Đặc điểm nào sau đây không thuộc kinh tế thị trường

Văn phòng Hà Nội

  1. Giới thiệu về Văn phòng Hà Nội
  2. Lĩnh vực hoạt động
    1. Lao động trẻ em
    2. Xúc tiến việc làm
    3. Bình đẳng và phân biệt đối xử
    4. Việc làm xanh
    5. Nền kinh tế phi chính thức
    6. Tiêu chuẩn lao động quốc tế
    7. Quản lý thị trường lao động và điều kiện làm việc
    8. Lao động di cư
    9. An toàn và sức khỏe lao động
    10. Kỹ năng và khả năng tìm việc làm
    11. An sinh xã hội
    12. Tổ chức của người lao động và chủ lao động
  3. Việc làm bền vững tại Việt Nam
  4. Công việc của chúng tôi
    1. Dự án
      1. Khung khổ Quan hệ Lao động Mới
        1. Các dự án
        2. Tin tức và Sự kiện
        3. Ấn phẩm
      2. Áp dụng Chiến lược Đào tạo G20: Hợp tác giữa ILO và Liên Bang Nga [Giai đoạn 2]
    2. Sự kiện
    3. Ấn phẩm
  5. Trung tâm thông tin
    1. Thông tin
      1. Tin tức
      2. Bài viết
      3. Bình luận và phân tích
      4. Thông cáo báo chí
      5. Bản tin
      6. Bài phát biểu
      7. Video / audio
    2. Trung tâm thư viện
    3. Links
  1. Văn phòng Hà Nội
  2. Trung tâm thông tin
  3. Thông tin
  4. Bình luận và phân tích
  5. Nền kinh tế mở thay đổi hình thức, phân phối, ...

Tương lai việc làm

Nền kinh tế mở thay đổi hình thức, phân phối, chất lượng việc làm Việt Nam

Phỏng vấn bà Valentina Barcucci, Chuyên gia Kinh tế Lao động, ILO Việt Nam

Bình luận | Ngày 11 tháng 2 năm 2020

Bà Valentina Barcucci, Chuyên gia Kinh tế Lao động tại ILO Việt Nam

Gần đây chủ đề tương lai việc làm thường được nhắc đến. Đây cũng là chủ đề của Diễn đàn Lao động Quốc gia 2019 do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội [LĐTBXH] và Tổ chức Lao động Quốc tế [ILO] tổ chức vào cuối năm ngoái. Vì sao chủ đề này lại nhận được nhiều sự quan tâm, thưa Bà?


Đây là vấn đề được các nước trên toàn thế giới đặc biệt quan tâm và cũng là mối quan tâm hàng đầu của các đối tác của chúng tôi [Chính phủ, tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động] tại Việt Nam.

Chúng ta đang sống trong thời kỳ thanh đổi nhanh chóng khác thường do sự chi phối của nhiều yếu tố như tiến bộ công nghệ và các xu hướng toàn cầu hóa mà toàn cầu đều công nhận. Những yếu tố này sẽ ngày càng gia tăng ảnh hưởng tới các nền kinh tế và thị trường lao động trên toàn thế giới, bao gồm cả Việt Nam và đòi hỏi các thị trường lao động và các thiết chế thị trường lao động cần được nâng cấp. Mặc dù chúng ta không thể dự đoán được tương lai, chúng ta biết rõ một đặc điểm của tương lai này, đó là thay đổi sẽ là một hằng số duy nhất và nó sẽ diễn biến ngày một nhanh hơn. Một ví dụ mà chúng ta thường được nghe nói tới là công nghệ. Dĩ nhiên thay đổi về công nghệ không còn là một điều gì mới mẻ. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là thời gian từ khi một công nghệ mới được phát kiến và thử nghiệm trong phòng thí nghiệm tới khi công nghệ đó được ứng dụng trong nhà máy giờ đây ngắn hơn. Và kể từ khi công nghệ áp dụng trong nhà máy dẫn đến việc thay đổi các dây chuyền và thực tiễn sản xuất cũng như kỹ năng cần có để vận hành sản xuất cũng thay đổi, người ta chú ý nhiều hơn tới việc điều gì sắp diễn ra.

Một câu chuyện tương tự có thể kể đến là hội nhập quốc tế hay toàn cầu hóa. Địa chính trị và các yếu tố khác đang tác động tới xu hướng toàn cầu hóa. Chúng ta thường nghe nói rằng thế giới ngày càng trở nên gắn kết và chắc chắn chúng ta cho rằng Việt Nam cũng có xu hướng này vì Việt Nam ngày càng kết nối hơn, nhưng các xu hướng toàn cầu hóa thực tế phức tạp hơn thế nhiều. Một xu hướng thú vị chúng ta nhận thấy trong suốt năm 2019 là xu hướng toàn cầu hóa chậm lại, đúng như cái cách mà người ta định nghĩa hiện tượng này. Người ta đánh giá địa chính trị là yếu tố then chốt tác động thúc đẩy khu vực hóa [quy mô thương mại khu vực lớn hơn so với thương mại toàn cầu] và công nghệ là một trong những nhân tố tác động tới làn sóng reshoring [quyết định đưa công đoạn sản xuất mà trước đây được di chuyển sang các nước có chi phí thấp hơn về chính quốc]. Những thay đổi này có hàm ý sâu sắc đối với các nền kinh tế và thị trường lao động. Việt Nam được nhìn nhận là một quốc gia có mức độ hội nhập quốc tế nổi bật và tham vọng nhanh chóng trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao và tiếp tục hiện đại hóa kinh tế và xã hội hơn nữa. Do vậy, những xu hướng toàn cầu hóa chung và các quyết định về thương mại của các nền kinh tế lớn có liên hệ mật thiết tới Việt Nam.

Những vấn đề khác như thách thức về môi trường hay di cư cũng là những yếu tố thay đổi chắc chắn sẽ có tác động tới nền kinh tế và thị trường lao động của Việt Nam hiện tại và trong tương lai.

Một câu hỏi khác đặt ra là tại sao chúng ta lại chọn chủ đề của Diễn đàn lao động 2019 là Lựa chọn của Việt Nam.

Chắc chắn người ta sẽ lo ngại về tác động mà các xu hướng hay các vấn đề mà tôi vừa nhắc tới mang lại. Tại sao vậy? Đó là bởi vì như tôi đã nói, thay đổi về công nghệ, toàn cầu hóa và sự hủy hoại môi trường là những yếu tố lớn dẫn đến thay đổi. Đây là những thay đổi mang tính toàn cầu và các quốc gia có thể cảm thấy họ không thể kiểm soát được sự thay đổi này. Tuy nhiên, những thay đổi này sẽ tác động lớn tới từng quốc gia riêng lẻ. Và điều này tạo một tâm lý vô vọng. Tâm lý này cũng có thể thông cảm được nhưng có lẽ là bị đặt nhầm chỗ bởi vì nó xuất phát từ giả định các quốc gia chấp nhận tác động của sự thay đổi toàn cầu một cách thụ động. Nhưng sự thật không phải như vậy.

Cùng với Bộ LĐTBXH và các đối tác xã hội [là tổ chức của người lao động và người sử dụng lao động] tại Việt Nam, chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng Việt Nam vẫn có cơ hội lựa chọn những chính sách có thể định hình tác động của các yếu tố toàn cầu này và có thể tận dụng những cơ hội mà chúng mang lại.
Ví dụ như, Bộ luật Lao động mới được Việt Nam thông qua gần đây đã đánh dấu sự khởi đầu của một chương mới hướng tới tương lai cho thế giới việc làm của Việt Nam. Việt Nam đã lựa chọn nắm bắt các cơ hội mà hội nhập toàn cầu quốc tế mang lại về tiếp cận thị trường bằng cách xây dựng chính sách pháp luật tiệm cận hơn với các Nguyên tắc và Quyền Cơ bản trong Lao động của ILO. Ví dụ có thể kể đến là việc giúp người lao động có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các doanh nghiệp.

Như Bà đã nhận xét, Việt Nam có một nền kinh tế mở đối với thương mại và hội nhập quốc tế. Tác động của nền kinh tế mở đối với việc làm là gì, thưa Bà?


Đúng là, kể từ công cuộc Đổi mới, độ mở đối với thương mại của Việt Nam ngày càng càng tăng đều. Nếu xét đến lĩnh vực thương mại từ góc độ tỷ trọng GDP thì từ năm 1986, chúng ta thấy rằng tỷ trọng này đã và đang tăng trưởng đều, từ mức khoảng 20% tới hơn 180% vào năm 2018. Sự ổn định về xu hướng tăng trưởng cho thấy quyết tâm chính sách mạnh mẽ. Sự mở cửa của Việt Nam và hiệp định thương mại với ASEAN, hiệp định thương mại song phương với Mỹ và việc gia nhập WTO diễn ra trong bối cảnh khả năng cạnh tranh của nền kinh tế của Việt Nam cũng tăng lên điều đó đồng nghĩa với việc xuất khẩu trở nên ngày càng đa dạng và đòi hỏi vốn kiến thức lớn hơn.

Mặc dù thương mại giúp tăng cường mức độ tinh xảo của hàng hóa cũng như mức độ phức tạp của công việc và thúc đẩy tăng trưởng thì tỷ lệ lợi nhuận mà người lao động được hưởng vẫn còn tương đối hạn chế."

Bà Valentina Barcucci, Chuyên gia Kinh tế Lao động tại ILO Việt Nam
Điều này có hàm ý gì đối với thị trường lao động? Trước tiên, điều này nghĩa là phân phối lại việc làm từ các lĩnh vực ít phục vụ xuất khẩu sang các lĩnh vực định hướng xuất khẩu. Đầu những năm 2000, người Việt Nam hầu hết làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Sau đó, khi nền kinh tế của Việt Nam mở cửa thương mại, những lĩnh vực mới liên quan nhiều hơn tới thương mại và xuất khẩu bắt đầu tuyển dụng nhiều lao động hơn trong khi tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng giảm. Dù nông nghiệp vẫn là lĩnh vực xuất khẩu và tiếp tục tăng trưởng trong tổng giá trị xuất khẩu theo thời gian nhưng đã bị thu hẹp về mặt tương đối khi có sự tham gia của các lĩnh vực khác. Năm 2018, số người Việt Nam làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chưa đến 40%.

Thứ hai, một tác động rất quan trọng của thương mại là sự gia tăng mức độ phức tạp về kinh tế của toàn bộ nền kinh tế đồng nghĩa với việc Việt Nam đang tạo ra những việc làm tương đối phức tạp hơn. Nếu nhìn vào mức độ tăng trưởng việc làm trong hai thập kỷ qua, chúng ta thấy rằng trên thực tế, tăng trưởng chủ yếu tập trung ở những việc làm đòi hỏi tay nghề trung bình và một số lượng hạn chế các công việc đòi hỏi tay nghề cao.

Thứ ba, điều đó cũng thể hiện sự chuyển dịch về hình thức và chất lượng việc làm. Năm 2018, 44% lao động Việt Nam là người lao động làm công ăn lương. Tỷ lệ này năm 2009 chỉ là 33%. Mười năm trước đó nữa thì tỷ lệ này chỉ dưới 20%. Đây là mức tăng trưởng rất nhanh và lĩnh vực thương mại chắc chắn đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng này, đó là một kết quả tích cực. Là một người làm công ăn lương, theo đúng tên gọi, thì được hưởng lương, một nguồn thu nhập tương đối đáng tin cậy. Người làm công ăn lương thì cũng được hưởng phúc lợi xã hội, chúng ta gọi đây là việc làm chính thức. Về một phương diện nào đó thì đây là câu chuyện của Việt Nam chúng ta thấy rằng tỷ lệ việc làm phi chính thức đang giảm đi trên toàn thị trường nói chung. Tuy nhiên, ở Việt Nam phần lớn việc làm vẫn là phi chính thức. Khoảng 13 triệu người lao động ở Việt Nam không phải là đối tượng bao phủ của chương trình bảo hiểm xã hội bắt buộc [hay bất cứ chương trình nào thuộc lĩnh vực này], như vậy họ là lao động phi chính thức.

Vì vậy, mặc dù thương mại chắc chắn đã và đang là động lực thúc đẩy một số cải thiện tương đối về chất lượng việc làm của Việt Nam ví dụ như bằng cách hướng tới thúc đẩy chính thức hóa, các chỉ số khác dường như cho thấy thương mại cũng có thể kéo theo điều kiện làm việc khó khăn hơn. Ví dụ, các đánh giá cấp vĩ mô ban đầu của ILO cho thấy các lĩnh vực liên quan nhiều đến thương mại dường như có thời giờ làm việc dài hơn các lĩnh vực phi thương mại. Có thể giải thích rằng đây là một tác động của cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.

Một chỉ số khác mà chúng ta có thể sử dụng để xem xét tác động của thương mại đến chất lượng việc làm là tiền lương. Một đánh giá ban đầu của ILO xem xét tiền lương trong các lĩnh vực liên quan nhiều đến thương mại cho thấy tiền lương trong các lĩnh vực này cao hơn các lĩnh vực phi thương mại [với cùng mức độ kỹ năng yêu cầu]. Tuy nhiên, chúng ta có thể nói rằng mặc dù thương mại giúp tăng cường mức độ tinh xảo của hàng hóa cũng như mức độ phức tạp của công việc và thúc đẩy tăng trưởng thì tỷ lệ lợi nhuận mà người lao động được hưởng vẫn còn tương đối hạn chế. Tỷ trọng GDP khi chia đến tay người lao động Việt Nam dưới hình thức tiền lương và các chế độ bảo trợ xã hội đang giảm dần. Nói cách khác là tiền lương của người lao động trong các lĩnh vực liên quan nhiều đến thương mại có tăng lên, nhưng mức tăng đó so với những gì họ đóng góp vào thịnh vượng kinh tế tổng thể thì ngày càng thấp hơn.

Vậy thì ý nghĩa của tất cả những điều này là gì? Điều này có nghĩa là thương mại có tác động mạnh mẽ và tác động đó có thể được lượng hóa, đối với thị trường lao động Việt Nam. Thương mại thực sự định hình các ngành nghề và loại hình việc làm. Thương mại mang lại ích lợi đáng kể về chất lượng việc làm. Thế nhưng thương mại cũng dẫn đến những thách thức chẳng hạn như việc làm thế nào đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc tế mà người lao động đang phải đối diện ở những mức độ khác nhau. Chính phủ Việt Nam đang hoạt động trên nhiều mặt trận [bảo trợ xã hội, phát triển kỹ năng, việc làm và dĩ nhiên là cả việc Việt Nam mới đây đã thông qua Bộ luật Lao động mới] có thể chi phối tác động của thương mại đối với người lao động Việt Nam bằng cách tăng cường phân phối lại cơ cấu lực lượng lao động, trang bị cho lực lượng lao động những kỹ năng tốt hơn, cho phép người lao động có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các doanh nghiệp. Đây chính là minh chứng về việc mặc dù thương mại là một yếu tố toàn cầu và mạnh mẽ, cách thức Việt Nam tham gia vào lĩnh vực thương mại thế nào và tác động của nó tới người lao động ra sao là lựa chọn của Việt Nam.

Chúng ta thường nghe thấy rằng thị trường lao động Việt Nam thiếu kỹ năng cần thiết, rằng Việt Nam cần thêm nhiều nhân lực kỹ năng cao nếu chúng ta muốn phát triển hơn nữa và trở thành một quốc gia có thu nhập trung bình cao. Điều này có đúng không, thưa Bà?


Khái niệm kỹ năng cần thiết là vấn đề của cung và cầu và liệu cung và cầu có phù hợp hay không.

Việc làm có mức độ phức tạp nhất định. Những công việc như nhà quản lý hay chuyên gia [bao gồm bác sỹ, kỹ sư] liên quan tới việc sản sinh kiến thức và áp dụng kiến thức. Họ cần phải có vốn kiến thức lớn để đảm nhiệm công việc. Chúng ta gọi đây là những việc làm chuyên môn cao. Ngược lại chúng ta cũng có những việc làm đòi hỏi tay nghề thấp chỉ yêu cầu trình độ học vấn cơ bản là có thể đảm nhiệm được công việc. Một nền kinh tế lúc nào cũng bao gồm các công việc chuyên môn cao, chuyên môn tay nghề trung bình và tay nghề thấp và mỗi cấp độ chuyên môn tay nghề đều cần thiết. Những nền kinh tế tiên tiến hay nền kinh tế tri thức thường có tỷ trọng việc làm đòi hỏi chuyên môn tay nghề cao lớn hơn so với những nền kinh tế mà công nghiệp hóa còn hạn chế. Chúng ta gọi đây là khía cạnh cầu về kỹ năng.

Tiếp đến là khía cạnh cung. Cung là người lao động được trang bị kiến thức và kỹ năng. Chúng ta đánh giá cấp độ kiến thức và kỹ năng của người lao động bằng cách nào? Có một cách là nhìn vào trình độ học vấn cao nhất mà người lao động đạt được, cách làm này giúp chúng ta biết được cấp độ kiến thức và kỹ năng của họ.

Ngày nay cung không phải lúc nào cũng gặp cầu. Nói cách khác, thực tế một công việc đòi hỏi lượng kiến thức và kỹ năng nhất định không thể hiện rằng người đảm nhận công việc đó đạt tới cấp độ kiến thức và kỹ năng đó. Chẳng hạn như một doanh nghiệp có một số vị trí vận hành máy móc đòi hỏi trình độ giáo dục nghề nghiệp cấp trung học hay trên trung học. Giả sử quản lý doanh nghiệp không tìm được người lao động có trình độ phù hợp. Trong trường hợp đó, nhà quản lý có thể quyết định thuê lao động có trình độ thấp hơn như có trình độ văn hóa phổ thông nhưng không được đào tạo nghề. Vấn đề ở đây là trình độ không phù hợp, nghĩa là trình độ của người lao động không đáp ứng được cấp độ mà việc làm đòi hỏi. Dù thế nào thì người lao động vẫn đảm nhiệm công việc đó nhưng có thể hiệu suất kém hơn, mức độ hiệu quả thấp hơn người có trình độ phù hợp.

Vì sao điều này đúng trong trường hợp của Việt Nam?


Thứ nhất, cầu về kỹ năng ở Việt Nam là gì? Hơn nửa số việc làm của Việt Nam đòi hỏi kỹ năng trung bình [nếu đánh giá dựa trên tiêu chuẩn phân loại nghề nghiệp ISCO-08]. Khoảng 36% việc làm đòi hỏi tay nghề thấp và 12% đòi hỏi chuyên môn cao. Tính trung bình, một quốc gia có thu nhập trung bình thấp [quốc gia ở mức độ trung bình có cùng mức thu nhập như Việt Nam] có tỷ trọng việc làm tay nghề thấp lớn hơn Việt Nam và có tỷ trọng việc làm đòi hỏi kỹ năng trung bình thấp hơn. Có thể nói rằng đây là điều tốt, bởi việc làm tay nghề thấp thường đi kèm với các chỉ số chất lượng việc làm kém hơn. Ở Việt Nam, tỷ trọng việc làm kỹ năng trung bình là cao nhất, còn tỷ trọng việc làm chuyên môn cao ở mức khá thấp.

Tuy nhiên, Việt Nam không muốn tiếp tục duy trì mức thu nhập hiện tại. Mục tiêu Việt Nam đặt ra là trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Hiện nay, vấn đề là các nước thu nhập trung bình cao tính trung bình đều có tỷ trọng việc làm chuyên môn cao ở mức gần gấp đôi Việt Nam. Tất nhiên đây là tỷ trọng trung bình và nếu chúng ta xét đến từng nước cụ thể, chúng ta có thể thấy sự khác biệt giữa các nước đó. Nhưng điều đáng lưu ý ở đây là tỷ trọng việc làm chuyên môn cao ở Việt Nam còn thấp so với tỷ trọng trung bình các nước thu nhập trung bình thấp. Tóm lại, khi nói đến nghề nghiệp thì Việt Nam được đánh giá là có tỷ trọng khá lớn loại trung bình và một số lượng nhỏ loại chuyên môn cao.

Vậy người lao động có kiến thức, kỹ năng và trình độ học vấn đáp ứng nhu cầu hay không? Cần nhớ chúng ta vừa nói rằng thực tế Việt Nam có số lượng việc làm đòi hỏi tay nghề trung bình tương đối lớn. Thực tế là hơn nửa số lao động đang đảm nhiệm các công việc đòi hỏi tay nghề trung bình không đáp ứng được yêu cầu về trình độ. Họ có trình độ chuyên môn thấp hơn. Điều đó có nghĩa là ví dụ tôi nêu ở trên [nhà quản lý thuê người vận hành máy móc chỉ có trình độ học vấn cơ bản] là tình huống thường xuyên xảy ra. Đa phần các trường hợp là như vậy.

Với những việc làm đòi hỏi chuyên môn tay nghề cao thì việc cung không gặp cầu ít xảy ra hơn. Đa phần người lao động đang đảm nhiệm các công việc chuyên môn tay nghề cao [nhà quản lý, chuyên gia, kỹ thuật viên] đều có trình độ học vấn phù hợp.

Tóm lại, chúng ta thấy có sự bất tương quan giữa cấp độ kỹ năng mà công việc nhất định đòi hỏi với trình độ học vấn của người lao động đang đảm nhận công việc đó. Hiện tượng này khá rõ ràng ở các công việc đòi hỏi tay nghề trung bình, đại diện cho hơn một nửa tổng số việc làm của Việt Nam. Hiện tại, vấn đề ít xảy ra đối với việc làm chuyên môn tay nghề cao. Tuy nhiên, khi nên kinh tế tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm đòi hỏi tay nghề trung bình và chuyên môn tay nghề cao thì điều này có thể thay đổi và sự bất tương quan có thể sẽ gia tăng.

Tôi không nói rằng điều này là không tốt nhưng có khoảng cách về cơ cấu giữa tốc độ nhu cầu của thị trường lao động và tốc độ của giáo dục đào tạo. Nhu cầu về kỹ năng mới xuất hiện rất nhanh trên thị trường lao động và nghề nghiệp mới [dù có được chuẩn hóa hay không] vẫn đang được tạo ra. Cần có thời gian để hệ thống giáo dục có thể đưa ra biện pháp ứng phó với tình huống này.

Chúng ta hay nói rằng phụ nữ Việt Nam phải gánh nhiều gánh nặng cùng một lúc, đó là thiệt thòi của người phụ nữ khi tham gia thị trường lao động. Ý kiến của Bà về điều này thế nào?


Tôi khá đồng tình với nhận định này. Gánh nặng mà người phụ nữ phải gánh vác bao gồm trách nhiệm với công việc và trách nhiệm với gia đình. Trong công việc, phụ nữ Việt Nam thuộc nhóm năng động nhất trên thế giới. Năng động trong ngữ cảnh này nghĩa là tham gia thị trường lao động bao gồm cả việc được tuyển dụng hay chủ động tìm kiếm việc làm. Trên toàn cầu, 47,9% phụ nữ trong độ tuổi lao động tham gia thị trường lao động, thấp hơn con số này ở nam giới gần ba mươi điểm phần trăm [74,9%]. Bức tranh của Việt Nam lại hoàn toàn khác biệt. Trong quý đầu năm 2019, 71,1% phụ nữ trong độ tuổi lao động tham gia thị trường lao động. Chênh lệch với tỷ lệ này của nam giới [82,4%] chỉ là 11,3 điểm phần trăm.

Ở nhà, họ cũng đặc biệt năng động và gánh vác phần lớn trách nhiệm trong gia đình. Kể từ năm nay chúng ta có thể đo lường được chỉ số này. Điều tra lao động việc làm của Việt Nam đã đưa vào bảng hỏi những câu hỏi về việc phụ nữ và nam giới sử dụng thời gian của họ như thế nào. Thay đổi này giúp cho cuộc điều tra lao động việc làm của Việt Nam phù hợp với một số các tiêu chuẩn quốc tế mới nhất. Chẳng hạn như những kết quả ban đầu sử dụng phương pháp này ở Việt Nam cho thấy trong đầu năm 2019, phụ nữ dành 11 giờ một tuần để nấu nướng trong khi nam giới chỉ dành 0,7 giờ cho việc này. Phụ nữ đi làm dành gần 39 giờ một tuần cho công việc, cộng thêm 23,5 giờ làm việc nhà. Nam giới làm việc 40 giờ một tuần nhưng chưa đến 11 giờ làm việc nhà. Đây là cách lượng hóa trách nhiệm gấp đôi mà phụ nữ Việt Nam phải gánh vác.

Theo kinh nghiệm của tôi, hiện có quá nhiều các cuộc thảo luận ở cấp quốc gia về bất bình đẳng giới vẫn mô tả phụ nữ là nhóm đối tượng cần được bảo vệ thay vì là được trao quyền."

Bà Valentina Barcucci, Chuyên gia Kinh tế Lao động tại ILO Việt Nam
Tôi thấy tình trạng này có một số vấn đề. Thứ nhất, phụ nữ hầu như cũng có khả năng tham gia thị trường lao động như nam giới hay thời gian làm việc của họ cũng tương đương với nam giới, nhưng phụ nữ ở Việt Nam lại không được hưởng các cơ hội bình đẳng. Chất lượng việc làm mà phụ nữ hiện đảm nhận minh chứng cho nhận định này. Tỷ lệ phụ nữ đóng vai trò lao động gia đình chiếm gần 65% mà đây là loại hình việc làm được coi là dễ bị tổn thương nhất. Lao động thuộc loại hình này đóng góp vào các hoạt động tạo thu nhập của hộ gia đình được định nghĩa là lao động phi chính thức và thường không được trả lương. Điều này cũng phần nào dẫn tới việc phụ nữ phải gánh vác trách nhiệm gấp đôi. Phụ nữ khó có thể vừa phải nuôi dạy con, gánh vác phần lớn trách nhiệm chăm sóc gia đình, lại vừa theo đuổi sự nghiệp hay dành thời gian bồi dưỡng kỹ năng. Chế độ hỗ trợ thai sản với vai trò đảm bảo vai trò sinh sản của phụ nữ không đồng nghĩa với việc mang lại cơ hội bình đẳng cho họ, mà cũng không phải ai cũng được hưởng chế độ này. Những phụ nữ thuộc đối tượng được tham gia chương trình bảo hiểm xã hội theo luật định được hưởng chế độ hỗ trợ thai sản khá tốt. Ngược lại, phụ nữ không thuộc đối tượng được bảo vệ bởi chương trình bắt buộc bao gồm cả người lao động phi chính thức thì không được hưởng chế độ hỗ trợ thai sản.

Thực tế là phụ nữ phải phân chia sức lực cũng như thời gian giữa công việc và gia đình có lẽ là lý do họ không tham gia các vị trí công việc có chức năng ra quyết định. Ví dụ như, tỷ lệ phụ nữ đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chính trị từ trung ương đến địa phương trong 30 năm qua chỉ tăng rất chậm, tới nay mới đạt mức khoảng một phần tư. Có thể nói rằng, sự mất cân đối về tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan nhà nước then chốt có thể ảnh hưởng tới khả năng Chính phủ Việt Nam thực sự hoạch định được các chính sách đáp ứng giới. Các doanh nghiệp cũng không nằm ngoài xu hướng này. Tỷ lệ phụ nữ ở các vị trí quản lý năm 2018 là 27,8% bao gồm các vị trí từ quản lý cấp trung đến cấp cao. Nếu chỉ nhìn vào các vị trí hàng đầu thì tỷ lệ này là rất nhỏ.

Theo kinh nghiệm của tôi, hiện có quá nhiều các cuộc thảo luận ở cấp quốc gia về bất bình đẳng giới vẫn mô tả phụ nữ là nhóm đối tượng cần được bảo vệ thay vì là được trao quyền. Bộ Luật Lao động mới đã có những bước đi đúng hướng. Bộ Luật Lao động đã bỏ các điều khoản ngăn cản phụ nữ tham gia một số công việc nhất định và đã có những sắp xếp để dần dần thu hẹp khoảng cách tuổi nghỉ hưu giữa phụ nữ và nam giới mặc dù không hoàn toàn xóa bỏ khoảng cách này. Thái độ bảo vệ này thể hiện sự nhạy cảm giới và cần thiết, xét đến những trách nhiệm gấp đôi mà phụ nữ phải gánh vác. Tuy vậy, còn quá ít hành động được thực hiện nhằm giảm gánh nặng cho phụ nữ ngay từ đầu để đảm bảo rằng khoảng thời gian 35 giờ mỗi tuần cần dành để làm việc nhà được chia đều giữa phụ nữ và nam giới, và loại bỏ tư tưởng phụ nữ được sinh ra với thiên chức chăm sóc gia đình. Đây là tư tưởng lỗi thời đối với một quốc gia ngày càng tham gia nhiều hơn vào quá trình hiện đại hóa kinh tế xã hội và việc đầu tư trọn vẹn vào công tác đánh giá tương lai việc làm sẽ mang lại tiến bộ bao trùm và bền vững.

Theo Bà, đâu là ưu tiên các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần chú trọng trong năm 2020 để tạo nên một tương lai việc làm tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người?

Theo tôi đánh giá thì ưu tiên của Chính phủ trong lĩnh vực việc làm và lao động đã khá rõ ràng. Bế mạc Diễn đàn Lao động của Việt Nam về Tương lai Việc làm, Bộ LĐTBXH đã nêu rõ phát triển kỹ năng, quan hệ lao động và bảo trợ xã hội là ba lĩnh vực ưu tiên về chính sách cho tương lai gần. Việt Nam cũng đang theo đuổi một đề án quan trọng nhằm phê chuẩn công ước số 105 của ILO về Xóa bỏ Lao động Cưỡng bức vào năm 2020. Trong số những ưu tiên này, Bộ Luật Lao động được thông qua tháng 11 vừa rồi đã đưa ra nhiều thay đổi và tiến bộ đòi hỏi công tác làm chính sách năm 2020 phải làm thế nào để các quy định của Bộ Luật Lao động được triển khai, nghĩa là mang tính ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày của người lao động. Vậy nên năm 2020 sẽ là một năm thực sự bận rộn đối với các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam!

Tuy nhiên, chỉ có cam kết của Chính phủ và các nhà lập pháp thì chưa đủ để đảm bảo các chính sách mới được chuyển tải thành một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi phụ nữ và nam giới ở Việt Nam. Đại diện của người sử dụng lao động và người lao động đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến những chính sách đó bởi chức năng của họ gần gũi với nơi làm việc thực tế. Ví thử như vấn đề thúc đẩy bình đẳng giới chẳng hạn. Việt Nam có thể ban hành một nghị định về vấn đề này và thực thi nghị định đó. Tuy nhiên, việc thay đổi hoàn toàn tư duy tại nơi làm việc, sự thay đổi trong quan niệm truyền thống cho rằng lãnh đạo phải là nam giới, phụ nữ làm lãnh đạo chỉ là trường hợp ngoại lệ chỉ có thể thay đổi nếu các tổ chức của người sử dụng lao động và người lao động ủng hộ và đón nhận thay đổi này. Bản thân họ cần trở thành tấm gương và đảm bảo thành viên của mình sẽ thay đổi về tư duy từ lối nghĩ phụ nữ cần phải được bảo vệ hướng đến tư duy đảm bảo họ có cơ hội bình đẳng và có sức mạnh để tự quyết định lựa chọn cho bản thân và dẫn dắt các phụ nữ khác. Thêm vào đó, thay đổi chỉ có thể diễn ra nếu các cá nhân tại nơi làm việc mong muốn, tự đặt ra mục tiêu này và thúc đẩy thay đổi mỗi ngày trong những lựa chọn dù lớn dù nhỏ mà họ đưa ra.

Tương tự với nhiều các lĩnh vực khác đóng vai trò then chốt đối với sự phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam.

Không phải tự nhiên mà tôi lựa chọn đưa ra ví dụ về bình đẳng giới. Đây là lĩnh vực mà tôi nhận thấy sẽ có nhiều cơ hội cho Việt Nam. Hiện nay có rất nhiều chỉ số về bình đẳng giới, như đã đề cập ở trên, chỉ ra sự bất bình đẳng giới còn tồn tại đáng kể trong thế giới việc làm của Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng phụ nữ tham gia vào thị trường lao động của Việt Nam thực sự nổi bật. Nếu Việt Nam quyết tâm giải quyết vấn đề bất bình đẳng về cơ hội giữa phụ nữ và nam giới, Việt Nam hoàn toàn có khả năng tạo dựng một mô hình đặc thù cho riêng Việt Nam về bình đẳng giới dựa trên mức độ tham gia của phụ nữ vào các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, còn rất nhiều việc phải làm để xóa bỏ tư duy của con người [nam giới và nữ giới] về sự phân công vai trò truyền thống cho rằng thiên chức của phụ nữ là chăm sóc gia đình. Như tôi đã nói, điều này không phù hợp với một xã hội hiện đại mà Việt Nam hướng đến và nghiên cứu cho thấy đó là cả một sự lãng phí về tài năng và tiến bộ xã hội tiềm tàng mà phụ nữ có thể mang lại.

Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về thị trường lao động Việt Nam, muốn thử tìm hiểu những vấn đề ưu tiên là gì, hãy tìm đọc ấn phẩm mới của chúng tôi Việc làm Thỏa đáng và các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Việt Nam. Bạn có thể tìm đọc ấn phẩm này trên trang web của ILO Việt Nam. Nếu bạn có các câu hỏi như tỷ lệ lao động Việt Nam là bao nhiêu? Số lượng người thất nghiệp ở Việt Nam? Các loại hình công việc là gì? Bao nhiêu người hiện đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp hay bao nhiêu tham gia lĩnh vực sản xuất? Chất lượng việc làm ở Việt Nam hiện nay thế nào? Nhưng quan trọng nhất là nếu bạn quan tâm xem có gì mới trên thị trường lao động, điều gì đang thay đổi, hãy tìm đọc ấn phẩm này. Chìa khóa để nắm bắt được tương lai việc làm có thể ở khía cạnh nào đó bắt nguồn từ quá khứ và từ những xu hướng tạo nên đặc tính của thế giới việc làm của Việt Nam cho đến nay.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời Chúc mừng năm mới tới đất nước Việt Nam!

Khu vực và Quốc gia: Việt Nam

Công cụ

Nội dung này được thể hiện bằng

  • English
  • A
  • A+
  • A++
In
Chia sẻ nội dung này
in

Bài viếtViệt Nam cần lực lượng lao động có kỹ năng tốt hơn để nâng tầm phát triển kinh tế

Kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

[ĐCSVN] Nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế quá độ, luôn vận động, phát triển theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...

Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn tồn tại khách quan cả chế độ sở hữu tư nhân [chế độ tư hữu] với nhiều hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản [sở hữu tư nhân tư bản], của tập đoàn tư bản và cả chế độ sở hữu xã hội [chế độ công hữu] với các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, đồng thời còn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế.

Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba thành phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:

Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí, vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước [được Nhân dân ủy quyền]. Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đầu tư vốn [cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền] cho các doanh nghiệp nhà nước [DNNN] thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường. Các DNNN tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của DNNN. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của DNNN, mà Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt hàng cho DNNN sản xuất những hàng hóa có vai trò quan trọng đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng quân sự, quốc phòng. Nhà nước chỉ đóng vai trò là "nhạc trưởng", "bà đỡ", quản lý vĩ mô nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả DNNN. DNNN phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất - kinh doanh của mình... Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...

Thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể [hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...], chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản [tư bản trong nước và tư bản ngoài nước], tập đoàn tư bản. "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế..."[1]. Hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến của thế giới. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa[2]. Ngày nay, phân công lao động đã phát triển theo chi tiết sản phẩm, do đó doanh nghiệp không cần quy mô lớn vẫn có thể áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng thời, với công nghệ kỹ thuật số, mạng Internet, máy tính điện tử, robot, trí tuệ nhân tạo... có thể kết nối để tạo thành sự hợp tác ở quy mô lớn trong việc sản xuất sản phẩm, mà không cần tập trung đông lao động vào một địa điểm.

Thành phần kinh tế hỗn hợp [một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước theo cách gọi của V.I.Lênin] bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong nước; giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh thường là công ty liên doanh, công ty hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại hình hợp tác xã... Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế đa sở hữu có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Điểm chung của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản hữu hình và vô hình của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi công ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động có hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp. Ngoài tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, còn có các tài sản từ các nguồn khác [được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh doanh tích lũy lại...] thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động và bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể và đóng góp vào lợi ích chung. Có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý sản xuất - kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy mô nhỏ. Xếp các loại hình hợp tác xã cũng thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp vì các hợp tác xã cũng dựa trên sự đóng góp tài sản, vốn của các chủ sở hữu tư nhân, của những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hoạt động như các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp. V.I.Lênin coi hợp tác xã của những công nhân văn minh là hợp tác xã XHCN [ở nước ta chưa có loại hình hợp tác xã này], còn hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là một loại hình kinh tế hỗn hợp...

Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài sản hữu hình và vô hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. . "Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật"[3] . Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.

Toàn bộ tài sản quốc gia [như đất đai và các tài nguyên gắn với đất đai, vùng biển, đảo và các tài nguyên gắn với vùng biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn với vùng trời, ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động được, các loại quỹ dự trữ...] thuộc về sở hữu toàn dân thì không thuộc thành phần kinh tế nào cả. Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, cho Nhà nước thống nhất quản lý bằng pháp luật và có trách nhiệm sử dụng hiệu quả toàn bộ tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân nhằm tạo ra những điều kiện mang tính chất nền tảng, điều kiện vật chất - kỹ thuật, điều kiện tài chính, xây dựng và phát triển kết cấu kinh tế-xã hội... chung cho sự phát triển bình đẳng của các thành phần kinh tế và cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước không thuộc thành phần kinh tế nào cả. Các tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân này, nếu các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế muốn sử dụng thì phải thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, thông qua hợp đồng với cơ quan quản lý nhà nước một cách công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước được Nhân dân ủy quyền để thực hiện vai trò "người nhạc trưởng", vai trò "bà đỡ" cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước là tạo môi trường pháp lý, tạo môi trường kinh tế, tạo môi trường xã hội, cung cấp các dịch vụ công, hàng hóa công, tạo "sân chơi" bình đẳng để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà nước không "thiên vị", không "nghiêng" về thành phần kinh tế nào cả. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế; sử dụng các công cụ, chính sách, nguồn lực của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế Nhà nước tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh, thông thoáng, theo cơ chế thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và vì vậy, mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho các chủ sở hữu của mình, mà còn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và thực hiện trách nhiệm xã hội. Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên CNXH. Nhà nước với vai trò chủ thể có trách nhiệm tạo tất cả những điều kiện nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, Nhà nước giữ vị trí quyết định, vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Các thành phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế có quan hệ tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành phần kinh tế đều có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau và gần tương đương nhau; nhưng thành phần kinh tế công với các DNNN "tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tư"[4] , thì thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh tế công cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Phần kiến nghị trên được luận chứng dựa trên những cơ sở sau:

Về thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Trong thời kỳ quá độ lên CNXH: sự tồn tại của nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thuật ngữ "thành phần kinh tế". Có ý kiến muốn thay thuật ngữ "thành phần kinh tế" bằng "khu vực kinh tế" hay "loại hình kinh tế". Có ý kiến cho rằng: không dùng các thuật ngữ trên, mà gọi trực tiếp tên của mỗi bộ phận của nền kinh tế là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân... Điều quan trọng không phải là tên gọi, mà cần quan tâm xem mỗi bộ phận và mối quan hệ giữa các bộ phận của nền kinh tế quốc dân vận động, phát triển và đóng góp như thế nào vào sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có việc giải phóng, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội cho sự phát triển chung của đất nước.

"Thành phần" ở đây xét về góc độ nào đó cũng được hiểu như là "bộ phận", "thành phần" và "bộ phận" về mặt nào đó có ý nghĩa tương đồng. Thuật ngữ "thành phần kinh tế" được dùng nhiều từ khi V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích [Nga] chủ trương và thực hiện Chính sách kinh tế mới [NEP] ở nước Nga Xôviết. V.I.Lênin viết: "Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu kinh tế - xã hội khác nhau hiện có ở Nga, chính là như thế nào. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó[5].

Theo Lênin, thuật ngữ thành phần kinh tế hàm nghĩa quan hệ sản xuất [trong đó cơ bản là quan hệ sở hữu] ứng với một trình độ phát triển lực lượng sản xuất nhất định đại diện cho một phương thức sản xuất đã lỗi thời, nhưng chưa bị xóa bỏ, hoặc đang trong quá trình phát triển để trở thành phương thức sản xuất thống trị [với nghĩa phổ biến]. Việc xác định thành phần kinh tế là để có chính sách đúng đắn đối với chúng.

Trong thời kỳ quá độ, do trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, nên còn nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Vì vậy còn nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Việc phân định các thành phần kinh tế mới hiểu được các đặc trưng cơ bản và xu hướng vận động của chúng để có chính sách phù hợp nhằm phát huy được tiềm lực của chúng vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Khi phân định thành phần kinh tế V.I.Lênin nhấn mạnh hai điểm: phải phản ánh đúng tình hình thực tế và nêu rõ mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế.

Tiêu thức chủ yếu làm cơ sở cho việc phân định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là:

- Quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu phải phù hợp, gắn với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Mỗi hình thức sở hữu, mỗi thành phần kinh tế phản ánh một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.

- Cơ cấu các thành phần kinh tế phải phản ánh đúng tình hình thực tế của nền kinh tế trong mỗi giai đoạn lịch sử - cụ thể.

- Sự phát triển của các thành phần kinh tế có mối liên hệ tất yếu khách quan theo một quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển lực lượng sản xuất từ thấp lên cao và theo định hướng XHCN.

Khi xác định các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta cần phải xét tới "tính tương đương", "đồng đẳng" giữa các thành phần kinh tế thì mới phù hợp với chủ trương: "các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh"[6] . Như vậy, phải coi các thành phần kinh tế là những bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân thống nhất đều có vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và có quan hệ tương hỗ với nhau, bình đẳng với nhau, không nên đặt cho một bộ phận này có vai trò quan trọng hơn bộ phận khác. Với ý nghĩa đó, cần phân chia "thành phần kinh tế nhà nước" hiện nay thành hai cấu phần: phi doanh nghiệp và doanh nghiệp. Phần phi doanh nghiệp bao gồm toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân mà Nhà nước được nhân dân giao quyền đại diện chủ sở hữu thì không thuộc thành phần kinh tế nào cả. Toàn bộ tài sản quốc gia thuộc về sở hữu toàn dân này thì Nhân dân giao quyền, ủy quyền cho Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước quản lý bằng pháp luật và sử dụng hiệu quả nhằm tạo ra những điều kiện vật chất - kỹ thuật, điều kiện tài chính..., tạo ra môi trường kinh tế - xã hội chung để các thành phần kinh tế đều phát triển bình đẳng. Nhà nước không thuộc thành phần kinh tế nào cả, Nhà nước được Nhân dân ủy quyền, giao quyền thống nhất quản lý, sử dụng có hiệu quả các tài sản thuộc sở hữu toàn dân [như đất đai và các tài nguyên gắn với đất đai, vùng biển, đảo và các tài nguyên gắn với vùng biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn với vùng trời, ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động được, các loại quỹ dự trữ...]. Các tài sản thuộc sở hữu toàn dân này, nếu các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế muốn sử dụng thì phải thực hiện theo cơ chế thị trường thông qua đấu giá, thông qua hợp đồng với cơ quan quản lý nhà nước một cách công khai, minh bạch, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước thay mặt Nhân dân quản lý, sử dụng những tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tạo ra những điều kiện mang tính chất nền tảng cho sự phát triển của các thành phần kinh tế và cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật cho nền kinh tế để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà nước được Nhân dân ủy quyền để thực hiện vai trò "người nhạc trưởng", vai trò "bà đỡ" cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò kinh tế của Nhà nước là tạo môi trường pháp lý, tạo môi trường kinh tế, tạo môi trường xã hội, cung cấp các dịch vụ công, hàng hóa công, tạo "sân chơi" bình đẳng để các thành phần kinh tế phát triển. Nhà nước không "thiên vị", không "nghiêng" về thành phần kinh tế nào cả. Nhà nước với vai trò chủ thể có trách nhiệm tạo tất cả những điều kiện nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cho sự phát triển của các thành phần kinh tế giữ vai trò quyết định, vai trò chủ đạo trong phát triển hệ thống kinh tế quốc dân. Như vậy "thành phần kinh tế nhà nước" chỉ còn lại phần doanh nghiệp nhà nước. Có thể giữ nguyên tên là thành phần kinh tế nhà nước, nhưng chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, hay để cho không lầm lẫn với thành phần kinh tế nhà nước theo quan niệm hiện nay [bao gồm cả hai cấu phần phi doanh nghiệp và doanh nghiệp], thì có thể gọi là thành phần kinh tế công [chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà nước]. Thành phần kinh tế công này mới "tương đương", mới "đồng đẳng" với các thành phần kinh tế khác. Đối tượng sở hữu của các thành phần kinh tế chỉ bao hàm các tài sản hữu hình và vô hình đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau và mang lại lợi ích kinh tế cho các chủ sở hữu, đồng thời góp phần vào lợi ích chung. Có như vậy thì thành phần kinh tế công mới thực sự bình đẳng, tương đồng với các thành phần kinh tế khác. "Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật"[7] . Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế.

Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam còn tồn tại cả chế độ sở hữu tư nhân [chế độ tư hữu], cả chế độ sở hữu xã hội [chế độ công hữu] và hình thức sở hữu hỗn hợp, thì nên phân chia nền kinh tế nước ta thành ba thành phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:

Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí, vai trò then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước [được Nhân dân ủy quyền]. Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đầu tư vốn [cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền] cho các doanh nghiệp nhà nước [DNNN] thông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo DNNN được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường. Các DNNN tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của DNNN. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của DNNN, mà Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt hàng cho DNNN sản xuất những hàng hóa có vai trò quan trọng đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng quân sự, quốc phòng. Nhà nước chỉ đóng vai trò là "nhạc trưởng", "bà đỡ", quản lý vĩ mô nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả DNNN. DNNN phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất - kinh doanh của mình... Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp...

Thành phần kinh tế tư nhân[8] là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư nhân, các nhà tư bản, các tập đoàn tư bản... với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể [hộ nông dân, hộ tiểu - thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ...], chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản [tư bản trong nước và tư bản ngoài nước], tập đoàn tư bản. "Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế..."[9]. Hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có công nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến của thế giới. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa[10]. Ngày nay, phân công lao động đã phát triển theo chi tiết sản phẩm, do đó doanh nghiệp không cần quy mô lớn vẫn có thể áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Đồng thời, với công nghệ kỹ thuật số, mạng Internet, máy tính điện tử, robot, trí tuệ nhân tạo... có thể kết nối để tạo thành sự hợp tác ở quy mô lớn trong việc sản xuất sản phẩm, mà không cần tập trung đông lao động vào một địa điểm. Những thay đổi đó làm cho tính tất yếu chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu xã hội để đáp ứng nhu cầu quản lý và sử dụng tư liệu sản xuất có tính xã hội đã trở nên yếu đi, không còn thực sự cấp bách. Nói cách khác, có thể có nhiều cách hợp tác sản xuất giữa những con người với nhau trong xã hội mà không cần sở hữu chung với vai trò trung gian của Nhà nước. Ngoài ra, việc sở hữu chung dưới hình thái sở hữu nhà nước khi nguồn lực và của cải còn khan hiếm so với nhu cầu sẽ có thể dẫn tới sử dụng tài sản chung một cách lãng phí hoặc bị công chức nhà nước lạm dụng, tham nhũng vì lợi ích riêng của họ.

Thành phần kinh tế hỗn hợp [một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước theo cách gọi của V.I.Lênin] bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong nước; giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài... để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh thường là công ty liên doanh, công ty hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại hình hợp tác xã... Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế đa sở hữu có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu. Điểm chung của các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản hữu hình và vô hình của các tổ chức sản xuất - kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi công ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động có hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp. Ngoài tài sản đóng góp từ các chủ sở hữu, còn có các tài sản từ các nguồn khác [được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất - kinh doanh tích lũy lại...] thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động và bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất - kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể và đóng góp vào lợi ích chung. Có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý sản xuất - kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất - kinh doanh. Loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy mô nhỏ. Xếp các loại hình hợp tác xã cũng thuộc thành phần kinh tế hỗn hợp vì các hợp tác xã cũng dựa trên sự đóng góp tài sản, vốn của các chủ sở hữu tư nhân, của những người sản xuất hàng hóa nhỏ và hoạt động như các tổ chức sản xuất - kinh doanh hỗn hợp. V.I.Lênin coi hợp tác xã của những công nhân văn minh là hợp tác xã XHCN [ở nước ta chưa có loại hình hợp tác xã này], còn hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ vẫn tôn trọng sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ nghĩa tư bản nhà nước, là một loại hình kinh tế hỗn hợp.

Với cách tiếp cận và xác định thành phần kinh tế như trên, thì các thành phần kinh tế là các bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân thống nhất đều bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật. Giữa các thành phần kinh tế có quan hệ tương hỗ với nhau, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các thành phần kinh tế đều vận động, phát triển trên nền tảng chung là các nguồn lực [đất đai, vùng biển, đảo, vùng trời và các tài nguyên gắn với chúng; ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác mà Nhà nước huy động được, các quỹ dự trữ; các nguồn lực trí tuệ...] thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước được Nhân dân ủy quyền đại diện chủ sở hữu, quản lý, sử dụng hiệu quả vì mục tiêu phát triển đất nước. Muốn sử dụng các nguồn lực chung đó các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải thông qua đấu giá công khai, minh bạch, hoặc thông qua các hợp đồng kinh tế với Nhà nước theo cơ chế thị trường. Đồng thời, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cũng được sử dụng các cơ sở kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội do Nhà nước sử dụng nguồn lực chung thuộc sở hữu toàn dân, xây dựng để phục vụ chung cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được sử dụng thị trường chung, đồng tiền chung, các dịch vụ công... của Nhà nước. Nhà nước tạo lập môi trường bình đẳng, minh bạch, thông thoáng, theo cơ chế thị trường để các thành phần kinh tế cùng huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Và vì vậy, mà các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế không chỉ mang lại lợi ích cho các chủ sở hữu của mình, mà còn phải đóng góp vào lợi ích chung của đất nước và thực hiện trách nhiệm xã hội. Việc tiếp cận và xác định các thành phần kinh tế như trên cũng cho thấy vị trí, vai trò các thành phần kinh tế là tương đương nhau; nhưng thành phần kinh tế công với các DNNN "tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần khác không đầu tư"[11] , thì thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. DNNN phải vươn lên để có hiệu quả sản xuất - kinh doanh tương xứng với lượng vốn và các nguồn lực khác mà các DNNN đang nắm giữ; DNNN phấn đấu đi đầu trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ mới, phấn đấu đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao nhất.

Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH thì sự tồn tại, phát triển của nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan. Các thành phần kinh tế, các bộ phận hợp thành nền kinh tế quốc dân đều có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách, nguồn lực của Nhà nước để định hướng, điều tiết nền kinh tế Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu toàn dân, được Nhân dân ủy quyền, thay mặt Nhân dân quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân tạo các điều kiện nền tảng, định hướng, dẫn dắt, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển theo mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh, bền vững, toàn diện, sáng tạo, bao trùm, để đất nước vững bước đi lên CNXH. Với vai trò "nhạc trưởng", "bà đỡ" như vậy, Nhà nước giữ vị trí, vai trò quyết định, vai trò chủ đạo trong hệ thống kinh tế quốc dân, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên CNXH có nhiều chế độ sở hữu, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò quan trọng khác nhau, trong đó thành phần kinh tế công giữ vị trí, vai trò then chốt, thành phần kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế công cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế có tính tự chủ cao. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế cùng hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, bình đẳng trước pháp luật, cùng nhau huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực xã hội đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước với mục tiêu chung "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"./.

C.Mác đã viết: "... chúng ta đau khổ không những vì sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn đau khổ vì nó phát triển chưa đầy đủ..."[12] bởi vì khi chủ nghĩa tư bản phát triển chưa đầy đủ thì còn những tàn dư của những phương thức sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu, chúng gây ra nhiều tai họa hơn.

V.I.Lênin cũng so sánh: "chủ nghĩa tư bản là xấu so với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản lại là tốt so với thời trung cổ, với nền tiểu sản xuất, với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những người sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội, bởi vậy trong một mứcđộ nào đó, chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu sản xuất và trao đổi; bởi vậy phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản [nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước] làm mắt xích trung gian giữa người tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên" [13].

V.I.Lênin nhấn mạnh: có thể sử dụng chủ nghĩa tư bản tư nhân [chứ đừng nói gì chủ nghĩa tư bản nhà nước nữa] để xúc tiến chủ nghĩa xã hội, để đóng vai trò trợ thủ cho chủ nghĩa xã hội. Điều đó không có gì là ngược đời.

Hơn nữa, ở một nước tiểu nông, "hễ có trao đổi, thì sự phát triển của nền kinh tế nhỏ là một sự phát triển tiểu tư sản, một sự phát triển tư bản chủ nghĩa, đó là một chân lý không thể chối cãi được, một chân lý sơ đẳng của kinh tế chính trị học, đã được kinh nghiệm hàng ngày và sự quan sát của ngay cả những người bình thường xác nhận"[14].

"Hoặc giả tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của chủ nghĩa tư bản, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản... Hoặc giả [chính sách cuối cùng có thể áp dụng được và duy nhất hợp lý] không tìm cách ngăn cấm hay chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà tìm cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước"[15].

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108

[2] Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm [khóa XII] đã xác định 6 quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài.; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển; Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, da dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP; Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng; Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo [Tài liệu nghiên cứu..., NXB CTQG ST,H.,2017,tr. 72-73]

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106

[5] V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 248

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 83

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 105

[8] Xem thêm phần phụ lục cuối bài viết

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 107-108

[10] Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3 tháng 6 năm 2017 của Hội nghị Trung ương lần thứ năm [khóa XII] đã xác định 6 quan điểm chỉ đạo, trong đó nhấn mạnh: Phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài.; là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển; Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, da dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP; Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng; Kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo [Tài liệu nghiên cứu..., NXB CTQG ST,H.,2017,tr. 72-73]

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội 2016, tr. 106

[12] C. Mác- Ph. Ănghen: Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 19

[13] V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276

[14] V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276

[15] V.I. Lê nin, toàn tập, tập 43, Nxb Tiến Bộ, Matxcva, 1978, tr. 276

PGS.TS Vũ Văn Phúc - Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương

Video liên quan

Chủ Đề