Đề ôn văn bản Chuyện người con gái Nam Xương

Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.

Phân tích vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương.

Vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương cũng là vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp ấy đã được khẳng định ngay từ lời mở đầu truyện và được làm sáng tỏ qua nhiều mối quan hệ của nhân vật, trong nhiều tình huống cụ thể.

Cần phân tích và chứng minh những vỏ đẹp tâm hồn của Vũ Nương qua các tình huống:

– Khi mới lấy chồng, trong cuộc sống vợ chồng bình thường.

– Khi tiễn chồng đi lính.

– Khi xa chồng.

– Khi bị chồng nghi oan.

– Cả khi đã ở dưới thuỷ cung.

Cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi nhưng nàng dã làm tròn bổn phận của một người phụ nữ. Một người vợ thuỷ chung, một người mẹ hiền, một nàng dâu hiếu thuận. Đó là người phụ nữ lí tưởng của gia đình, nàng rất xứng đáng được hưởng hạnh phúc, vậy mà đã phải chịu số phận bi thảm. Ngay cả khi đã là người của cỏi khác, Vũ Nương vẫn không mất đi những phẩm chất tốt đẹp. Khẳng định phẩm chất tốt dẹp cùa Vũ Nương, Nguyên Dữ đã thể hiện những tình cảm nhân văn sâu sắc của mình: Yêu thương, trân trọng, ngợi ca người phụ nữ.

Theo em, những nguyên nhân nào đã khiến một phụ nữ dung hạnh vẹn toàn như Vũ Nương phải tìm đến cái chết thê thảm?

Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân trực tiếp là những lời nói ngây thơ của bé Đản cùng chiếc bóng trên vách. Nhưng nguyên nhân sâu xa và chủ yếu đó là người chồng đa nghi, thô bạo, không có học. Ngày trở về, lòng đã nặng nề vì mẹ mất, lại thêm tình huống bất ngờ với những lời nói của bé Đản chứa đầy những dữ kiện đáng ngờ, khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ mà xử sự hồ đồ và độc đoán. Lễ giáo phong kiến hà khắc cũng như thêm đổ dầu vào lửa ghen tuông của Trương Sinh. Cuộc hôn nhân không bình đẳng, Vũ Nương là con kẻ khó, Trương Sinh con nhà hào phú, điều đó cũng góp phần làm tăng thêm thái độ tàn tệ, rẻ rúng cảu Trương Sinh với Vũ Nương. Nó gây nên cảnh sinh li rồi góp phần dẫn đến cảnh tử biệt của họ. Như vậy, không phải lời nói ngây thơ của đứa trẻ hay chiếc bóng trên vách giết chết Vũ Nương là cái bóng đen trong tâm hồn Trương Sinh, cái bóng đen của các thế lực hắc ám trong xã hội ấy đã giết chết Vũ Nương.

Chiếc bóng trên vách là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong truyện. Hãy làm rõ cái hay của chi tiết đó.

Chiếc bóng trên vách là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Chuyện người con gái Nam Xương. Nó là đầu mối của câu chuyện, là sự trung tâm khái quát hóa, hình tượng hóa tấm lòng, sự ngộ nhận, hiểu lầm của ba nhân vật – người vợ, đứa con, người chồng. Chiếc bóng đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm là chiếc bõng của Trương Sinh mà bé Đản bảo là cha, để rồi Trương Sinh hiểu ra vợ mình đã bị oan. Giấu chi tiết này xuống phần mở nút, tác giả gây bất ngờ, boàng hoàng cho người đọc. Chiếc bóng ấy là cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi của người vợ trẻ khi xa chồng. Nó còn là vẻ đẹp tâm hồn, cái tình của Vũ Nương, đó là lòng nhớ thương, chung thủy là khát khao sự sum họp đoàn tụ, là tình thương con của người mẹ, muốn bù đắp cho con sự thiếu vắng tình cha. Đó là trò đùa trong thương nhớ, là sự nói dối đầy thiện chí và yêu thương. Nó gợi sự gắn bó như hình với bóng vậy mà nó lại là con dao chia cắt, dẫn tới cái chết oan uổng của người vợ trẻ. Sự ngộ nhận của đứa trẻ ngây thơ, sự hiểu lầm của người chồng, tất cả diễn ra tự nhiên, hợp lý. Nhưng sự ghen tuông quá mức và tàn nhẫn đã dẫn đến thảm kịch. Để Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ từ chiếc bóng của mình cũng là hợp lý. Chiếc bóng gây ra nỗi kỳ oan và chính nó giải oan cho Vũ Nương. Trương Sinh thanh toán được nỗi đau về lòng chung thủy của vợ thì giờ lại phải chịu nỗi đau giày vò mới lớn hơn vì đã nghi oan cho vợ, khiến vợ phải chết.

Câu chuyện khiến ta nghĩ tới số phận nhỏ nhoi, mong manh, đáng thương của người phụ nữa trong xã hội xưa. Họ có thể bị nghi oan vì bất cứ lý do gì mà không thể lường trước được và không có cách gì giải tỏ, không được bênh vực, chở che, chỉ có cái chết mới giải thoát cho họ. Mà nhiều khi gây nên bi kịch ấy chẳng phải ai khác, lại là chính những người họ yêu thương, gắn bó

Lấy cái bóng của người để khái quát bi kịch của con người là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo hiếm thấy. Cảm hứng phê phán và cảm hứng ngợi ca của tác giả được kết tinh ở chi tiết này.

Em có ý kiến gì về chi tiết kì ảo kết thúc tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương?

Chi tiết kỳ ảo cuối cùng trong truyện là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương hiện về, ngồi trên kiệu hoa, theo sau có đến năm mươi cỗ xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, nhưng chỉ ở giữa dòng sông nói vòng vào lời từ biệt, trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất. Chi tiết này góp phần hoàn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách Vũ Nương, trước sau nàng vẫn là người đức hạnh, thủy chung, vị tha. Nàng vô tội, nên đã được tiên cứu và ở thế giới ấy nàng đã được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Đây là một kết thúc có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân: người tốt sẽ được đền trả, oan sẽ được giải. Song nó không làm mất đi sắc thái bi kịch của câu chuyện. Tất cả chỉ là ảo ảnh trong thoáng chốc, chia lìa là vĩnh viễn, hạnh phúc mất đi không thể lấy lại được nữa. Nỗi oan khổ của người phụ nữ khống hóa giải được. Giấc mơ cũng là lời cảnh tỉnh. Lời từ biệt ngậm ngùi của Vũ Nương như một lời tố cáo cái nhân gian phong kiến ngày xưa không có đất sống cho người phụ nữ. Giá trị tố cáo và ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm thêm sâu sắc qua chi tiết kết thúc này.

“ Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.”

a. Những câu văn trên trích từ tác phẩm nào? Và đó là lời của ai nói với ai? Nói trong hoàn cảnh nào?

b. Qua những lời nói đó, em hiểu gì về số phận bi kịch cũng như vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật?

c. Cũng viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, chương trình Ngữ văn lớp 8 và lớp 9 còn có những tác phẩm nào? Kể ra ít nhất hai tác phẩm và ghi rõ tên tác giả.

a/ Những câu văn đó được rút ra từ Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Đó là lời của Vũ Nương nói với Trương Sinh- câu nói của thủy nữ tiên với người trần gian. Bởi lúc này, Vũ Nương đã là tiên nữ sống dưới thủy cung. Theo lời hẹn ước, Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng trên bên Hoàng Giang để mong gặp lại vợ, Vũ Nương cũng đã trở về, nàng ngồi trên kiệu hoa đứng giữa dòng mà nói vọng vào những lời như thế rồi “ bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.”

b/ Là nhà văn nhân đạo, Nguyễn Dữ không muốn những người đức hạnh, nết na như Vũ Nương bị chết. Song, hiện thực là hiện thực. Vũ Nương đã chết! Để minh oan và đền đáp sự ngay thẳng, trong sạch, lòng hiếu thảo, thủy chung của nàng, tác giả đã tưởng tượng ra sự hồi linh của nàng – nàng đã được tiên nữ cứu vớt, đưa về tiên đảo sống. Và ông đã tưởng tượng sáng tạo cảnh hội ngộ với Trương Sinh. Tái hợp cũng là nguyện vọng của nhân dân. Cái tài của Nguyễn Dữ là ông đã dung hòa được hiện thực với ước mơ, cái tồn tại và cái ảo ảnh. Nàng trở về dương thế nhưng chỉ hiện ra ở giữa dòng mà nói vọng vào “ thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa ”. Ảo ảnh chỉ chập chờn và mau chóng tan biến. Chia lìa là vĩnh viễn, bởi người chết rồi không thể nào sống lại. Chỉ còn lại hiện thực cay đắng: đứa trẻ mồ côi, người chồng cô đơn. Rõ ràng qua những câu nói đó của Vũ Nương, ta thấy số phận của nguoi phụ nữ trong xã hội xưa thật bất hạnh, mặc dù họ là những người có phẩm giá tốt đẹp,đức hạnh, nết na.

c/ Cũng viết về người phụ nữa trong xã hội xưa, văn học trung đại còn có các tác phẩm: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Bánh trôi nước cảu Hồ Xuân Hương,…

Trong tác phẩm văn học có những chi tiết rất quan trọng, không có chi tiết ấy, cốt truyện không phát triển được. Em hãy lựa chọn một chi tiết như thế trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ bằng một đoạn văn ngắn [khoảng 10 câu] hãy nói rõ ý nghĩa của chi tiết đó.

Trong Chuyện người con gái Nam Xương đó là chi tiết cái bóng trên vách – cái bóng của Trương Sinh khi bé Đản nhận ra và nói cha nó.

Phân tích ý nghĩa của chi tiết này trong một đoạn khoảng mười câu. Cần chú ý hiệu quả nghệ thuật của chi tiết này khi tác giả giấu nó xuống phần mở nút câu chuyện. Chi tiết này không những có vai trò quan trọng làm cho câu chuyện phát triển mà còn tạo nên sức hấp dẫn, sức ám ảnh của câu chuyện.

Năm học 2018-2019, ban biên tập xin tổng hợp các chuyên đề luyện thi vào 10 hai môn Văn, Toán với những câu hỏi thường gặp trong đề thi vào THPT để giúp các bạn học sinh lớp 9 ôn thi thuận lợi nhất.

Chuyên đề 1: CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG – NGUYỄN DỮ

I. Tìm hiểu chung:

1. Tác giả:

– Nguyễn Dữ người huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.

– Ông là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

– Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, “dông bão nổ trăm miền”, xã hội là cái “vực thẳm đời nhân loại” chỉ thấy “bóng tối đùn ra trận gió đen”, nên sau khi đỗ hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hình thức bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp thời.

2. Tác phẩm:

a. “Truyền kì mạn lục”:

– Là ghi chép tản mạn về những điều kì lạ vẫn được lưu truyền.

– Viết bằng chữ Hán, được xem là “Thiên cổ kì bút” [ áng văn hay ngàn đời ].

– Gồm 20 truyện, đề tài phong phú.

– Nhân vật:

+ Nhân vật chính thường là những người phụ nữ đức hạnh, khao khát sống cuộc sống yên bình , hạnh phúc, nhưng lại bị những thế lực tàn bạo và lễ giáo phong kiến nghiệt ngã đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, bi thương, bất hạnh vì oan khuất.

+ Hoặc một kiểu nhân vật khác, những trí thức tâm huyết với cuộc đời nhưng bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi,sống ẩn dật để giữ được cốt cách thanh cao.

b. Văn bản:

– “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyền thứ 16, có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”.

– So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, “Chuyện người con gái Nam Xương” phức tạp hơn về tình tiết và sâu sắc hơn về cảm hứng nhân văn.

3. Tóm tắt văn bản:

“Chuyện người con gái Nam Xương” viết về một cuộc đời, một số phận đầy oan khuất của một thiếu phụ tên là Vũ Thị Thiết. Đó là người con gái thùy mị, nết na, đức hạnh và xinh đẹp. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ.Để dỗ con, tối tối, nàng thường chỉ bóng mình trên tường mà bảo đó là cha nó.Khi Trương Sinh về, lúc đó mẹ già đã mất, đứa con bấy giờ đang tập nói, ngây thơ kể với chàng về người đêm đêm vẫn đến nhà chàng. Sẵn có tính hay ghen, nay thêm hiểu lầm, Trương Sinh mắng nhiếc đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Nương chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn,chàng lập đàn giải oan cho nàng.

4. Bố cục: 3 phần:

– Phần 1: Từ đầu đến…”lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”:Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương.

– Phần 2: Tiếp đến …”nhưng việc trót đã qua rồi!” : Nỗi oan của Vũ Nương.

– Phần 3: Còn lại : Vũ Nương được giải oan.

II. Đọc – hiểu văn bản:

1. Nhân vật Vũ Nương:

a. Vẻ đẹp phẩm chất:

– Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo.

–  Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.

* Trước hết Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắc trong tình nghĩa vợ chồng:

– Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui.Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực!

– Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo đượchai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ước mong của nàng thật bình dị, lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phảichịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”.Qua lời nói dịu dàng,nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

–  Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủychung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưahề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:

                                 “… Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằngtrời

                                      Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

                                      Nỗi nhớ chàng đau đáu nàoxong…”

                                                              [Chinh phụ ngâm]

=> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.

–  Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả  thân phận và tấm lòng của mình để  thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ  khó được nương tựa nhà giàu…..cách biệt ba năm giữ  gìn một tiết…..”  Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ  trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của VũNương.

– Rồi những năm tháng sống ở  chốn làng mây cung nước sung sướng nàng vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng  con. Vừa  gặp lại  Phan  lang, nghe  Lang  kể về  tình  cảnh gia  đình  nàng đã  ứa  nước mắt  xót thương. Mặc dù đã nặng lời thề sống chết với Linh Phi nhưng nàng vẫn tìm cách trở về với chồng con trong giây lát để  nói lời đa tạ  tấm lòng chồng. Rõ ràng trong trái tim người phụ  nữ ấy, không gợn chút thù hận, chỉ có sự yêu thương và lòng vị tha.

*  Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo với mẹ  chồng, một người mẹ  hiền đầy tình yêu thương con.

–  Trong  ba  năm chồng đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ  để chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạy con thơ.

–  Với mẹ  chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo.Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ  bái thần phật và lấy những lời khôn khéođể  khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớthương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ”.

–  Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ : để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.

=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.

b. Số phận oan nghiệt, bất hạnh:

* Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do.

– Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng.

* Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:

– Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân củachế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến , củacuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc,cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và đứa con còn chưa ra đời. Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình, thay chồng phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng triền miên theo năm tháng.

– Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.

* Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, bản thân phải tìm đến cái chết.

– Là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn.

– Nghe lời ngây thơ của con trẻ Trương Sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.

– Vũ Nương đau đớn vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người chồng mà mình yêu thương.

– Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc đời đầy đau khổ, oan nghiệt.

* Cái kết thúc tưởng là có hậu hoá ra cũng chỉ đậm tô thêm tính chất bi kịch trong thân phậnVũ  Nương.

– Lược thuật lại kết thúc tác phẩm.

– Phân tích:

+ Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơước của tác giả về một kết thúc tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khaomột cuộc sống công bằng nới cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.

+ Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương hiện về uy nghi, rực rỡ nhưng đó chỉ là sự hiển linh trong thoáng chốc, là ảo ảnh ngắn ngủi và xa xôi. Sau giây phút đó nàng vẫn phải về chốn làng mây cung nước, vợ chồng con cái vẫn âm dương đôi ngả. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn bà ấy là được sum họp bên chồng bên con cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau này không có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân gian được nữa”.

=> Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.

=> Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.

? Câu hỏi: Theo em, những lí do nào đã dẫn đến bi kịch oan khuất mà VũNương phải chịu?

=> Gợi ý:

– Gây nên nỗi oan nghiệt trong cuộc đời Vũ Nương trước hết là lời nói ngây thơ của con trẻ nhưng sau đó là là tính ghen tuông của người chồng đa nghi vũ phu. Lời con trẻ thì ngây thơ vô tội nhưng lòng  ghen tuông của người lớn thì cố vin theo để hắt hủi, ruồng rẫy cho hả dạ. [Trực tiếp]

– Nhưng nói cho cùng Trương Sinh phũ phàng với vợ là do bản tính anh ta vốn vậy và còn vì đằng sau anh ta có sự hậu thuẫn của cả một chế độ nắm quyền trọng nam khinh nữ. Lễ giáo phong kiến hà khắc cho người đàn ông quyền hành vô độ với gia đình mình đặc biệt là với người phụ nữ cho nên không phảingẫu nhiên Hồ Xuân Hương đã so sánh phụ nữ với chiếc bánh trôi nước “rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” bởi lẽ trong xã hội nam quyền ấy thì đàn ông quả thực làthượng đế có thể “nặn” ra hình dáng cuộc đời của người phụ nữ. Trương Sinh đã là một tội nhân bức tử Vũ Nương nhưng cuối cùng y vẫn vô can ngay cả khi nỗi oan khiên cuả Vũ Nương đã được làm sáng tỏ. [Gián tiếp]

– Ngoài ra cũng còn phải tính đến nhân tố khác cấu thành bi kịch Vũ Nương đó là chiến tranh phong kiến, chính chiến tranh phong kiến đã gây nên cảnh sinh li và sau đó góp phần tạo nên cảnh tử biệt. Nếu không có cảnh chiến tranh loạn li thì sẽ không xảy ra tình huống chia cách để rồi dẫn đến bi kịch oan khuất trên.[Gián tiếp]

– Liên hệ với thời điểm ra đời của tác phẩm là thế kỉ XVI khi chiến tranh phi nghĩa giữa các tập đoàn phong kiến Trịnh – Mạc, Lê – Trịnh kéo dài liên miên gây nên bao thảm cảnh sẽ thấy ý nghĩa hiện thực và hàm ý tốcáo của tác phẩm rất sâu sắc.

2. Các chi tiết kì ảo:

a. Những chi tiết kì ảo:

– Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.

– Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi yến vàgặp, trò chuyện với Vũ Nương; được trở về dương thế.

– Vũ Nương hiện về sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang.

b. Ý nghĩa:

– Tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì và trí tượng tượng phongphú.

– Hoàn chỉnh thêm những nét đẹp vốn có của Vũ Nương, một người dù đã ở thế giới khác, vẫn quan tâm đến chồng con, nhà cửa, phần mộ Tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.

– Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về sự công bằng: người tốt dù có phải trải qua bao oan khuất, cuối cùng sẽ được minh oan.

– Khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với sự bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

3. Ý nghĩa chi tiết cái bóng:

a. Cách kể chuyện:

– Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.

– Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.

b. Góp phần thể hiện tính cách nhân vật:

– Bé Đản ngây thơ

– Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.

– Vũ Nương yêu thương chồng con.

c. Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên hạnh phúc của người phụ nữ vốn đã hết sức mong manh.

Tham khảo đoạn văn sau:

Trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, chi tiết cái bóng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cách kể chuyện[1]. “Cái bóng” có ý nghĩa thắt nút và mở nút câu chuyện [2]. Trong những ngày chồng đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn con nhỏ thiếu vắng tình cảm của người cha, nên hàng đêm Vũ Nương chỉ bóng mình trên tường, nói dối con đó là cha nó[3]. “Cái bóng” đã nói lên tình yêu sâu nặng mà nàng dành chồng, bởi nàng coi mình là hình còn chồng là bóng, gắn bó không rời dù xa vời cách trở! [4]. “Cái bóng” còn là tấm lòng của người mẹ, nhắc nhở con về người cha nó chưa từng gặp mặt[5]. Ngờ đâu, lòng thủy chung và sự hi sinh âm thầm của nàng lại phải trả giá bằng cái chết bi thảm[6]. Bé Đản mới ba tuổi, còn ngây thơ, chưa hiểu hết những điều phức tạp nên đã tin là có một người cha đêm nào cũng đến, mẹ đi cũng đi, mẹ ngồi cũng ngồi, nhưng nín thít và không bao giờ bế nó nên khi Trương Sinh hỏi đã trả lời: “Thế ông cũng là cha tôi ư?”[7]. Lời nói của bé Đản về người cha khác [chính là cái bóng] đã làm nảy sinh sự nghi ngờ vợ không chung thủy, nảy sinh thái độ ghen tuông của Trương Sinh và chàng lấy đó làm bằng chứng để về nhà mắng nhiếc, đánh đuổi Vũ Nương đi, đẩy nàng đến cái chết đầy oan ức[8]. Ngòi bút nhà văn xót xa đau đớn, thể hiện sâu sắc trái tim nhân đạo của ông[9]. Chung với tấm lòng dân gian, Nguyễn Dữ đau cùng nàng Vũ Nương tội nghiệp, bất hạnh: “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”….”[10]. Bao nhiêu là đau đớn trong lời kêu than của Vũ Nương![11].“Cái bóng” cũng là chi tiết mở nút câu chuyện[12]. Chàng Trương sau này hiểu ra nỗi oan của vợ cũng chính là nhờ cái bóng của mình trên tường[13]. Bao nhiêu nhiêu nghi ngờ, oan ức của Vũ Nương đều được hóa giải nhờ “cái bóng”[14]. Chính cách thắt, mở nút câu chuyện bằng chi tiết “cái bóng” đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức; giá trị tố cáo xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc, càng thêm sâu sắc hơn[15].

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.

2. Nghệ thuật:

Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật xây dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình.

Tổng hợp

Video liên quan

Chủ Đề