Đánh giá thành tựu 30 năm đổi mới năm 2024

Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII đã nhận định, nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, 20 năm đầu [1986 – 2006], nước ta thực sự đã đạt được những thành tựu to lớn; còn 10 năm sau [2006 – 2015], dù trải qua nhiều khó khăn, thách thức, tốc độ tăng trưởng suy giảm, nhưng đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

Nhìn lại 30 năm đổi mới, có thể rút ra một số bài học:

Thứ nhất, bài học về sự kiên định.

Trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Đổi mới là sự thay đổi về phương thức, cách thức, phương tiện… phát triển đất nước nhưng không phải từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Tức là, làm cho con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Trước mắt, mục tiêu của Đảng và nhân dân ta hướng tới là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh “Dĩ bất biến ứng vạn biến” thì mục tiêu này chính là cái “bất biến” mà không ai có thể từ bỏ.

Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, về trí tuệ và đạo đức; phải tiếp tục coi trọng công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới. “Toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, không dao động trong bất cứ tình huống nào”[1].

Hai là, bài học về “dân làm gốc”.

Đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “dân làm gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc.

“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” luôn là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong các thời kỳ cách mạng. Nhân dân vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng nên mọi mục tiêu của Đảng đều vì nhân dân và luôn đặt nhân dân vào vị trí người thực hiện là người thụ hưởng từ các chủ trương của Đảng. Trong 30 năm qua, với chủ trương đổi mới, với sự nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, sự chung sức đồng lòng của toàn dân tộc, đời sống của nhân dân đã thay đổi về mọi mặt. Dân ngày càng giàu thì nước ngày càng mạnh; nước càng mạnh thì càng tác động để dân càng giàu hơn. Do đó, phải luôn chú trọng lắng nghe dân, gần dân, trọng dân, thực hành dân chủ rộng rãi, bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. “Đảng phải trực tiếp trả lời câu hỏi “Nhân dân đang muốn gì?”, để từ đó đề ra các chủ trương, đường lối cho đúng, cho sát và phù hợp với nhân dân. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” mà Đảng ta từng bước phấn đấu chỉ có thể thành công khi Đảng, Nhà nước mãi mãi lấy “Dân làm gốc”, phát huy tốt sức mạnh to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thường xuyên gắn kết chặt chẽ “Lòng Dân, ý Đảng” trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới đất nước”[2].

Ba là, bài học về “đổi mới”.

Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.

Phải không ngừng đổi mới, trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội… trên cơ sở những nguyên tắc nhất định, như đổi mới nhưng phải bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, phải giữ cho được vai trò lãnh đạo của Đảng, phải đổi mới từ tư duy… Đồng thời, phải đổi mới thường xuyên, liên tục, không có điểm dừng, không có giới hạn, sao cho không ngừng nâng cao chất lượng sống của người dân, không ngừng phát triển đất nước về mọi mặt. Không được đổi mới “nửa vời”, tức là chỉ đổi mới trên một số lĩnh vực, chỉ đổi mới về hình thức hay chỉ đổi mới trên các khẩu hiệu mà không đổi mới ở các hoạt động thực tiễn…

Để đổi mới thành công, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm thích hợp. “Đây là bài học về nghệ thuật tiến hành đổi mới. Thực chất của nó là bài học về phối hợp chính sách và kết hợp tối ưu giữa các lợi ích ngắn hạn, cục bộ với các lợi ích dài hạn và toàn thể, tìm tòi các bước đi, hình thức và cách làm thích hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Thực tiễn cho thấy đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, nó phải được tiến hành đồng bộ trên tất cả mọi lĩnh vực. Logic khách quan đó đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp đổi mới trên cơ sở sự nhất quán của đường lối đổi mới và của quyết tâm phát triển”[3].

Bốn là, bài học về yêu cầu phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết.

Phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng và trong bối cảnh các mối quan hệ quốc tế phức tạp, nhiều chiều hiện nay, các lợi ích thường đan xen nhau, đồng thời các quan hệ cũng dễ bị tác động, có thể làm ảnh hưởng đến cán cân một số quan hệ. Vì vậy, nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” cần được áp dụng triệt để, trong đó “bất biến” là lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Việc chủ động hội nhập quốc tế cũng là cách để không những Việt Nam tránh bị hòa tan, bị tác động tiêu cực của quá trình hội nhập.

Bên cạnh đó, “đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết không phải là bỏ qua chủ nghĩa quốc tế vô sản, bỏ qua trách nhiệm quốc tế vì sự tiến bộ và phát triển của tất cả các dân tộc. Cần xác định rõ rằng, ngày nay, mọi việc làm vì tiến bộ và phát triển chung của nhân loại đều làm cho nhân loại tiến gần hơn đến chủ nghĩa xã hội. Đặt lợi ích quốc gia dân tộc lên trên hết đồng thời với tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, mong muốn là bạn, đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm trong quan hệ quốc tế vì độc lập, hòa bình và tiến bộ là làm tốt nghĩa vụ quốc tế của dân tộc Việt Nam”. Đồng thời, “đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết cần có những biện pháp rõ ràng và kiên quyết để đấu tranh với “lợi ích nhóm”, một tệ nạn đang vận động rất phức tạp, là yếu tố hàng đầu đe dọa đến sự đoàn kết thống nhất của dân tộc, mục tiêu cao nhất của đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên trên hết hiện nay”[4].

Năm là, bài học về xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị.

Phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.

Yêu cầu về “phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt” vẫn luôn là một đòi hỏi phù hợp thực tiễn. Xây dựng Đảng là để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực và sức chiến đấu để lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh là để cụ thể hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, triển khai thực hiện trong thực tế, đồng thời từ đó tổng kết thực tiễn để ngày càng hoàn thiện hơn đường lối lãnh đạo. Do đó, nếu lơ là công tác xây dựng Đảng, ít chú trọng công tác xây dựng hệ thống chính trị thì năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực quản lý của Nhà nước, sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị sẽ không được phát huy. “Ở Việt Nam, đòi hỏi phải đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Với tư cách là bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng, hệ thống chính trị phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện”[5].

Tóm lại, 5 bài học quý của 30 năm đổi mới cần được nghiên cứu, vận dụng và phát huy trong thực tiễn cách mạng hiện nay, ở từng tổ chức đảng, từng đảng viên trong điều kiện cụ thể của mình.

-------

[1] GS.TS. Lê Hữu Nghĩa, Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng ta trong tình hình hiện nay, Báo điện tử Đảng Cộng sản, ngày 21-10-2011.

[2] Nguyễn Thế Trung, Về “Lòng Dân, ý Đảng” trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 5-2015.

[3] Trần Đức Lương, Đổi mới: sự lựa chọn cách mạng nhằm mục tiêu phát triển của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 7-2001.

[4] PGS.TS. Ngô Văn Thạo, Phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết!, Báo điện tử Đảng Cộng sản, ngày 2-10-2015.

[5] PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 9-2013.

Chủ Đề