Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao là gì

Nghị quyết của Hội nghị Trung ương chỉ rõ: "Ðấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền nam là nhân tố chủ yếu quyết định. Thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường". Tuy nhiên, trong điều kiện mới, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động.

Nhiệm vụ đấu tranh ngoại giao được hội nghị xác định là đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại hội nghị này, Ðảng đề ra phương châm cơ bản của đấu tranh ngoại giao và phương pháp đấu tranh mềm dẻo, thích hợp để giành thắng lợi từng bước. Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã đặt dấu mốc quan trọng cho mặt trận đấu tranh ngoại giao, từ đây vị thế của đấu tranh ngoại giao được nâng lên một tầm mức mới, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và chính trị trên chiến trường.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy dịp Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta vào các mục tiêu quân sự, chính trị trọng yếu ở các đô thị lớn của miền nam cùng với những thắng lợi của miền bắc trong chống chiến tranh phá hoại, đã buộc đế quốc Mỹ đơn phương xuống thang chiến tranh bằng việc ngừng các hành động đánh phá của không quân xuống miền bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, xem xét kế hoạch rút quân Mỹ ra khỏi miền nam Việt Nam, cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 13-5-1968, cuộc tiếp xúc ngoại giao đầu tiên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ khai màn cho quá trình đàm phán trên bàn hội nghị. Tuy nhiên, ngay từ đầu, Mỹ đã dùng nhiều thủ đoạn ngoại giao rất xảo quyệt như đàm phán trên thế mạnh, tìm mọi cách gây sức ép với ta từ nhiều phía, hòng làm giảm thắng lợi trên chiến trường và vị thế ngoại giao của ta trên bàn hội nghị Paris. Chỉ đến khi, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền bắc, ta và Mỹ mới đạt được thỏa thuận về một hội nghị gồm bốn bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam [sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam], Mỹ, Việt Nam cộng hòa.

Bước vào hội nghị bốn bên, bắt đầu từ ngày 16-1-1969, hai đoàn của ta luôn nêu cao ngọn cờ độc lập tự chủ, ngọn cờ chính nghĩa của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước để đấu lý với Mỹ - ngụy; ta kiên quyết, khôn khéo, kịp thời đẩy lùi lập luận xuyên tạc, ngụy biện và các thủ đoạn ngoại giao lừa bịp của địch. Cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán diễn ra phức tạp, gay go và luôn gắn chặt với diễn biến trên chiến trường. Giữa năm 1971, sau những thắng lợi quan trọng của ta ở đông bắc Cam-pu-chia và Ðường 9 - Nam Lào, mặt trận đấu tranh ngoại giao có điều kiện thuận lợi hơn để ép Mỹ xuống thang chiến tranh, đồng thời kiên quyết giữ vững mục tiêu chủ yếu của ta là giữ được quân đội trên chiến trường miền nam. Ðể tăng sức ép với Mỹ, ta đã phối hợp đấu tranh trên diễn đàn bí mật và diễn đàn công khai, đưa những đề nghị xây dựng để tranh thủ dư luận. Có thể nói, trên mặt trận này, ta luôn giành thế chủ động tiến công địch, gắn cuộc đấu tranh ngoại giao với các mặt đấu tranh quân sự, chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, từng bước làm thất bại các mục tiêu của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đàm phán trên thế mạnh của Mỹ. Do đó, Mỹ dù ngoan cố bám giữ âm mưu thôn tính miền nam Việt Nam, nhưng trước thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong tiến công chiến lược 1972, trực tiếp là chiến công xuất sắc đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối năm 1972 [từ 18 đến 29-12-1972], cùng với sức ép của nhân dân Mỹ và dư luận thế giới, buổi chiều ngày 27-1-1973, Mỹ buộc phải ký chính thức Hiệp định về chấm dứt  chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Như vậy là, cuộc đấu trí, đấu lý gay go, căng thẳng trên bàn đàm phán Pa-ri giữa ta và Mỹ diễn ra trong bốn năm chín tháng [từ tháng 5-1968 đến tháng 1-1973], với 202 phiên họp công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng, đã kết thúc với thắng lợi thuộc về ta.

Thắng lợi tại Hội nghị Paris là kết quả quá trình đấu tranh của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, nhằm "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện mục tiêu hòa bình, thống nhất nước nhà. Ðánh giá kết quả và ý nghĩa của việc ký kết Hiệp định Paris, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Ðảng cho rằng: Thắng lợi chủ yếu của ta ở Hội nghị Paris là ở chỗ "Mỹ phải rút ra, còn quân ta thì ở lại". Từ đây, diễn ra sự thay đổi căn bản trong so sánh lực lượng giữa ta và địch, mở ra khả năng mới để quân và dân ta tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam và đẩy mạnh công cuộc xây dựng hậu phương miền bắc, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn.

[Bqp.vn] - Giai đoạn 1967 - 1968 là thời kỳ đặc biệt trong cuộc kháng chiến thống nhất đất nước của dân tộc ta. Trong cuộc kháng chiến này, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã phát huy trí tuệ, kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ đi đến Đại thắng mùa Xuân 1975, thu non sông về một mối. Trong mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao luôn song hành, phối hợp nhịp nhàng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc.

Việc đặc biệt chú trọng vai trò của đấu tranh ngoại giao trong những thời khắc quyết định của cuộc kháng chiến; trong đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 có ý nghĩa then chốt, giáng đòn chiến lược, làm thay đổi căn bản cục diện chiến trường. Mặt trận ngoại giao dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã phối hợp chặt chẽ và tạo thế cho tiến công quân sự, đồng thời, phát huy thắng lợi trên chiến trường để đạt những thắng lợi lớn hơn có ý nghĩa chiến lược.

Tạo thế ngoại giao

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ngày càng diễn biến quyết liệt. Sau thất bại trong triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ buộc phải bị động chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến tại miền Nam, ném bom, bắn phá miền Bắc. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, quân và dân ta đã dần làm phá sản chiến lược mới này, trực tiếp là qua những thắng lợi quan trọng đánh bại hai cuộc phản công chiến lược vào hai mùa khô [1965 - 1966 và 1966 - 1967] của Mỹ - ngụy.

Việc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam, ném bom đánh phá miền Bắc, tàn phá và gây rất nhiều tổn thất cho dân thường, đã khiến nhân dân tiến bộ thế giới ngày càng quan ngại. Nhiều nước, nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh, kêu gọi các bên liên quan đi vào đàm phán tìm giải pháp chính trị, ngoại giao. Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Ca-na-đa, Tổng thống Pháp… bày tỏ sẵn sàng làm trung gian hòa giải, đề nghị tôn trọng độc lập, thống nhất của Việt Nam, sớm đi vào thương lượng hòa bình. Để biện minh cho cuộc chiến, Mỹ đã tiến hành một đợt vận động ngoại giao lớn chưa từng có, với việc cử đặc phái viên đi thuyết phục hơn 40 nước, gửi thư cho nguyên thủ của hơn 100 quốc gia [1] và nhiều động thái khác.

Trước tình hình trên, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 [01/1967] nhất trí đẩy mạnh hoạt động đấu tranh ngoại giao, chỉ rõ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. “Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những gì mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động” [2]. Về nhiệm vụ cụ thể, mặt trận ngoại giao đề cao lập trường 04 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tuyên bố 05 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.

Triển khai chỉ đạo đó của Trung ương, ngày 28/01/1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, trong trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài đã tuyên bố “…Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này thì Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mỹ có thể nói chuyện” [3]. Sau đó, Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn [tháng 9/1967] tuyên bố “Mỹ sẵn sàng ngừng mọi hoạt động bắn phá bằng không quân và hải quân trên miền Bắc Việt Nam khi nào sáng kiến này nhanh chóng dẫn tới các cuộc thảo luận có hiệu quả”. Như vậy, bản chất của tuyên bố trên là đòi đàm phán có điều kiện. Để giành thế chủ động, ngoại giao Việt Nam đã đi thêm một nước cờ quyết đoán hơn. Ngày 29/12/1967, Bộ trưởng Ngoại giao ta tuyên bố: “Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về các vấn đề liên quan” [4].

Việc Chính phủ ta chủ động nêu khả năng đàm phán hòa bình là một chiến lược ngoại giao đúng đắn và đúng thời điểm, được đông đảo nhân dân, dư luận quốc tế ủng hộ. Trong đó, việc ta gắn thương lượng với vấn đề Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc cũng làm đậm thêm tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta và làm nổi bật hành động vi phạm chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia độc lập có chủ quyền, được quốc tế công nhận tại Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Các nước xã hội chủ nghĩa, phần lớn các nước không liên kết, các phong trào hòa bình, thậm chí một số nước phương Tây đều lên tiếng mạnh mẽ, tạo sức ép quốc tế rất lớn đối với Mỹ, yêu cầu phải có giải pháp kết thúc chiến tranh.

Mặt khác, việc ta đưa ra tuyên bố quan trọng như trên ngay trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khiến đối phương có phần chủ quan, đánh giá thấp khả năng của ta, bảo đảm yếu tố bí mật cả ở cấp chiến lược và chiến thuật. Qua đó, mặt trận ngoại giao đã góp phần hỗ trợ trực tiếp để quân và dân ta bước vào Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 với sự ủng hộ mạnh mẽ của quốc tế cũng như thế chủ động về chiến lược trên chiến trường.

Mặt trận ngoại giao - sức mạnh cộng hưởng cho thắng lợi trên chiến trường

Một yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là, mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết rộng rãi và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn 1967 - 1968, ta liên tục triển khai các mũi tiến công ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Tính chính nghĩa trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã đặt nền tảng quan trọng giúp tranh thủ được tình cảm của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Sự chủ động của ta trong vận động và đấu tranh đối ngoại giúp làn sóng quốc tế ủng hộ Việt Nam ngày càng dâng cao. Nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đi nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với lãnh đạo và nhiều tầng lớp để làm rõ tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hàng nghìn cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành “Vì Việt Nam” đã diễn ra tại nhiều thủ đô lớn trên thế giới. Sự ủng hộ chí tình của bạn bè quốc tế đối với chiến trường là nguồn cổ vũ, động viên vô giá đối với cán bộ, chiến sĩ ta, góp phần tạo ra niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chính nghĩa và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Tranh thủ sự ủng hộ ngay trong lòng nước Mỹ, thông qua các phong trào phản chiến của chính nhân dân Mỹ cũng là một nhiệm vụ quan trọng của mặt trận đối ngoại giai đoạn này. Các đề xuất đàm phán, tính chính nghĩa và thái độ tích cực của Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cũng như những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường, nhất là tại các đô thị lớn, như: Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế… đặt dấu chấm hết cho những ảo tưởng về “chiến thắng” của Mỹ tại Việt Nam, khiến phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ dâng cao hơn bao giờ hết. Ta cũng khéo léo triển khai các biện pháp, như: mời một số nhà báo, phóng viên nước ngoài vào miền Bắc để tận mắt chứng kiến và đưa tin trung thực, khách quan về sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn Mỹ đối với dân thường Việt Nam. Chính những tin tức, hình ảnh, bài viết của các nhà báo đã tạo ra sức mạnh cộng hưởng, tiếp thêm sức mạnh cho các phong trào phản chiến diễn ra ngày càng rầm rộ, sục sôi, quyết liệt với sự tham gia của hàng chục nghìn trí thức, sinh viên và các giới tại nhiều thành phố lớn của Mỹ. Hàng vạn thanh niên Mỹ chống quân dịch. Ngày càng có nhiều Nghị sĩ Mỹ đòi Chính quyền Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh tại Việt Nam và đi vào thương lượng thực chất [5]. Khai thác mâu thuẫn nội bộ Mỹ, ngoại giao ta đã phát huy được thế chính nghĩa, thế thắng của nhân dân ta, đóng góp quyết định trong việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Đã có ý kiến nhận xét rất xác đáng rằng, Mỹ đã thua không chỉ ở Việt Nam mà thua ngay tại nước Mỹ.

Mặt trận ngoại giao cũng đã thành công trong việc tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong giai đoạn các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có những khó khăn, Trung ương Đảng đã rất sáng suốt, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì trao đổi, tranh thủ sự ủng hộ của các nước bạn bè. Sự trao đổi chân thành, kiên định, ở cấp cao đã giúp ta tiếp tục duy trì, đẩy mạnh sự ủng hộ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, cả về vật chất và tinh thần, nhất là trong giai đoạn ta đang tập trung nhân lực, vật lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Góp phần trực tiếp vào thắng lợi trên chiến trường

Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 còn là kết quả của sự kết hợp tài tình mang tính chiến lược giữa thắng lợi trên chiến trường và mặt trận ngoại giao.

Thứ nhất, mặt trận ngoại giao đã nắm bắt kịp thời, hiệu quả thắng lợi chiến lược của Đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy để buộc Mỹ đi vào đàm phán trên cơ sở có lợi cho ta. Đêm ngày 30 và sáng 01 Tết Mậu Thân năm 1968, các lực lượng vũ trang ta đã đồng loạt tiến công địch trên toàn chiến trường miền Nam, đánh thẳng vào rất nhiều cơ sở đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế và nhiều thành phố, thị xã. Ngay trong Đợt 1, ta đã giáng đòn quyết định, buộc Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn ngày 31/3/1968 phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom khu vực Bắc vĩ tuyến 20, “sẵn sàng tiến tới hòa bình thông qua thương lượng” và sẽ cử đại diện Mỹ đến bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào. Tuyên bố này của L. Giôn-xơn chính thức thừa nhận thất bại trong leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc và “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam; đồng thời, cũng là kết quả của quá trình đấu tranh ngoại giao vừa mềm dẻo nhưng hết sức cương quyết trong việc buộc Mỹ đi vào đàm phán theo những điều kiện có lợi cho ta.

Mặc dù Mỹ chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu của ta về chấm dứt ném bom miền Bắc, nhưng ta đã quyết định nắm lấy cơ hội mở ra đàm phán trực tiếp với Mỹ để kiềm chế, kéo Mỹ vừa đàm, vừa xuống thang chiến tranh; đồng thời, giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thiện chí đàm phán, tranh thủ dư luận và bạn bè quốc tế, trước mắt là hỗ trợ các đợt tiếp theo của cuộc tiến công chiến lược, chia lửa với chiến trường. Ngày 03/4/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tuyên bố “sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”. Ta tiếp tục tiến công về ngoại giao, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, chứ không chỉ ngừng phía Bắc vĩ tuyến 20, đồng thời phối hợp với quân và dân ta trên chiến trường để bắt đầu hình thành cục diện đánh - đàm.

Thứ hai, ngoại giao đã tạo sức ép quốc tế đối với Mỹ, nêu cao chính nghĩa để tranh thủ ủng hộ quốc tế đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Trong suốt Đợt 1 của cuộc tiến công chiến lược, các cơ quan ngoại giao và thông tấn của ta thường xuyên tiếp xúc, đưa tin đề cao lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Từ tháng 5/1968, ta chính thức mở mặt trận đấu tranh, đàm phán với Mỹ tại Pa-ri, nơi có sự hiện diện đông đảo của giới ngoại giao và báo chí quốc tế để có thể khuếch trương thắng lợi và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Suốt thời gian diễn ra Đợt 2 và 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, tại bàn đàm phán, ta kiên quyết đấu tranh về việc Mỹ tăng cường chiến tranh ở miền Nam, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom không điều kiện miền Bắc và kiên quyết bác bỏ các đề xuất về khôi phục khu phi quân sự, không bắn pháo vào các thành phố lớn, không tăng chi viện cho chiến tranh Việt Nam. Như vậy, thành công của đấu tranh ngoại giao đã trực tiếp đóng góp cho các thắng lợi trên chiến trường.

Thứ ba, mặt trận ngoại giao đã phát huy thành quả trên chiến trường để buộc Mỹ chính thức xuống thang chiến tranh, công nhận địa vị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc để tiến tới ký Hiệp định Pa-ri lịch sử, tháng 01/1973. Trong suốt quá trình thương lượng từ tháng 5 đến tháng 10/1968, ta đã kiên trì yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc để thay đổi cục diện chiến lược của chiến tranh, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc, chi viện cho miền Nam. Đến ngày 01/11/1968, Mỹ đã tuyên bố chấp nhận ngừng ném bom toàn miền Bắc và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia đàm phán bốn bên. Qua kênh đàm phán tại Pa-ri, Mỹ đã thông báo trước cho ta về nội dung này. Ngày 02/11/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố “Để đi đến một giải pháp chính trị đúng đắn về Việt Nam thì Chính phủ Mỹ phải từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đối với nước Việt Nam”.

Việc ta quyết định chấp nhận đàm phán bốn bên, đồng thời vẫn duy trì kênh đàm phán trực tiếp giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa với Mỹ đã góp phần “trói chân” Mỹ vào đàm phán Pa-ri, phát huy thành quả to lớn của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Điều đó càng có ý nghĩa trong bối cảnh chính quyền R. Ních-xơn mới thắng cử sẽ có điều chỉnh chiến lược đối với chiến tranh tại Việt Nam, song không thể từ bỏ đàm phán. Việc ta buộc Mỹ chấp nhận vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng góp phần phân hóa Mỹ - ngụy do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu kiên quyết chống Mặt trận tham gia đàm phán, khiến chính quyền ngụy hết sức lo ngại về tương lai của chính mình do điều đó mở ra khả năng có một giải pháp chính trị cho miền Nam mà ngụy quyền không phải là lực lượng duy nhất. Việc đạt thỏa thuận về đàm phán bốn bên cũng là minh chứng cho sự đúng đắn về đường lối của Đảng ta khi thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có tác dụng cổ vũ, động viên lớn lao cho toàn thể chiến sĩ, đồng bào miền Nam trong bối cảnh ta gặp nhiều khó khăn về lực lượng, thế đứng chân trong các năm 1969, 1970.

Một số bài học lâu dài

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã trôi qua tròn nửa thế kỷ, song những bài học thành công của nó luôn có giá trị thời sự sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, trong đó có việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:

Một là, thắng lợi của quân và dân ta trong đấu tranh ngoại giao năm 1968 trước tiên xuất phát từ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt và trực tiếp của Đảng, Nhà nước. Việc chuẩn bị thế trận đối ngoại, lập kế hoạch, phát huy kết quả thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đều được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo trực tiếp chỉ đạo, triển khai trong từng giai đoạn.

Hai là, thắng lợi to lớn đó còn cho thấy giá trị lâu dài của việc kết hợp nhuần nhuyễn thế trận quân sự, quốc phòng của đất nước với mặt trận ngoại giao. Mặt trận ngoại giao đã góp phần giữ vững thành quả trên chiến trường bằng những cam kết công khai của đối phương, khuếch trương thắng lợi và tranh thủ sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế. Đồng thời, ngoại giao cũng trực tiếp đóng góp cho chiến thắng và chi viện cho chiến trường.

Ba là, cuộc tiến công chiến lược Mậu Thân và đàm phán Pa-ri trong năm 1968 cũng cho thấy tầm quan trọng của việc nhạy bén theo dõi, đánh giá, nhận định tình hình thế giới, khu vực cũng như tương quan lực lượng của ta. Thắng lợi của nhân dân ta khẳng định, việc đánh giá đúng tình hình, đưa ra phương hướng sách lược chính xác sẽ giúp tranh thủ tối đa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giúp ta có thể đạt được thắng lợi dù tình hình và tương quan không hoàn toàn có lợi cho ta.

Với những bài học đó, thắng lợi của quân và dân ta trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa chiến lược và giá trị thời đại sâu sắc. Mặt trận ngoại giao đã góp phần phát huy thắng lợi trên chiến trường, mở ra đàm phán Pa-ri kéo dài suốt 5 năm, từ đó tạo tiền đề để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những bài học về kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong năm 1968 đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần được phát huy, phát triển và vận dụng sáng tạo, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1 - Bộ Ngoại giao - Cuộc đàm phán lịch sử, Nxb CTQG, H. 2009, tr. 123-124.

2 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 174.

3 - Lưu Văn Lợi - 50 năm ngoại giao Việt Nam, Tập 1, Nxb CAND, H. 1996, tr. 259.

4 - Bộ Ngoại giao - Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 35 năm Hiệp định Pa-ri 1973-2008, Hà Nội.

5 - Bộ Ngoại giao - Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pa-ri về Việt Nam, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 428 - 432.

Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nguồn: Tạp chí QPTD

Page 2

[Bqp.vn] - Giai đoạn 1967 - 1968 là thời kỳ đặc biệt trong cuộc kháng chiến thống nhất đất nước của dân tộc ta. Trong cuộc kháng chiến này, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã phát huy trí tuệ, kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ đi đến Đại thắng mùa Xuân 1975, thu non sông về một mối. Trong mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao luôn song hành, phối hợp nhịp nhàng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc.

Việc đặc biệt chú trọng vai trò của đấu tranh ngoại giao trong những thời khắc quyết định của cuộc kháng chiến; trong đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 có ý nghĩa then chốt, giáng đòn chiến lược, làm thay đổi căn bản cục diện chiến trường. Mặt trận ngoại giao dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã phối hợp chặt chẽ và tạo thế cho tiến công quân sự, đồng thời, phát huy thắng lợi trên chiến trường để đạt những thắng lợi lớn hơn có ý nghĩa chiến lược.

Tạo thế ngoại giao

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ngày càng diễn biến quyết liệt. Sau thất bại trong triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ buộc phải bị động chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến tại miền Nam, ném bom, bắn phá miền Bắc. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, quân và dân ta đã dần làm phá sản chiến lược mới này, trực tiếp là qua những thắng lợi quan trọng đánh bại hai cuộc phản công chiến lược vào hai mùa khô [1965 - 1966 và 1966 - 1967] của Mỹ - ngụy.

Việc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam, ném bom đánh phá miền Bắc, tàn phá và gây rất nhiều tổn thất cho dân thường, đã khiến nhân dân tiến bộ thế giới ngày càng quan ngại. Nhiều nước, nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh, kêu gọi các bên liên quan đi vào đàm phán tìm giải pháp chính trị, ngoại giao. Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Ca-na-đa, Tổng thống Pháp… bày tỏ sẵn sàng làm trung gian hòa giải, đề nghị tôn trọng độc lập, thống nhất của Việt Nam, sớm đi vào thương lượng hòa bình. Để biện minh cho cuộc chiến, Mỹ đã tiến hành một đợt vận động ngoại giao lớn chưa từng có, với việc cử đặc phái viên đi thuyết phục hơn 40 nước, gửi thư cho nguyên thủ của hơn 100 quốc gia [1] và nhiều động thái khác.

Trước tình hình trên, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 [01/1967] nhất trí đẩy mạnh hoạt động đấu tranh ngoại giao, chỉ rõ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. “Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những gì mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động” [2]. Về nhiệm vụ cụ thể, mặt trận ngoại giao đề cao lập trường 04 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tuyên bố 05 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.

Triển khai chỉ đạo đó của Trung ương, ngày 28/01/1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, trong trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài đã tuyên bố “…Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này thì Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mỹ có thể nói chuyện” [3]. Sau đó, Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn [tháng 9/1967] tuyên bố “Mỹ sẵn sàng ngừng mọi hoạt động bắn phá bằng không quân và hải quân trên miền Bắc Việt Nam khi nào sáng kiến này nhanh chóng dẫn tới các cuộc thảo luận có hiệu quả”. Như vậy, bản chất của tuyên bố trên là đòi đàm phán có điều kiện. Để giành thế chủ động, ngoại giao Việt Nam đã đi thêm một nước cờ quyết đoán hơn. Ngày 29/12/1967, Bộ trưởng Ngoại giao ta tuyên bố: “Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về các vấn đề liên quan” [4].

Việc Chính phủ ta chủ động nêu khả năng đàm phán hòa bình là một chiến lược ngoại giao đúng đắn và đúng thời điểm, được đông đảo nhân dân, dư luận quốc tế ủng hộ. Trong đó, việc ta gắn thương lượng với vấn đề Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc cũng làm đậm thêm tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta và làm nổi bật hành động vi phạm chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia độc lập có chủ quyền, được quốc tế công nhận tại Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Các nước xã hội chủ nghĩa, phần lớn các nước không liên kết, các phong trào hòa bình, thậm chí một số nước phương Tây đều lên tiếng mạnh mẽ, tạo sức ép quốc tế rất lớn đối với Mỹ, yêu cầu phải có giải pháp kết thúc chiến tranh.

Mặt khác, việc ta đưa ra tuyên bố quan trọng như trên ngay trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khiến đối phương có phần chủ quan, đánh giá thấp khả năng của ta, bảo đảm yếu tố bí mật cả ở cấp chiến lược và chiến thuật. Qua đó, mặt trận ngoại giao đã góp phần hỗ trợ trực tiếp để quân và dân ta bước vào Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 với sự ủng hộ mạnh mẽ của quốc tế cũng như thế chủ động về chiến lược trên chiến trường.

Mặt trận ngoại giao - sức mạnh cộng hưởng cho thắng lợi trên chiến trường

Một yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là, mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết rộng rãi và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn 1967 - 1968, ta liên tục triển khai các mũi tiến công ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Tính chính nghĩa trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã đặt nền tảng quan trọng giúp tranh thủ được tình cảm của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Sự chủ động của ta trong vận động và đấu tranh đối ngoại giúp làn sóng quốc tế ủng hộ Việt Nam ngày càng dâng cao. Nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đi nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với lãnh đạo và nhiều tầng lớp để làm rõ tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hàng nghìn cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành “Vì Việt Nam” đã diễn ra tại nhiều thủ đô lớn trên thế giới. Sự ủng hộ chí tình của bạn bè quốc tế đối với chiến trường là nguồn cổ vũ, động viên vô giá đối với cán bộ, chiến sĩ ta, góp phần tạo ra niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chính nghĩa và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Tranh thủ sự ủng hộ ngay trong lòng nước Mỹ, thông qua các phong trào phản chiến của chính nhân dân Mỹ cũng là một nhiệm vụ quan trọng của mặt trận đối ngoại giai đoạn này. Các đề xuất đàm phán, tính chính nghĩa và thái độ tích cực của Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cũng như những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường, nhất là tại các đô thị lớn, như: Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế… đặt dấu chấm hết cho những ảo tưởng về “chiến thắng” của Mỹ tại Việt Nam, khiến phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ dâng cao hơn bao giờ hết. Ta cũng khéo léo triển khai các biện pháp, như: mời một số nhà báo, phóng viên nước ngoài vào miền Bắc để tận mắt chứng kiến và đưa tin trung thực, khách quan về sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn Mỹ đối với dân thường Việt Nam. Chính những tin tức, hình ảnh, bài viết của các nhà báo đã tạo ra sức mạnh cộng hưởng, tiếp thêm sức mạnh cho các phong trào phản chiến diễn ra ngày càng rầm rộ, sục sôi, quyết liệt với sự tham gia của hàng chục nghìn trí thức, sinh viên và các giới tại nhiều thành phố lớn của Mỹ. Hàng vạn thanh niên Mỹ chống quân dịch. Ngày càng có nhiều Nghị sĩ Mỹ đòi Chính quyền Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh tại Việt Nam và đi vào thương lượng thực chất [5]. Khai thác mâu thuẫn nội bộ Mỹ, ngoại giao ta đã phát huy được thế chính nghĩa, thế thắng của nhân dân ta, đóng góp quyết định trong việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Đã có ý kiến nhận xét rất xác đáng rằng, Mỹ đã thua không chỉ ở Việt Nam mà thua ngay tại nước Mỹ.

Mặt trận ngoại giao cũng đã thành công trong việc tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong giai đoạn các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có những khó khăn, Trung ương Đảng đã rất sáng suốt, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì trao đổi, tranh thủ sự ủng hộ của các nước bạn bè. Sự trao đổi chân thành, kiên định, ở cấp cao đã giúp ta tiếp tục duy trì, đẩy mạnh sự ủng hộ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, cả về vật chất và tinh thần, nhất là trong giai đoạn ta đang tập trung nhân lực, vật lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Góp phần trực tiếp vào thắng lợi trên chiến trường

Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 còn là kết quả của sự kết hợp tài tình mang tính chiến lược giữa thắng lợi trên chiến trường và mặt trận ngoại giao.

Thứ nhất, mặt trận ngoại giao đã nắm bắt kịp thời, hiệu quả thắng lợi chiến lược của Đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy để buộc Mỹ đi vào đàm phán trên cơ sở có lợi cho ta. Đêm ngày 30 và sáng 01 Tết Mậu Thân năm 1968, các lực lượng vũ trang ta đã đồng loạt tiến công địch trên toàn chiến trường miền Nam, đánh thẳng vào rất nhiều cơ sở đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế và nhiều thành phố, thị xã. Ngay trong Đợt 1, ta đã giáng đòn quyết định, buộc Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn ngày 31/3/1968 phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom khu vực Bắc vĩ tuyến 20, “sẵn sàng tiến tới hòa bình thông qua thương lượng” và sẽ cử đại diện Mỹ đến bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào. Tuyên bố này của L. Giôn-xơn chính thức thừa nhận thất bại trong leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc và “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam; đồng thời, cũng là kết quả của quá trình đấu tranh ngoại giao vừa mềm dẻo nhưng hết sức cương quyết trong việc buộc Mỹ đi vào đàm phán theo những điều kiện có lợi cho ta.

Mặc dù Mỹ chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu của ta về chấm dứt ném bom miền Bắc, nhưng ta đã quyết định nắm lấy cơ hội mở ra đàm phán trực tiếp với Mỹ để kiềm chế, kéo Mỹ vừa đàm, vừa xuống thang chiến tranh; đồng thời, giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thiện chí đàm phán, tranh thủ dư luận và bạn bè quốc tế, trước mắt là hỗ trợ các đợt tiếp theo của cuộc tiến công chiến lược, chia lửa với chiến trường. Ngày 03/4/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tuyên bố “sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”. Ta tiếp tục tiến công về ngoại giao, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, chứ không chỉ ngừng phía Bắc vĩ tuyến 20, đồng thời phối hợp với quân và dân ta trên chiến trường để bắt đầu hình thành cục diện đánh - đàm.

Thứ hai, ngoại giao đã tạo sức ép quốc tế đối với Mỹ, nêu cao chính nghĩa để tranh thủ ủng hộ quốc tế đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Trong suốt Đợt 1 của cuộc tiến công chiến lược, các cơ quan ngoại giao và thông tấn của ta thường xuyên tiếp xúc, đưa tin đề cao lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Từ tháng 5/1968, ta chính thức mở mặt trận đấu tranh, đàm phán với Mỹ tại Pa-ri, nơi có sự hiện diện đông đảo của giới ngoại giao và báo chí quốc tế để có thể khuếch trương thắng lợi và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Suốt thời gian diễn ra Đợt 2 và 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, tại bàn đàm phán, ta kiên quyết đấu tranh về việc Mỹ tăng cường chiến tranh ở miền Nam, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom không điều kiện miền Bắc và kiên quyết bác bỏ các đề xuất về khôi phục khu phi quân sự, không bắn pháo vào các thành phố lớn, không tăng chi viện cho chiến tranh Việt Nam. Như vậy, thành công của đấu tranh ngoại giao đã trực tiếp đóng góp cho các thắng lợi trên chiến trường.

Thứ ba, mặt trận ngoại giao đã phát huy thành quả trên chiến trường để buộc Mỹ chính thức xuống thang chiến tranh, công nhận địa vị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc để tiến tới ký Hiệp định Pa-ri lịch sử, tháng 01/1973. Trong suốt quá trình thương lượng từ tháng 5 đến tháng 10/1968, ta đã kiên trì yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc để thay đổi cục diện chiến lược của chiến tranh, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc, chi viện cho miền Nam. Đến ngày 01/11/1968, Mỹ đã tuyên bố chấp nhận ngừng ném bom toàn miền Bắc và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia đàm phán bốn bên. Qua kênh đàm phán tại Pa-ri, Mỹ đã thông báo trước cho ta về nội dung này. Ngày 02/11/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố “Để đi đến một giải pháp chính trị đúng đắn về Việt Nam thì Chính phủ Mỹ phải từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đối với nước Việt Nam”.

Việc ta quyết định chấp nhận đàm phán bốn bên, đồng thời vẫn duy trì kênh đàm phán trực tiếp giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa với Mỹ đã góp phần “trói chân” Mỹ vào đàm phán Pa-ri, phát huy thành quả to lớn của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Điều đó càng có ý nghĩa trong bối cảnh chính quyền R. Ních-xơn mới thắng cử sẽ có điều chỉnh chiến lược đối với chiến tranh tại Việt Nam, song không thể từ bỏ đàm phán. Việc ta buộc Mỹ chấp nhận vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng góp phần phân hóa Mỹ - ngụy do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu kiên quyết chống Mặt trận tham gia đàm phán, khiến chính quyền ngụy hết sức lo ngại về tương lai của chính mình do điều đó mở ra khả năng có một giải pháp chính trị cho miền Nam mà ngụy quyền không phải là lực lượng duy nhất. Việc đạt thỏa thuận về đàm phán bốn bên cũng là minh chứng cho sự đúng đắn về đường lối của Đảng ta khi thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có tác dụng cổ vũ, động viên lớn lao cho toàn thể chiến sĩ, đồng bào miền Nam trong bối cảnh ta gặp nhiều khó khăn về lực lượng, thế đứng chân trong các năm 1969, 1970.

Một số bài học lâu dài

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã trôi qua tròn nửa thế kỷ, song những bài học thành công của nó luôn có giá trị thời sự sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, trong đó có việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:

Một là, thắng lợi của quân và dân ta trong đấu tranh ngoại giao năm 1968 trước tiên xuất phát từ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt và trực tiếp của Đảng, Nhà nước. Việc chuẩn bị thế trận đối ngoại, lập kế hoạch, phát huy kết quả thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đều được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo trực tiếp chỉ đạo, triển khai trong từng giai đoạn.

Hai là, thắng lợi to lớn đó còn cho thấy giá trị lâu dài của việc kết hợp nhuần nhuyễn thế trận quân sự, quốc phòng của đất nước với mặt trận ngoại giao. Mặt trận ngoại giao đã góp phần giữ vững thành quả trên chiến trường bằng những cam kết công khai của đối phương, khuếch trương thắng lợi và tranh thủ sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế. Đồng thời, ngoại giao cũng trực tiếp đóng góp cho chiến thắng và chi viện cho chiến trường.

Ba là, cuộc tiến công chiến lược Mậu Thân và đàm phán Pa-ri trong năm 1968 cũng cho thấy tầm quan trọng của việc nhạy bén theo dõi, đánh giá, nhận định tình hình thế giới, khu vực cũng như tương quan lực lượng của ta. Thắng lợi của nhân dân ta khẳng định, việc đánh giá đúng tình hình, đưa ra phương hướng sách lược chính xác sẽ giúp tranh thủ tối đa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giúp ta có thể đạt được thắng lợi dù tình hình và tương quan không hoàn toàn có lợi cho ta.

Với những bài học đó, thắng lợi của quân và dân ta trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa chiến lược và giá trị thời đại sâu sắc. Mặt trận ngoại giao đã góp phần phát huy thắng lợi trên chiến trường, mở ra đàm phán Pa-ri kéo dài suốt 5 năm, từ đó tạo tiền đề để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những bài học về kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong năm 1968 đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần được phát huy, phát triển và vận dụng sáng tạo, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1 - Bộ Ngoại giao - Cuộc đàm phán lịch sử, Nxb CTQG, H. 2009, tr. 123-124.

2 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 174.

3 - Lưu Văn Lợi - 50 năm ngoại giao Việt Nam, Tập 1, Nxb CAND, H. 1996, tr. 259.

4 - Bộ Ngoại giao - Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 35 năm Hiệp định Pa-ri 1973-2008, Hà Nội.

5 - Bộ Ngoại giao - Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pa-ri về Việt Nam, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 428 - 432.

Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nguồn: Tạp chí QPTD

Page 3

[Bqp.vn] - Giai đoạn 1967 - 1968 là thời kỳ đặc biệt trong cuộc kháng chiến thống nhất đất nước của dân tộc ta. Trong cuộc kháng chiến này, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã phát huy trí tuệ, kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ đi đến Đại thắng mùa Xuân 1975, thu non sông về một mối. Trong mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao luôn song hành, phối hợp nhịp nhàng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc.

Việc đặc biệt chú trọng vai trò của đấu tranh ngoại giao trong những thời khắc quyết định của cuộc kháng chiến; trong đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 có ý nghĩa then chốt, giáng đòn chiến lược, làm thay đổi căn bản cục diện chiến trường. Mặt trận ngoại giao dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã phối hợp chặt chẽ và tạo thế cho tiến công quân sự, đồng thời, phát huy thắng lợi trên chiến trường để đạt những thắng lợi lớn hơn có ý nghĩa chiến lược.

Tạo thế ngoại giao

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ngày càng diễn biến quyết liệt. Sau thất bại trong triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ buộc phải bị động chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến tại miền Nam, ném bom, bắn phá miền Bắc. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, quân và dân ta đã dần làm phá sản chiến lược mới này, trực tiếp là qua những thắng lợi quan trọng đánh bại hai cuộc phản công chiến lược vào hai mùa khô [1965 - 1966 và 1966 - 1967] của Mỹ - ngụy.

Việc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam, ném bom đánh phá miền Bắc, tàn phá và gây rất nhiều tổn thất cho dân thường, đã khiến nhân dân tiến bộ thế giới ngày càng quan ngại. Nhiều nước, nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh, kêu gọi các bên liên quan đi vào đàm phán tìm giải pháp chính trị, ngoại giao. Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Ca-na-đa, Tổng thống Pháp… bày tỏ sẵn sàng làm trung gian hòa giải, đề nghị tôn trọng độc lập, thống nhất của Việt Nam, sớm đi vào thương lượng hòa bình. Để biện minh cho cuộc chiến, Mỹ đã tiến hành một đợt vận động ngoại giao lớn chưa từng có, với việc cử đặc phái viên đi thuyết phục hơn 40 nước, gửi thư cho nguyên thủ của hơn 100 quốc gia [1] và nhiều động thái khác.

Trước tình hình trên, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 [01/1967] nhất trí đẩy mạnh hoạt động đấu tranh ngoại giao, chỉ rõ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. “Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những gì mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động” [2]. Về nhiệm vụ cụ thể, mặt trận ngoại giao đề cao lập trường 04 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tuyên bố 05 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.

Triển khai chỉ đạo đó của Trung ương, ngày 28/01/1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, trong trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài đã tuyên bố “…Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này thì Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mỹ có thể nói chuyện” [3]. Sau đó, Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn [tháng 9/1967] tuyên bố “Mỹ sẵn sàng ngừng mọi hoạt động bắn phá bằng không quân và hải quân trên miền Bắc Việt Nam khi nào sáng kiến này nhanh chóng dẫn tới các cuộc thảo luận có hiệu quả”. Như vậy, bản chất của tuyên bố trên là đòi đàm phán có điều kiện. Để giành thế chủ động, ngoại giao Việt Nam đã đi thêm một nước cờ quyết đoán hơn. Ngày 29/12/1967, Bộ trưởng Ngoại giao ta tuyên bố: “Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về các vấn đề liên quan” [4].

Việc Chính phủ ta chủ động nêu khả năng đàm phán hòa bình là một chiến lược ngoại giao đúng đắn và đúng thời điểm, được đông đảo nhân dân, dư luận quốc tế ủng hộ. Trong đó, việc ta gắn thương lượng với vấn đề Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc cũng làm đậm thêm tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta và làm nổi bật hành động vi phạm chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia độc lập có chủ quyền, được quốc tế công nhận tại Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Các nước xã hội chủ nghĩa, phần lớn các nước không liên kết, các phong trào hòa bình, thậm chí một số nước phương Tây đều lên tiếng mạnh mẽ, tạo sức ép quốc tế rất lớn đối với Mỹ, yêu cầu phải có giải pháp kết thúc chiến tranh.

Mặt khác, việc ta đưa ra tuyên bố quan trọng như trên ngay trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khiến đối phương có phần chủ quan, đánh giá thấp khả năng của ta, bảo đảm yếu tố bí mật cả ở cấp chiến lược và chiến thuật. Qua đó, mặt trận ngoại giao đã góp phần hỗ trợ trực tiếp để quân và dân ta bước vào Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 với sự ủng hộ mạnh mẽ của quốc tế cũng như thế chủ động về chiến lược trên chiến trường.

Mặt trận ngoại giao - sức mạnh cộng hưởng cho thắng lợi trên chiến trường

Một yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là, mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết rộng rãi và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn 1967 - 1968, ta liên tục triển khai các mũi tiến công ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Tính chính nghĩa trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã đặt nền tảng quan trọng giúp tranh thủ được tình cảm của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Sự chủ động của ta trong vận động và đấu tranh đối ngoại giúp làn sóng quốc tế ủng hộ Việt Nam ngày càng dâng cao. Nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đi nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với lãnh đạo và nhiều tầng lớp để làm rõ tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hàng nghìn cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành “Vì Việt Nam” đã diễn ra tại nhiều thủ đô lớn trên thế giới. Sự ủng hộ chí tình của bạn bè quốc tế đối với chiến trường là nguồn cổ vũ, động viên vô giá đối với cán bộ, chiến sĩ ta, góp phần tạo ra niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chính nghĩa và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Tranh thủ sự ủng hộ ngay trong lòng nước Mỹ, thông qua các phong trào phản chiến của chính nhân dân Mỹ cũng là một nhiệm vụ quan trọng của mặt trận đối ngoại giai đoạn này. Các đề xuất đàm phán, tính chính nghĩa và thái độ tích cực của Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cũng như những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường, nhất là tại các đô thị lớn, như: Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế… đặt dấu chấm hết cho những ảo tưởng về “chiến thắng” của Mỹ tại Việt Nam, khiến phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ dâng cao hơn bao giờ hết. Ta cũng khéo léo triển khai các biện pháp, như: mời một số nhà báo, phóng viên nước ngoài vào miền Bắc để tận mắt chứng kiến và đưa tin trung thực, khách quan về sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn Mỹ đối với dân thường Việt Nam. Chính những tin tức, hình ảnh, bài viết của các nhà báo đã tạo ra sức mạnh cộng hưởng, tiếp thêm sức mạnh cho các phong trào phản chiến diễn ra ngày càng rầm rộ, sục sôi, quyết liệt với sự tham gia của hàng chục nghìn trí thức, sinh viên và các giới tại nhiều thành phố lớn của Mỹ. Hàng vạn thanh niên Mỹ chống quân dịch. Ngày càng có nhiều Nghị sĩ Mỹ đòi Chính quyền Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh tại Việt Nam và đi vào thương lượng thực chất [5]. Khai thác mâu thuẫn nội bộ Mỹ, ngoại giao ta đã phát huy được thế chính nghĩa, thế thắng của nhân dân ta, đóng góp quyết định trong việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Đã có ý kiến nhận xét rất xác đáng rằng, Mỹ đã thua không chỉ ở Việt Nam mà thua ngay tại nước Mỹ.

Mặt trận ngoại giao cũng đã thành công trong việc tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong giai đoạn các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có những khó khăn, Trung ương Đảng đã rất sáng suốt, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì trao đổi, tranh thủ sự ủng hộ của các nước bạn bè. Sự trao đổi chân thành, kiên định, ở cấp cao đã giúp ta tiếp tục duy trì, đẩy mạnh sự ủng hộ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, cả về vật chất và tinh thần, nhất là trong giai đoạn ta đang tập trung nhân lực, vật lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Góp phần trực tiếp vào thắng lợi trên chiến trường

Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 còn là kết quả của sự kết hợp tài tình mang tính chiến lược giữa thắng lợi trên chiến trường và mặt trận ngoại giao.

Thứ nhất, mặt trận ngoại giao đã nắm bắt kịp thời, hiệu quả thắng lợi chiến lược của Đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy để buộc Mỹ đi vào đàm phán trên cơ sở có lợi cho ta. Đêm ngày 30 và sáng 01 Tết Mậu Thân năm 1968, các lực lượng vũ trang ta đã đồng loạt tiến công địch trên toàn chiến trường miền Nam, đánh thẳng vào rất nhiều cơ sở đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế và nhiều thành phố, thị xã. Ngay trong Đợt 1, ta đã giáng đòn quyết định, buộc Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn ngày 31/3/1968 phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom khu vực Bắc vĩ tuyến 20, “sẵn sàng tiến tới hòa bình thông qua thương lượng” và sẽ cử đại diện Mỹ đến bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào. Tuyên bố này của L. Giôn-xơn chính thức thừa nhận thất bại trong leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc và “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam; đồng thời, cũng là kết quả của quá trình đấu tranh ngoại giao vừa mềm dẻo nhưng hết sức cương quyết trong việc buộc Mỹ đi vào đàm phán theo những điều kiện có lợi cho ta.

Mặc dù Mỹ chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu của ta về chấm dứt ném bom miền Bắc, nhưng ta đã quyết định nắm lấy cơ hội mở ra đàm phán trực tiếp với Mỹ để kiềm chế, kéo Mỹ vừa đàm, vừa xuống thang chiến tranh; đồng thời, giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thiện chí đàm phán, tranh thủ dư luận và bạn bè quốc tế, trước mắt là hỗ trợ các đợt tiếp theo của cuộc tiến công chiến lược, chia lửa với chiến trường. Ngày 03/4/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tuyên bố “sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”. Ta tiếp tục tiến công về ngoại giao, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, chứ không chỉ ngừng phía Bắc vĩ tuyến 20, đồng thời phối hợp với quân và dân ta trên chiến trường để bắt đầu hình thành cục diện đánh - đàm.

Thứ hai, ngoại giao đã tạo sức ép quốc tế đối với Mỹ, nêu cao chính nghĩa để tranh thủ ủng hộ quốc tế đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Trong suốt Đợt 1 của cuộc tiến công chiến lược, các cơ quan ngoại giao và thông tấn của ta thường xuyên tiếp xúc, đưa tin đề cao lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Từ tháng 5/1968, ta chính thức mở mặt trận đấu tranh, đàm phán với Mỹ tại Pa-ri, nơi có sự hiện diện đông đảo của giới ngoại giao và báo chí quốc tế để có thể khuếch trương thắng lợi và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Suốt thời gian diễn ra Đợt 2 và 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, tại bàn đàm phán, ta kiên quyết đấu tranh về việc Mỹ tăng cường chiến tranh ở miền Nam, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom không điều kiện miền Bắc và kiên quyết bác bỏ các đề xuất về khôi phục khu phi quân sự, không bắn pháo vào các thành phố lớn, không tăng chi viện cho chiến tranh Việt Nam. Như vậy, thành công của đấu tranh ngoại giao đã trực tiếp đóng góp cho các thắng lợi trên chiến trường.

Thứ ba, mặt trận ngoại giao đã phát huy thành quả trên chiến trường để buộc Mỹ chính thức xuống thang chiến tranh, công nhận địa vị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc để tiến tới ký Hiệp định Pa-ri lịch sử, tháng 01/1973. Trong suốt quá trình thương lượng từ tháng 5 đến tháng 10/1968, ta đã kiên trì yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc để thay đổi cục diện chiến lược của chiến tranh, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc, chi viện cho miền Nam. Đến ngày 01/11/1968, Mỹ đã tuyên bố chấp nhận ngừng ném bom toàn miền Bắc và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia đàm phán bốn bên. Qua kênh đàm phán tại Pa-ri, Mỹ đã thông báo trước cho ta về nội dung này. Ngày 02/11/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố “Để đi đến một giải pháp chính trị đúng đắn về Việt Nam thì Chính phủ Mỹ phải từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đối với nước Việt Nam”.

Việc ta quyết định chấp nhận đàm phán bốn bên, đồng thời vẫn duy trì kênh đàm phán trực tiếp giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa với Mỹ đã góp phần “trói chân” Mỹ vào đàm phán Pa-ri, phát huy thành quả to lớn của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Điều đó càng có ý nghĩa trong bối cảnh chính quyền R. Ních-xơn mới thắng cử sẽ có điều chỉnh chiến lược đối với chiến tranh tại Việt Nam, song không thể từ bỏ đàm phán. Việc ta buộc Mỹ chấp nhận vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng góp phần phân hóa Mỹ - ngụy do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu kiên quyết chống Mặt trận tham gia đàm phán, khiến chính quyền ngụy hết sức lo ngại về tương lai của chính mình do điều đó mở ra khả năng có một giải pháp chính trị cho miền Nam mà ngụy quyền không phải là lực lượng duy nhất. Việc đạt thỏa thuận về đàm phán bốn bên cũng là minh chứng cho sự đúng đắn về đường lối của Đảng ta khi thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có tác dụng cổ vũ, động viên lớn lao cho toàn thể chiến sĩ, đồng bào miền Nam trong bối cảnh ta gặp nhiều khó khăn về lực lượng, thế đứng chân trong các năm 1969, 1970.

Một số bài học lâu dài

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã trôi qua tròn nửa thế kỷ, song những bài học thành công của nó luôn có giá trị thời sự sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, trong đó có việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:

Một là, thắng lợi của quân và dân ta trong đấu tranh ngoại giao năm 1968 trước tiên xuất phát từ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt và trực tiếp của Đảng, Nhà nước. Việc chuẩn bị thế trận đối ngoại, lập kế hoạch, phát huy kết quả thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đều được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo trực tiếp chỉ đạo, triển khai trong từng giai đoạn.

Hai là, thắng lợi to lớn đó còn cho thấy giá trị lâu dài của việc kết hợp nhuần nhuyễn thế trận quân sự, quốc phòng của đất nước với mặt trận ngoại giao. Mặt trận ngoại giao đã góp phần giữ vững thành quả trên chiến trường bằng những cam kết công khai của đối phương, khuếch trương thắng lợi và tranh thủ sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế. Đồng thời, ngoại giao cũng trực tiếp đóng góp cho chiến thắng và chi viện cho chiến trường.

Ba là, cuộc tiến công chiến lược Mậu Thân và đàm phán Pa-ri trong năm 1968 cũng cho thấy tầm quan trọng của việc nhạy bén theo dõi, đánh giá, nhận định tình hình thế giới, khu vực cũng như tương quan lực lượng của ta. Thắng lợi của nhân dân ta khẳng định, việc đánh giá đúng tình hình, đưa ra phương hướng sách lược chính xác sẽ giúp tranh thủ tối đa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giúp ta có thể đạt được thắng lợi dù tình hình và tương quan không hoàn toàn có lợi cho ta.

Với những bài học đó, thắng lợi của quân và dân ta trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa chiến lược và giá trị thời đại sâu sắc. Mặt trận ngoại giao đã góp phần phát huy thắng lợi trên chiến trường, mở ra đàm phán Pa-ri kéo dài suốt 5 năm, từ đó tạo tiền đề để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những bài học về kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong năm 1968 đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần được phát huy, phát triển và vận dụng sáng tạo, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1 - Bộ Ngoại giao - Cuộc đàm phán lịch sử, Nxb CTQG, H. 2009, tr. 123-124.

2 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 174.

3 - Lưu Văn Lợi - 50 năm ngoại giao Việt Nam, Tập 1, Nxb CAND, H. 1996, tr. 259.

4 - Bộ Ngoại giao - Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 35 năm Hiệp định Pa-ri 1973-2008, Hà Nội.

5 - Bộ Ngoại giao - Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pa-ri về Việt Nam, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 428 - 432.

Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nguồn: Tạp chí QPTD

Page 4

[Bqp.vn] - Giai đoạn 1967 - 1968 là thời kỳ đặc biệt trong cuộc kháng chiến thống nhất đất nước của dân tộc ta. Trong cuộc kháng chiến này, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã phát huy trí tuệ, kế thừa truyền thống chống giặc ngoại xâm của cha ông, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ đi đến Đại thắng mùa Xuân 1975, thu non sông về một mối. Trong mỗi giai đoạn của cuộc kháng chiến, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao luôn song hành, phối hợp nhịp nhàng, tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc.

Việc đặc biệt chú trọng vai trò của đấu tranh ngoại giao trong những thời khắc quyết định của cuộc kháng chiến; trong đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân năm 1968 có ý nghĩa then chốt, giáng đòn chiến lược, làm thay đổi căn bản cục diện chiến trường. Mặt trận ngoại giao dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã phối hợp chặt chẽ và tạo thế cho tiến công quân sự, đồng thời, phát huy thắng lợi trên chiến trường để đạt những thắng lợi lớn hơn có ý nghĩa chiến lược.

Tạo thế ngoại giao

Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 diễn ra trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ngày càng diễn biến quyết liệt. Sau thất bại trong triển khai chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ buộc phải bị động chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến tại miền Nam, ném bom, bắn phá miền Bắc. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, quân và dân ta đã dần làm phá sản chiến lược mới này, trực tiếp là qua những thắng lợi quan trọng đánh bại hai cuộc phản công chiến lược vào hai mùa khô [1965 - 1966 và 1966 - 1967] của Mỹ - ngụy.

Việc Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt Nam, ném bom đánh phá miền Bắc, tàn phá và gây rất nhiều tổn thất cho dân thường, đã khiến nhân dân tiến bộ thế giới ngày càng quan ngại. Nhiều nước, nhiều nhân vật nổi tiếng thế giới đã yêu cầu chấm dứt chiến tranh, kêu gọi các bên liên quan đi vào đàm phán tìm giải pháp chính trị, ngoại giao. Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Thủ tướng Ca-na-đa, Tổng thống Pháp… bày tỏ sẵn sàng làm trung gian hòa giải, đề nghị tôn trọng độc lập, thống nhất của Việt Nam, sớm đi vào thương lượng hòa bình. Để biện minh cho cuộc chiến, Mỹ đã tiến hành một đợt vận động ngoại giao lớn chưa từng có, với việc cử đặc phái viên đi thuyết phục hơn 40 nước, gửi thư cho nguyên thủ của hơn 100 quốc gia [1] và nhiều động thái khác.

Trước tình hình trên, Hội nghị Trung ương lần thứ 13 [01/1967] nhất trí đẩy mạnh hoạt động đấu tranh ngoại giao, chỉ rõ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền Nam là nhân tố quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. “Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những gì mà chúng ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế hiện nay, với tính chất cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động” [2]. Về nhiệm vụ cụ thể, mặt trận ngoại giao đề cao lập trường 04 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tuyên bố 05 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của các nước anh em, bạn bè yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, kể cả nhân dân Mỹ.

Triển khai chỉ đạo đó của Trung ương, ngày 28/01/1967, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, trong trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài đã tuyên bố “…Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Chỉ sau khi Mỹ thực hiện điều này thì Việt Nam Dân chủ cộng hòa và Mỹ có thể nói chuyện” [3]. Sau đó, Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn [tháng 9/1967] tuyên bố “Mỹ sẵn sàng ngừng mọi hoạt động bắn phá bằng không quân và hải quân trên miền Bắc Việt Nam khi nào sáng kiến này nhanh chóng dẫn tới các cuộc thảo luận có hiệu quả”. Như vậy, bản chất của tuyên bố trên là đòi đàm phán có điều kiện. Để giành thế chủ động, ngoại giao Việt Nam đã đi thêm một nước cờ quyết đoán hơn. Ngày 29/12/1967, Bộ trưởng Ngoại giao ta tuyên bố: “Sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống lại miền Bắc Việt Nam. Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẽ nói chuyện với Mỹ về các vấn đề liên quan” [4].

Việc Chính phủ ta chủ động nêu khả năng đàm phán hòa bình là một chiến lược ngoại giao đúng đắn và đúng thời điểm, được đông đảo nhân dân, dư luận quốc tế ủng hộ. Trong đó, việc ta gắn thương lượng với vấn đề Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc cũng làm đậm thêm tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta và làm nổi bật hành động vi phạm chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia độc lập có chủ quyền, được quốc tế công nhận tại Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954. Các nước xã hội chủ nghĩa, phần lớn các nước không liên kết, các phong trào hòa bình, thậm chí một số nước phương Tây đều lên tiếng mạnh mẽ, tạo sức ép quốc tế rất lớn đối với Mỹ, yêu cầu phải có giải pháp kết thúc chiến tranh.

Mặt khác, việc ta đưa ra tuyên bố quan trọng như trên ngay trước cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, khiến đối phương có phần chủ quan, đánh giá thấp khả năng của ta, bảo đảm yếu tố bí mật cả ở cấp chiến lược và chiến thuật. Qua đó, mặt trận ngoại giao đã góp phần hỗ trợ trực tiếp để quân và dân ta bước vào Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 với sự ủng hộ mạnh mẽ của quốc tế cũng như thế chủ động về chiến lược trên chiến trường.

Mặt trận ngoại giao - sức mạnh cộng hưởng cho thắng lợi trên chiến trường

Một yếu tố quan trọng làm nên thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là, mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết rộng rãi và ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Trong giai đoạn 1967 - 1968, ta liên tục triển khai các mũi tiến công ngoại giao để tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Tính chính nghĩa trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã đặt nền tảng quan trọng giúp tranh thủ được tình cảm của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Sự chủ động của ta trong vận động và đấu tranh đối ngoại giúp làn sóng quốc tế ủng hộ Việt Nam ngày càng dâng cao. Nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đi nhiều nước trên thế giới, tiếp xúc với lãnh đạo và nhiều tầng lớp để làm rõ tính chính nghĩa của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Hàng nghìn cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành “Vì Việt Nam” đã diễn ra tại nhiều thủ đô lớn trên thế giới. Sự ủng hộ chí tình của bạn bè quốc tế đối với chiến trường là nguồn cổ vũ, động viên vô giá đối với cán bộ, chiến sĩ ta, góp phần tạo ra niềm tin tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự chính nghĩa và thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến.

Tranh thủ sự ủng hộ ngay trong lòng nước Mỹ, thông qua các phong trào phản chiến của chính nhân dân Mỹ cũng là một nhiệm vụ quan trọng của mặt trận đối ngoại giai đoạn này. Các đề xuất đàm phán, tính chính nghĩa và thái độ tích cực của Việt Nam Dân chủ cộng hòa, cũng như những thắng lợi liên tiếp trên chiến trường, nhất là tại các đô thị lớn, như: Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế… đặt dấu chấm hết cho những ảo tưởng về “chiến thắng” của Mỹ tại Việt Nam, khiến phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ dâng cao hơn bao giờ hết. Ta cũng khéo léo triển khai các biện pháp, như: mời một số nhà báo, phóng viên nước ngoài vào miền Bắc để tận mắt chứng kiến và đưa tin trung thực, khách quan về sự tàn phá khủng khiếp của bom đạn Mỹ đối với dân thường Việt Nam. Chính những tin tức, hình ảnh, bài viết của các nhà báo đã tạo ra sức mạnh cộng hưởng, tiếp thêm sức mạnh cho các phong trào phản chiến diễn ra ngày càng rầm rộ, sục sôi, quyết liệt với sự tham gia của hàng chục nghìn trí thức, sinh viên và các giới tại nhiều thành phố lớn của Mỹ. Hàng vạn thanh niên Mỹ chống quân dịch. Ngày càng có nhiều Nghị sĩ Mỹ đòi Chính quyền Mỹ chấm dứt ngay chiến tranh tại Việt Nam và đi vào thương lượng thực chất [5]. Khai thác mâu thuẫn nội bộ Mỹ, ngoại giao ta đã phát huy được thế chính nghĩa, thế thắng của nhân dân ta, đóng góp quyết định trong việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ Việt Nam chống Mỹ. Đã có ý kiến nhận xét rất xác đáng rằng, Mỹ đã thua không chỉ ở Việt Nam mà thua ngay tại nước Mỹ.

Mặt trận ngoại giao cũng đã thành công trong việc tranh thủ sự ủng hộ mạnh mẽ và sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Trong giai đoạn các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế có những khó khăn, Trung ương Đảng đã rất sáng suốt, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì trao đổi, tranh thủ sự ủng hộ của các nước bạn bè. Sự trao đổi chân thành, kiên định, ở cấp cao đã giúp ta tiếp tục duy trì, đẩy mạnh sự ủng hộ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc, cả về vật chất và tinh thần, nhất là trong giai đoạn ta đang tập trung nhân lực, vật lực cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy.

Góp phần trực tiếp vào thắng lợi trên chiến trường

Thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 còn là kết quả của sự kết hợp tài tình mang tính chiến lược giữa thắng lợi trên chiến trường và mặt trận ngoại giao.

Thứ nhất, mặt trận ngoại giao đã nắm bắt kịp thời, hiệu quả thắng lợi chiến lược của Đợt 1 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy để buộc Mỹ đi vào đàm phán trên cơ sở có lợi cho ta. Đêm ngày 30 và sáng 01 Tết Mậu Thân năm 1968, các lực lượng vũ trang ta đã đồng loạt tiến công địch trên toàn chiến trường miền Nam, đánh thẳng vào rất nhiều cơ sở đầu não của địch ở Sài Gòn, Huế và nhiều thành phố, thị xã. Ngay trong Đợt 1, ta đã giáng đòn quyết định, buộc Tổng thống Mỹ L. Giôn-xơn ngày 31/3/1968 phải tuyên bố đơn phương ngừng ném bom khu vực Bắc vĩ tuyến 20, “sẵn sàng tiến tới hòa bình thông qua thương lượng” và sẽ cử đại diện Mỹ đến bất cứ nơi đâu, vào bất cứ lúc nào. Tuyên bố này của L. Giôn-xơn chính thức thừa nhận thất bại trong leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc và “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam; đồng thời, cũng là kết quả của quá trình đấu tranh ngoại giao vừa mềm dẻo nhưng hết sức cương quyết trong việc buộc Mỹ đi vào đàm phán theo những điều kiện có lợi cho ta.

Mặc dù Mỹ chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu của ta về chấm dứt ném bom miền Bắc, nhưng ta đã quyết định nắm lấy cơ hội mở ra đàm phán trực tiếp với Mỹ để kiềm chế, kéo Mỹ vừa đàm, vừa xuống thang chiến tranh; đồng thời, giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thiện chí đàm phán, tranh thủ dư luận và bạn bè quốc tế, trước mắt là hỗ trợ các đợt tiếp theo của cuộc tiến công chiến lược, chia lửa với chiến trường. Ngày 03/4/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa tuyên bố “sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”. Ta tiếp tục tiến công về ngoại giao, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, chứ không chỉ ngừng phía Bắc vĩ tuyến 20, đồng thời phối hợp với quân và dân ta trên chiến trường để bắt đầu hình thành cục diện đánh - đàm.

Thứ hai, ngoại giao đã tạo sức ép quốc tế đối với Mỹ, nêu cao chính nghĩa để tranh thủ ủng hộ quốc tế đối với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Trong suốt Đợt 1 của cuộc tiến công chiến lược, các cơ quan ngoại giao và thông tấn của ta thường xuyên tiếp xúc, đưa tin đề cao lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Từ tháng 5/1968, ta chính thức mở mặt trận đấu tranh, đàm phán với Mỹ tại Pa-ri, nơi có sự hiện diện đông đảo của giới ngoại giao và báo chí quốc tế để có thể khuếch trương thắng lợi và tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Suốt thời gian diễn ra Đợt 2 và 3 của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, tại bàn đàm phán, ta kiên quyết đấu tranh về việc Mỹ tăng cường chiến tranh ở miền Nam, yêu cầu Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom không điều kiện miền Bắc và kiên quyết bác bỏ các đề xuất về khôi phục khu phi quân sự, không bắn pháo vào các thành phố lớn, không tăng chi viện cho chiến tranh Việt Nam. Như vậy, thành công của đấu tranh ngoại giao đã trực tiếp đóng góp cho các thắng lợi trên chiến trường.

Thứ ba, mặt trận ngoại giao đã phát huy thành quả trên chiến trường để buộc Mỹ chính thức xuống thang chiến tranh, công nhận địa vị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tạo nền tảng vững chắc để tiến tới ký Hiệp định Pa-ri lịch sử, tháng 01/1973. Trong suốt quá trình thương lượng từ tháng 5 đến tháng 10/1968, ta đã kiên trì yêu cầu Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc để thay đổi cục diện chiến lược của chiến tranh, tạo điều kiện xây dựng miền Bắc, chi viện cho miền Nam. Đến ngày 01/11/1968, Mỹ đã tuyên bố chấp nhận ngừng ném bom toàn miền Bắc và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia đàm phán bốn bên. Qua kênh đàm phán tại Pa-ri, Mỹ đã thông báo trước cho ta về nội dung này. Ngày 02/11/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố “Để đi đến một giải pháp chính trị đúng đắn về Việt Nam thì Chính phủ Mỹ phải từ bỏ âm mưu can thiệp và xâm lược đối với nước Việt Nam”.

Việc ta quyết định chấp nhận đàm phán bốn bên, đồng thời vẫn duy trì kênh đàm phán trực tiếp giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa với Mỹ đã góp phần “trói chân” Mỹ vào đàm phán Pa-ri, phát huy thành quả to lớn của Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Điều đó càng có ý nghĩa trong bối cảnh chính quyền R. Ních-xơn mới thắng cử sẽ có điều chỉnh chiến lược đối với chiến tranh tại Việt Nam, song không thể từ bỏ đàm phán. Việc ta buộc Mỹ chấp nhận vai trò của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng góp phần phân hóa Mỹ - ngụy do chính quyền Nguyễn Văn Thiệu kiên quyết chống Mặt trận tham gia đàm phán, khiến chính quyền ngụy hết sức lo ngại về tương lai của chính mình do điều đó mở ra khả năng có một giải pháp chính trị cho miền Nam mà ngụy quyền không phải là lực lượng duy nhất. Việc đạt thỏa thuận về đàm phán bốn bên cũng là minh chứng cho sự đúng đắn về đường lối của Đảng ta khi thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, có tác dụng cổ vũ, động viên lớn lao cho toàn thể chiến sĩ, đồng bào miền Nam trong bối cảnh ta gặp nhiều khó khăn về lực lượng, thế đứng chân trong các năm 1969, 1970.

Một số bài học lâu dài

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã trôi qua tròn nửa thế kỷ, song những bài học thành công của nó luôn có giá trị thời sự sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, trong đó có việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, được thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:

Một là, thắng lợi của quân và dân ta trong đấu tranh ngoại giao năm 1968 trước tiên xuất phát từ sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt và trực tiếp của Đảng, Nhà nước. Việc chuẩn bị thế trận đối ngoại, lập kế hoạch, phát huy kết quả thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đều được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo trực tiếp chỉ đạo, triển khai trong từng giai đoạn.

Hai là, thắng lợi to lớn đó còn cho thấy giá trị lâu dài của việc kết hợp nhuần nhuyễn thế trận quân sự, quốc phòng của đất nước với mặt trận ngoại giao. Mặt trận ngoại giao đã góp phần giữ vững thành quả trên chiến trường bằng những cam kết công khai của đối phương, khuếch trương thắng lợi và tranh thủ sự ủng hộ to lớn về vật chất và tinh thần của bạn bè quốc tế. Đồng thời, ngoại giao cũng trực tiếp đóng góp cho chiến thắng và chi viện cho chiến trường.

Ba là, cuộc tiến công chiến lược Mậu Thân và đàm phán Pa-ri trong năm 1968 cũng cho thấy tầm quan trọng của việc nhạy bén theo dõi, đánh giá, nhận định tình hình thế giới, khu vực cũng như tương quan lực lượng của ta. Thắng lợi của nhân dân ta khẳng định, việc đánh giá đúng tình hình, đưa ra phương hướng sách lược chính xác sẽ giúp tranh thủ tối đa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giúp ta có thể đạt được thắng lợi dù tình hình và tương quan không hoàn toàn có lợi cho ta.

Với những bài học đó, thắng lợi của quân và dân ta trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 có ý nghĩa chiến lược và giá trị thời đại sâu sắc. Mặt trận ngoại giao đã góp phần phát huy thắng lợi trên chiến trường, mở ra đàm phán Pa-ri kéo dài suốt 5 năm, từ đó tạo tiền đề để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Những bài học về kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự trong năm 1968 đến nay vẫn còn nguyên giá trị, cần được phát huy, phát triển và vận dụng sáng tạo, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

1 - Bộ Ngoại giao - Cuộc đàm phán lịch sử, Nxb CTQG, H. 2009, tr. 123-124.

2 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 28, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 174.

3 - Lưu Văn Lợi - 50 năm ngoại giao Việt Nam, Tập 1, Nxb CAND, H. 1996, tr. 259.

4 - Bộ Ngoại giao - Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 35 năm Hiệp định Pa-ri 1973-2008, Hà Nội.

5 - Bộ Ngoại giao - Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pa-ri về Việt Nam, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 428 - 432.

Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nguồn: Tạp chí QPTD

Video liên quan

Chủ Đề