng ta chưa tận dụng hết nguồn nhân lực "cơ cấu dân số vàng" thì đã chuyển sang "cơ cấu dân số già".
Theo PGS, TS Giang Thanh Long [Bộ Kế hoạch và Ðầu tư], cơ cấu dân số già là một thành tựu của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, già hóa dân số nước ta với tốc độ nhanh như vậy, đã tạo ra những thách thức lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Dân số già hóa nhanh trong điều kiện kinh tế - xã hội còn nghèo sẽ gây ra áp lực như tăng trưởng dân số nhanh. Lượng người cao tuổi tăng nhanh tạo áp lực cho hệ thống an sinh xã hội, dịch vụ chăm sóc sức khỏe... Có thể nói, Việt Nam sẽ phải đương đầu với hai thách thức là vừa phải đầu tư cho phát triển vừa phải thích ứng với già hóa dân số. Trước hết, về dài hạn, dân số già sẽ làm tăng chi phí chăm sóc, thâm hụt vốn, giảm tích lũy... làm ảnh hưởng tới cơ cấu ngân sách quốc gia; đồng thời, dân số biến đổi theo hướng già dần làm giảm quy mô lực lượng lao động, ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của xã hội, với phát triển kinh tế - xã hội. Và như vậy, "Việt Nam sẽ già trước khi giàu"...
Già hóa dân số sẽ là thách thức đối với hệ thống an sinh xã hội khi mà lương hưu tăng lên, chi phí chăm sóc người cao tuổi tăng [chi phí người cao tuổi cao gấp 5- 6 lần khi còn trẻ]. Trước đây, chế độ hưu trí được thiết kế cho một người lao động sau khi hết tuổi lao động sống trung bình là tám năm. Tuy nhiên, trên thực tế, thời gian sống sau lao động hiện tại dài hơn [bình quân hơn 13 năm], trong khi hằng năm phải chi các khoản tiền không nhỏ từ Quỹ Bảo hiểm xã hội để giải quyết nhiều trường hợp nghỉ trước tuổi hưu hưởng trợ cấp một lần. Bên cạnh đó, hệ thống chăm sóc người cao tuổi chưa được đầy đủ khi mà hệ thống lão khoa trang thiết bị còn thiếu, đội ngũ cán bộ y tế chưa đáp ứng nhu cầu giải quyết các bệnh đặc trưng của người cao tuổi. Quy mô gần 10 triệu người cao tuổi hiện nay [với những đặc điểm của mô hình bệnh tật các nước nghèo, đang phát triển như bệnh lây nhiễm, suy dinh dưỡng, tuổi thọ khỏe mạnh thấp] sẽ là một áp lực rất lớn cho ngành y tế ở cả hiện tại và tương lai. Một đặc điểm nữa của già hóa dân số ở nước ta là số dân cao tuổi tăng nhanh ở nhóm tuổi cao nhất. Tỷ trọng dân số cao tuổi tăng 1,44 lần từ năm 1989 đến 2012 nhưng tỷ trọng nhóm dân số cao tuổi nhất [80 tuổi trở lên] trong tổng dân số tăng 2,7 lần trong giai đoạn này [từ 0,7% lên 2,0%]. Việc xóa đói, giảm nghèo cũng là một thách thức không nhỏ với một nền kinh tế chủ đạo vẫn là nông nghiệp như nước ta, khi mà tỷ lệ người cao tuổi sống và làm việc ở nông thôn có thu nhập thấp chiếm 68,2%.
Những giải pháp cho vấn đề già hóa dân số, theo Phó Tổng cục trưởng Dân số - Kế hoạch hóa gia đình [Bộ Y tế] Nguyễn Văn Tân, cần tập trung vào hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội, nhất là chính sách bảo hiểm tuổi già. Cần xây dựng chính sách bảo hiểm hưu trí, tuổi già tự nguyện với những mức phí linh hoạt cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Nghiên cứu và xây dựng cơ chế hợp tác liên kết giữa khu vực công và khu vực tư nhân trong cung cấp dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và lương hưu người cao tuổi. Xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi. Tăng cường năng lực quốc gia về chăm sóc sức khỏe người cao tuổi thông qua ưu tiên đầu tư phát triển mạng lưới viện lão khoa; từng bước xây dựng và quản lý thống nhất mạng lưới trung tâm điều dưỡng người cao tuổi trên cơ sở nhu cầu thực tế từng địa phương. Ðẩy mạnh hơn nữa tuyên truyền đến mọi công dân cần ý thức giải quyết vấn đề an sinh xã hội, trong đó có bảo hiểm cho tuổi già không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của nhiều đối tác khác, trong đó việc "tự an sinh" là một năng lực cần có. Ðiều đó có nghĩa, bản thân mỗi công dân nên có kế hoạch "bảo đảm tuổi già" ngay từ khi còn trẻ. Ðây thực chất là việc giải quyết sự già hóa dân số một cách chủ động nhất, bởi lo cho mình cũng chính là lo cho gia đình, cho cộng đồng và các thế hệ tương lai.
MAI NGUYÊN