Đặt máy tạo nhịp tim xong có chơi được thể thao không

Lượt xem: 70 Ngày đăng: 09/06/2021

Trong khoảng 2 thập kỷ gần đây, việc cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn ngày càng phát triển. Những tiến bộ trong điều trị bệnh tim đã cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy tim nặng, giảm tỷ lệ tử vong và những biến cố của suy tim. Đặt máy tạo nhịp là một trong những liệu pháp không dùng thuốc thành công nhất và xuất hiện sớm nhất trong xử lý rối loạn nhịp chậm.

Chúng ta đã biết, tim được ví như cái máy bơm sinh học của cơ thể, tim phải co bóp để cung cấp máu cho các cơ quan và duy trì sự sống. Quả tim muốn co bóp được, phải có nút tạo nhịp tim gọi là nút xoang, phát ra xung kích thích tim co bóp.

Ở người bình thường, nút xoang phát nhịp 60 – 80 lần/phút, nhưng khi gắng sức [vận động, tập thể thao…] nút xoang sẽ đáp ứng phát ra nhịp nhanh hơn, tùy theo nhu cầu cơ thể. Khi bệnh nhân bị bệnh rối loạn nhịp chậm, tim sẽ đập chậm hơn bình thường, ví dụ dưới 50 lần/phút, dưới 40 lần/phút, thậm chí dưới 30 lần/phút hoặc có khi ngưng tim kéo dài.

Tùy mức độ nhịp chậm mà bệnh nhân có thể có các biểu hiện khác nhau, trường hợp nhẹ thì mệt mỏi, không có khả năng gắng sức, choáng váng…, trường hợp nặng thì bị ngất do thiếu máu não, có khi ngưng tim gây đột tử.

Rối loạn nhịp tim nói chung là tình trạng tim đập không đều, quá chậm hoặc quá nhanh; nguyên nhân có thể do bẩm sinh, do tuổi, do tổn thương tim sau nhồi máu cơ tim, rối loạn về thần kinh cơ, biến chứng phẫu thuật tim hở, điều trị bệnh van tim, bệnh tim bẩm sinh… Trong những trường hợp bệnh nặng, tim thường hoạt động không hiệu quả, không thể cung cấp đủ máu cho cơ thể, dẫn đến các dấu hiệu và triệu chứng như mệt mỏi, ngất, khó thở, lú lẫn….

Chính vì vậy, bác sĩ cần đặt máy tạo nhịp tim cho những trường hợp cần thiết, phổ biến nhất là rối loạn nhịp tim chậm và nghẽn dẫn truyền tim [tình trạng xung điện truyền trong tim chậm hơn bình thường hoặc bị tắc nghẽn].

               Rối loạn nhịp tim nói chung là tình trạng tim đập không đều, quá chậm hoặc quá nhanh

Máy tạo nhịp tim được cấu tạo bởi 2 thành phần: bộ phận điều khiển và dây điện cực. Một đầu dây điện cực được gắn với bộ phận điều khiển, đầu dây kia sẽ được gắn vào tim. Bộ phận điều khiển là một hộp kim loại nhỏ, nhẹ, chứa pin và mạch điện để điều chỉnh tần số xung điện, gửi xung điện có năng lượng thấp đến tim qua dây điện cực gắn vào tim. Xung điện này sẽ làm tim bệnh nhân co bóp theo tần số đã cài đặt.

Máy tạo nhịp tim có thể làm tăng nhịp tim ở những trường hợp rối loạn nhịp tim chậm, giúp điều khiển nhịp tim, đồng bộ hoạt động điện giữa buồng nhĩ và buồng thất [trường hợp máy tạo nhịp hai buồng], giúp buồng thất co bóp hiệu quả ở những trường hợp rối loạn nhịp nhĩ như rung nhĩ, ngăn ngừa các rối loạn nhịp nguy hiểm….

Máy tạo nhịp tim có thể được đặt tạm thời hoặc vĩnh viễn. Đặt máy tạo nhịp tạm thời để khắc phục các vấn đề nhịp tim như: nhịp tim chậm sau nhồi máu, sau phẫu thuật tim hoặc sau khi dùng thuốc quá liều…. Máy tạo nhịp tim tạm thời thường dùng để cấp cứu và sử dụng đến khi các rối loạn về nhịp hồi phục hoặc được điều trị ổn.

Trường hợp đặt máy tạo nhịp tim vĩnh viễn trong điều trị các vấn đề về nhịp tim kéo dài hoặc không hồi phục. Có 2 phương pháp đặt máy tạo nhịp: đặt dưới nội mạc và đặt ở ngoại tâm mạc. Bộ phận điều khiển được gắn ở dưới da, tại ngực hoặc bụng qua một phẫu thuật nhỏ.

  • Phương pháp đặt dưới nội mạc: Dây điện cực sẽ được luồn qua ống thông trong tĩnh mạch vào buồng tim và tiếp xúc với thành trong của tim;
  • Phương pháp đặt ở ngoại tâm mạc [thường áp dụng ở trẻ em]: Dây điện cực được gắn trực tiếp lên bề mặt tim qua phẫu thuật mở ngực nhỏ, nguy cơ của phẫu thuật đặt máy tạo nhịp chỉ khoảng 1% và hiếm khi có trường hợp tử vong.

                         Máy tạo nhịp tim cần được kiểm tra định kỳ để đảm bảo hoạt động tốt

Trong thời gian vài tháng đầu sau khi đặt máy, bệnh nhân nên sinh hoạt nhẹ nhàng, tránh vận động mạnh vì có khả năng gây tụ máu ở máy, dễ nhiễm trùng, xê dịch máy và dây điện cực. Khi vết mổ lành và ổ máy ổn định [3 tháng], hầu hết trường hợp, người mang máy tạo nhịp không cần giới hạn các hoạt động thường ngày hoặc khi chơi thể thao. Mức độ hoạt động thể lực phụ thuộc vào sức khỏe và bệnh lý tim mạch của bệnh nhân. Tuy nhiên, cần tránh các môn thể thao tiếp xúc [bóng đá] vì những va chạm có thể gây hư hỏng máy tạo nhịp hoặc lỏng các dây điện cực.

Người mang máy tạo nhịp tim có thể sử dụng các thiết bị gia dụng thông thường [điện thoại di động, máy nghe nhạc mp3, iPad, lò vi sóng, điều khiển từ xa, tivi, radio, máy sấy tóc…]. Nên tránh tiếp xúc quá gần hoặc sử dụng quá lâu các thiết bị này do chúng có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động của máy tạo nhịp.

Máy tạo nhịp tim cần được kiểm tra định kỳ để đảm bảo hoạt động tốt, kịp thời kiểm tra khi điện cực lỏng hoặc đứt, pin yếu hoặc hư, bệnh tim diễn tiến nặng hơn… Pin của máy tạo nhịp có thể sử dụng 5 – 15 năm tùy thuộc mức độ hoạt động của máy nên khi pin gần hết sẽ phải thay bộ phận điều khiển cùng với pin. Vì vậy, bệnh nhân cần tái khám thường xuyên theo đúng lịch hẹn của bác sĩ [thường 3 – 6 tháng] để được kiểm tra, đánh giá và xử lý kịp thời.

Luôn phải mang theo giấy xuất viện hoặc thẻ chứng nhận có đặt máy tạo nhịp tim và xuất trình khi cần thiết, đặc biệt là khi được kiểm tra ở sân bay. Các thiết bị như hệ thống chống trộm cắp trong cửa hàng, thiết bị kiểm tra ở sân bay và máy dò kim loại có thể cản trở hoạt động của máy.

Khi đi khám bệnh cần báo cho nhân viên y tế biết mình mang máy tạo nhịp vì một số thiết bị y tế có thể ảnh hưởng đến máy tạo nhịp như: máy chụp cộng hưởng từ [MRI], máy tán sỏi, máy đốt điện trong phẫu thuật….

Số 51 Phú Diễn, Bắc Từ Liêm,Hà Nội

02437970161

www.yduoctuetinh.net

www.tuetinh.edu.vn

Trong chuyên mục hôm nay, ThS. BS. Ngô Hàng Vinh – Phó khoa Nội Tim Mạch – BVXA sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin hữu ích về việc cấy máy tạo nhịp tim trong điều trị rối loạn nhịp chậm.

– Như chúng ta đã biết, tim ví như cái máy bơm, tim phải co bóp để cung cấp máu cho các cơ quan để duy trì sự sống.

– Tim muốn co bóp được, phải có nút tạo nhịp tim gọi là nút xoang, phát xung kích thích tim co bóp.

– Ở người bình thường, nút xoang phát nhịp 60 – 80 lần/phút. Khi gắng sức [vận động, tập thể thao…], nút xoang sẽ đáp ứng phát nhịp nhanh hơn theo nhu cầu cơ thể.

– Khi bị bệnh rối loạn nhịp chậm, tim đập chậm hơn bình thường, ví dụ dưới 50 lần/phút, dưới 40 lần/phút, thậm chí dưới 30 lần/phút, có khi ngưng tim kéo dài.

– Tùy mức độ nhịp chậm, bệnh nhân có thể có biểu hiện khác nhau, nhẹ thì chỉ mệt, không có khả năng gắng sức, choáng váng, nặng thì bị ngất do thiếu máu não, có khi ngưng tim đột tử.

Ảnh minh họa bệnh nhân mệt khi gắng sức do rối loạn nhịp chậm

– Khi có biểu hiện mệt, choáng váng, không có khả năng gắng sức, ngất xỉu thì cần đi khám bệnh ngay để tầm soát phát hiện bệnh lý rối loạn nhịp chậm.

– Khám sức khỏe định kỳ hàng năm: Bệnh lý rối loạn nhịp chậm nhiều khi không rõ ràng, có khi biểu hiện giống các bệnh lý suy nhược, rối loạn tiền đình, có khi không có triệu chứng. Vì vậy, cần phải khám sức khỏe định kỳ hàng năm để tầm soát bệnh.

– Một số trường hợp rối loạn nhịp chậm ở dạng “ Hội chứng nhịp nhanh – nhịp chậm”, nghĩa là có lúc tim đập rất chậm gây choáng váng, xen kẽ những khoảng tim đập rất nhanh không kiểm soát được gây hồi hộp khó chịu. Nếu có biểu hiện này, cần đi khám tim mạch ngay. Những bệnh nhân này thường có huyết áp dao động, có cơn tăng huyết áp, do rối loạn nhịp sẽ kích thích tim làm huyết áp tăng giả tạo.

– Thông thường chỉ cần đo Điện tim, làm Holter nhịp tim là đủ chẩn đoán:

+ Điện tim: Đánh giá nhịp tim tức thời ngay lúc đo, nếu có nhịp chậm sẽ chẩn đoán được ngay. Tuy nhiên nếu không phát hiện nhịp chậm không có nghĩa không bị bệnh, vì nhịp tim có thể chậm từng lúc, nếu chỉ đo điện tim một lần sẽ không phát hiện được.

+ Holter nhịp tim 24 giờ: Cũng giống như đo điện tim, nhưng bác sĩ cho bệnh nhân mang máy đo điện tim suốt 24 giờ, đánh giá nhịp tim ban ngày, ban đêm, lúc nghỉ, lúc gắng sức, sẽ đánh giá chính xác hơn tình trạng bệnh.

– Có những trường hợp khó, đo Điện tim và Holter điện tim 24 giờ vẫn không phát hiện được, nhưng bệnh nhân vẫn có biểu hiện của bệnh lý nhịp châm. Khi đó, cần làm thêm các kỷ thuật xâm lân hơn giúp phát hiện bệnh:

+ Kích thích nhĩ qua thực quản: Bác sĩ sẽ đặt dây điện cực qua ngả thực quản[giống nội soi dạ dày] đến gần tâm nhĩ, kích thích tim nhằm phát hiện rối loạn nhịp chậm.

+ Khảo sát điện sinh lý trong buồng tim: Đưa ống thông theo đường mạch máu vào buồng tim, dùng máy kích thích phát hiện bệnh lý nhịp chậm và các rối loạn nhịp phức tạp khác.

+ Nghiệm pháp bàn nghiêng [Tilttest]: Phát hiện ngất qua trung gian thần kinh.

– Hiện nay, tại Việt Nam và trên thế giơi nói chung, để điều trị bệnh lý rối loạn nhịp chậm, phương pháp duy nhất là cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn. Dùng thuốc hầu như không có hiệu quả gì, thậm chí có thể gây thêm rối loạn nhịp khác. Máy tạo nhịp sẽ thay thế phát nhịp khi nhịp tim chậm, giúp giữ nhịp tim bệnh nhân ở mức bình thường.

– Bác sĩ sẽ cấy máy tạo nhịp vào dưới da ngực bệnh nhân, dây điện cực được luồn theo mạch máu vào buồng tim, cố định trong buồng tim. Nếu nhịp tim của bệnh nhân bình thường, máy sẽ ở trạng thái chờ, nếu nhịp tim bệnh nhân chậm, máy sẽ phát nhịp thay thế.

– Các máy tạo nhịp hiện đại ngày nay có chức năng đáp ứng nhịp, khi bệnh nhân gắng sức, bị sốt… máy sẽ tạo nhịp nhanh hơn dể đáp ứng theo nhu cầu cơ thể.

Ảnh minh họa máy tạo nhịp được đặt trong người bệnh nhân

– Trong thời gian vài tháng đầu, bệnh nhân nên sinh hoạt nhẹ nhàng, tránh vận động mạnh vì có khả năng gây tụ máu ổ máy dễ nhiễm trùng, xê dịch máy và dây điện cực.

– Khi vết mổ lành và ổ máy ổn định [3 tháng], bệnh nhân có thể sinh hoạt gần như người bình thường, trừ khi có những bệnh tim kèm theo bắt buộc phải hạn chế gắng sức.

– Bệnh nhân có thể chơi thể thao mức độ vừa được, làm việc bình thường được, đi du lịch được.

– Khi đi máy bay, nhớ trình báo nhân viên sân bay để không dùng máy quét có từ tính để rà kim loại như người bình thường.

– Tránh va chạm vùng đặt máy, đề phòng trầy xước, lộ máy tạo nhịp gây nhiễm trùng.

– Có thể dùng điện thoại bình thường.

-Tránh đi vào vùng có từ tính, tránh đứng gần đường điện cao thế.

– Tránh chụp MRI. Khi bị bệnh khác, ví dụ tai biến mạch não, chấn thương, bệnh nhân có thể chụp CTscan. Nhưng tránh chụp MRI vì có thể gây ảnh hưởng máy tạo nhịp [Ngày nay có máy tạo nhịp tương thích MRI, nghĩa là khi bệnh nhân bị bệnh khác cần chụp MRI thì vẫn làm được, không sợ hư máy].

– Khi đi khám bệnh, nhớ báo bác sĩ biết mình có mang máy tạo nhịp, đặc biệt trước khi mổ vì bệnh lý khác, bác sĩ sẽ xem xét chỉnh chế độ máy trước khi mổ cho an toàn.

– Tái khám định kỳ theo lịch để bác sĩ kiểm tra máy tạo nhịp và điều chỉnh nếu cần.

– Nếu có bất thường, tái khám ngay.

– Tuổi thọ máy: 10 – 12 năm. Nếu gần hết pin, phải thay máy.

Khi có các dấu hiệu bệnh lý tim mạch cần đến khám tại các phòng khám chuyên khoa tim mạch để các bác sĩ thăm khám và điều trị.

Video liên quan

Chủ Đề