Giải trình chênh lệch số liệu bctc kiểm toán mic năm 2024

1. TỔNG QUAN VỀ BÁO CÁO TÀI CHÍNH

1.1. Khái niệm và mục đích lập Báo cáo tài chính

Báo cáo tài chính là sự trình bày một cách hệ thống về các thông tin tài chính quá khứ, bao gồm các thuyết minh có liên quan, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 [VAS 21] là một hệ thống bao gồm 4 báo cáo phản ánh theo một cấu trúc chặt chẽ tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của một đơn vị:

§ Bảng cân đối kế toán

§ Báo cáo kết quả kinh doanh

§ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ

§ Thuyết minh báo cáo tài chính

Mục đích của BCTC là cung cấp các thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hữu ích cho số đông những người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Để đạt được mục đích này, BCTC phải cung cấp những thông tin của một doanh nghiệp về:

§ Tài sản

§ Nợ phải trả

§ Vốn chủ sở hữu

§ Doanh thu, thu nhập khác, chi phí, lãi và lỗ

§ Các luồng tiền

Các thông tin này cùng với các thông tin trình bày trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính giúp người sử dụng dự đoán được các luồng tiền trong tương lai và đặc biệt là thời điểm và mức độ chắc chắn của việc tạo ra các luồng tiền và các khoản tương đương tiền.

1.2. Trình bày báo cáo tài chính

1.2.1. Trách nhiệm lập và trình bày BCTC: Giám đốc [hoặc người đứng đầu] doanh nghiệp chịu trách nhiệm về lập và trình bày báo cáo tài chính.

.1.2.2. Môi trường pháp lý của lập và trình bày BCTC

Khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính thường bao gồm:

§ Luật Kế toán

§ Chuẩn mực kế toán

§ Chế độ kế toán và các quy định pháp lý có liên quan đến việc lập và trình bày BCTC

Trong một số trường hợp, việc lập và trình bày báo cáo tài chính còn phải tuân theo các quy định và hướng dẫn sau:

§ Môi trường pháp lý và đạo đức, như các luật, các quy định, phán quyết của tòa án, chuẩn mực và các quy định về đạo đức nghề nghiệp kế toán;

§ Các hướng dẫn về chuẩn mực kế toán do các cơ quan, tổ chức có chức năng soạn thảo chuẩn mực hoặc tổ chức nghề nghiệp ban hành;

§ Các hướng dẫn xử lý tình huống kế toán cụ thể do các cơ quan, tổ chức có chức năng soạn thảo chuẩn mực hoặc tổ chức nghề nghiệp ban hành;

§ Các thông lệ kế toán có tính phổ biến và đặc thù được thừa nhận rộng rãi.

Khi có mâu thuẫn giữa khuôn khổ về lập và trình bày BCTC với các tài liệu hướng dẫn, hoặc giữa các tài liệu thì tài liệu nào có tính pháp lý cao nhất sẽ được áp dụng.

1.2.3. Yêu cầu lập và trình bày BCTC

Báo cáo tài chính phải trình bày một cách trung thực và hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh nghiệp. Để đảm bảo yêu cầu trung thực và hợp lý, các báo cáo tài chính phải được lập và trình bày trên cơ sở tuân thủ các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định có liên quan hiện hành.

Doanh nghiệp cần nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính là báo cáo tài chính được lập và trình bày phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam. Báo cáo tài chính được coi là lập và trình bày phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam nếu báo cáo tài chính tuân thủ mọi quy định của từng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hướng dẫn thực hiện chuẩn mực kế toán Việt Nam của Bộ Tài chính.

Trường hợp doanh nghiệp sử dụng chính sách kế toán khác với quy định của chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam, không được coi là tuân thủ chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành dù đã thuyết minh đầy đủ trong chính sách kế toán cũng như trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.

1.2.4. Nguyên tắc lập và trình bày BCTC

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 “Trình bày Báo cáo tài chính”, khi lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân theo một số giả định và nguyên tắc sau:

§ Hoạt động liên tục

Khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám đốc [hoặc người đứng đầu] doanh nghiệp cần phải đánh giá về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý định cũng như buộc phải ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động của mình. Khi đánh giá, nếu Giám đốc [hoặc người đứng đầu] doanh nghiệp biết được có những điều không chắc chắn liên quan đến các sự kiện hoặc các điều kiện có thể gây ra sự nghi ngờ lớn về khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp thì những điều không chắc chắn đó cần được nêu rõ. Nếu báo cáo tài chính không được lập trên cơ sở hoạt động liên tục, thì sự kiện này cần được nêu rõ, cùng với cơ sở dùng để lập báo cáo tài chính và lý do khiến cho doanh nghiệp không được coi là đang hoạt động liên tục.

§ Cơ sở dồn tích

Doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các luồng tiền.

Theo cơ sở kế toán dồn tích, các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và được ghi nhận vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên quan.

§ Phù hợp

Các khoản chi phí được ghi nhận vào Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc phù hợp không cho phép ghi nhận trên Bảng cân đối kế toán những khoản mục không thoả mãn định nghĩa về tài sản hoặc nợ phải trả.

§ Nhất quán

Việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, trừ khi:

- Có sự thay đổi đáng kể về bản chất các hoạt động của doanh nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự kiện;

- Chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong trình bày.

§ Trọng yếu và tập hợp

Từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt trong báo cáo tài chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng rẽ mà được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng.

Khi trình bày báo cáo tài chính, một thông tin được coi là trọng yếu nếu không trình bày hoặc trình bày thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và tính chất của các khoản mục được đánh giá trong các tình huống cụ thể nếu các khoản mục này không được trình bày riêng biệt. Để xác định một khoản mục hay một tập hợp các khoản mục là trọng yếu phải đánh giá tính chất và quy mô của chúng. Tuỳ theo các tình huống cụ thể, tính chất hoặc quy mô của từng khoản mục có thể là nhân tố quyết định tính trọng yếu. Ví dụ, các tài sản riêng lẻ có cùng tính chất và chức năng được tập hợp vào một khoản mục, kể cả khi giá trị của khoản mục là rất lớn. Tuy nhiên, các khoản mục quan trọng có tính chất hoặc chức năng khác nhau phải được trình bày một cách riêng rẽ.

Nếu một khoản mục không mang tính trọng yếu, thì nó được tập hợp với các khoản đầu mục khác có cùng tính chất hoặc chức năng trong báo cáo tài chính hoặc trình bày trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được trình bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để phải trình bày riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.

Theo nguyên tắc trọng yếu, doanh nghiệp không nhất thiết phải tuân thủ các quy định về trình bày báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ thể nếu các thông tin đó không có tính trọng yếu.

§ Bù trừ

Các khoản mục tài sản và nợ phải trả trình bày trên báo cáo tài chính không được bù trừ, trừ khi một chuẩn mực kế toán khác quy định hoặc cho phép bù trừ .

Các khoản mục doanh thu, thu nhập khác và chi phí chỉ được bù trừ khi:

- Được quy định tại một chuẩn mực kế toán khác; hoặc

- Các khoản lãi, lỗ và các chi phí liên quan phát sinh từ các giao dịch và các sự kiện giống nhau hoặc tương tự và không có tính trọng yếu. Các khoản này cần được tập hợp lại với nhau phù hợp với quy định của đoạn 21 của VAS 21.

Các tài sản và nợ phải trả, các khoản thu nhập và chi phí có tính trọng yếu phải được báo cáo riêng biệt. Việc bù trừ các số liệu trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hoặc Bảng cân đối kế toán, ngoại trừ trường hợp việc bù trừ này phản ánh bản chất của giao dịch hoặc sự kiện, sẽ không cho phép người sử dụng hiểu được các giao dịch hoặc sự kiện được thực hiện và dự tính được các luồng tiền trong tương lai của doanh nghiệp.

Chuẩn mực kế toán số 14 “Doanh thu và thu nhập khác” quy định doanh thu phải được đánh giá theo giá trị hợp lý của những khoản đã thu hoặc có thể thu được, trừ đi tất cả các khoản giảm trừ doanh thu. Trong hoạt động kinh doanh thông thường, doanh nghiệp thực hiện những giao dịch khác không làm phát sinh doanh thu, nhưng có liên quan đến các hoạt động chính làm phát sinh doanh thu. Kết quả của các giao dịch này sẽ được trình bày bằng cách khấu trừ các khoản chi phí có liên quan phát sinh trong cùng một giao dịch vào khoản thu nhập tương ứng, nếu cách trình bày này phản ánh đúng bản chất của các giao dịch hoặc sự kiện đó. Chẳng hạn như :

- Lãi và lỗ phát sinh trong việc thanh lý các tài sản cố định và đầu tư dài hạn, được trình bày bằng cách khấu trừ giá trị ghi sổ của tài sản và các khoản chi phí thanh lý có liên quan vào giá bán tài sản;

- Các khoản chi phí được hoàn lại theo thoả thuận hợp đồng với bên thứ ba [ví dụ hợp đồng cho thuê lại hoặc thầu lại] được trình bày theo giá trị thuần sau khi đã khấu trừ đi khoản được hoàn trả tương ứng;

Các khoản lãi và lỗ phát sinh từ một nhóm các giao dịch tương tự sẽ được hạch toán theo giá trị thuần, ví dụ các khoản lãi và lỗ chênh lệch tỷ giá, lãi và lỗ phát sinh từ mua, bán các công cụ tài chính vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, các khoản lãi và lỗ này cần được trình bày riêng biệt nếu quy mô, tính chất hoặc tác động của chúng yêu cầu phải được trình bày riêng biệt theo qui định của Chuẩn mực “Lãi, lỗ thuần trong kỳ, các sai sót cơ bản và các thay đổi trong chính sách kế toán”.

§ Có thể so sánh

Các thông tin bằng số liệu trong báo cáo tài chính nhằm để so sánh giữa các kỳ kế toán phải được trình bày tương ứng với các thông tin bằng số liệu trong báo cáo tài chính của kỳ trước. Các thông tin so sánh cần phải bao gồm cả các thông tin diễn giải bằng lời nếu điều này là cần thiết giúp cho những người sử dụng hiểu rõ được báo cáo tài chính của kỳ hiện tại.

Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các khoản mục trong báo cáo tài chính, thì phải phân loại lại các số liệu so sánh [trừ khi việc này không thể thực hiện được] nhằm đảm bảo khả năng so sánh với kỳ hiện tại, và phải trình bày tính chất, số liệu và lý do việc phân loại lại. Nếu không thể thực hiện được việc phân loại lại các số liệu tương ứng mang tính so sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu rõ lý do và tính chất của những thay đổi nếu việc phân loại lại các số liệu được thực hiện.

Trường hợp không thể phân loại lại các thông tin mang tính so sánh để so sánh với kỳ hiện tại, như trường hợp mà cách thức thu thập các số liệu trong các kỳ trước đây không cho phép thực hiện việc phân loại lại để tạo ra những thông tin so sánh, thì doanh nghiệp cần phải trình bày tính chất của các điều chỉnh lẽ ra cần phải thực hiện đối với các thông tin số liệu mang tính so sánh. Chuẩn mực “Lãi, lỗ thuần trong kỳ, các sai sót cơ bản và các thay đổi trong chính sách kế toán" đưa ra quy định về các điều chỉnh cần thực hiện đối với các thông tin mang tính so sánh trong trường hợp các thay đổi về chính sách kế toán được áp dụng cho các kỳ trước.

2. KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

2.1. Khái niệm kiểm toán báo cáo tài chính

Kiểm toán báo cáo tài chính là việc kiểm tra và xác nhận về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của đơn vị kế toán phục vụ đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính của đơn vị.

Công việc kiểm toán báo cáo tài chính thường do các doanh nghiệp kiểm toán thực hiện để phục vụ cho các nhà quản lý, chính phủ, các ngân hàng và nhà đầu tư, cho người bán, người mua.

2.2. Mục tiêu kiểm toán báo cáo tài chính

§ Mục tiêu chung

Mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính là làm tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo cáo tài chính, thông qua việc kiểm toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng hay không.

Đối với hầu hết các khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính cho mục tiêu chung, kiểm toán viên phải đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập và trình bày trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng hay không. Một cuộc kiểm toán được thực hiện theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, chuẩn mực và các quy định về đạo đức nghề nghiệp có liên quan sẽ giúp kiểm toán viên hình thành ý kiến kiểm toán đó.

§ Mục tiêu cụ thể

Mục tiêu cụ thể của kiểm toán báo cáo tài chính là giúp cho đơn vị được kiểm toán thấy rõ những tồn tại, sai sót để khắc phục nhằm nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị mình.

2.3. Nội dung của kiểm toán báo cáo tài chính

Báo cáo tài chính sử dụng để kiểm toán là báo cáo đã được Ban Giám đốc đơn vị được kiểm toán lập với sự giám sát của Ban quản trị đơn vị, đã ký tên, đóng dấu theo quy định của pháp luật. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam không áp đặt các trách nhiệm đối với Ban Giám đốc hoặc Ban quản trị đơn vị được kiểm toán và có hiệu lực không cao hơn so với pháp luật và các quy định khác chi phối trách nhiệm của Ban Giám đốc và Ban quản trị. Tuy nhiên, một cuộc kiểm toán theo các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam được thực hiện với giả thiết rằng Ban Giám đốc và Ban quản trị đơn vị được kiểm toán [trong phạm vi phù hợp] đã thừa nhận những trách nhiệm nhất định làm cơ sở cho việc tiến hành cuộc kiểm toán.

Nội dung của kiểm toán báo cáo tài chính thường tập trung vào:

§ Việc quản lý, sử dụng tài sản, nguồn vốn của đơn vị.

§ Việc chấp hành các chế độ quản lý kinh tế tài chính - kế toán thống kê của Nhà nước.

Cuộc kiểm toán phải làm rõ được các vấn đề sau:

§ Các thông tin tài chính có được lập trên cơ sở các chế độ tài chính, kế toán hiện hành của Nhà nước Việt Nam hay không? Các chế độ này có được áp dụng một cách nhất quán và kịp thời không?

§ Các thông tin trên Báo cáo tài chính có phản ánh một cách trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu về tình hình tài chính của đơn vị tại thời điểm kết thúc niên độ kế toán; về tình hình hoạt động của đơn vị trong niên độ kế toán.

§ Cuộc kiểm toán cũng đòi hỏi phải đưa ra các ý kiến nhận xét về hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống kế toán của đơn vị

2.4. Phương pháp thực hiện

Trong quá trình thực hiện kiểm toán, người ta chia các phương pháp kiểm toán thành hai loại:

§ Các thử nghiệm cơ bản: đây là việc thẩm tra lại các thông tin biểu hiện bằng tiền phản ánh trên các bảng tổng hợp thông qua việc thực hiện các phương pháp kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ theo trình tự xác định.

§ Thử nghiệm kiểm soát: là phương pháp dựa vào kết quả của hệ thống kiểm soát nội bộ khi hệ thống này tồn tại và có hiệu lực [để biết được hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại có hiệu lực thì phải khảo sát và đánh giá hệ thống này].

3. VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Trên thế giới hầu hết các nước đi theo kinh tế thị trường đều có hoạt động kiểm toán độc lập. Trái lại ở các nước đi theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung đều không có kiểm toán, thậm chí không truyền bá kiến thức về kiểm toán độc lập.

Thật vậy, ở nước ta có thể nói hoạt động kiểm toán được hình thành và phát triển từ trước ngày giải phóng miền Nam. Sau thống nhất đất nước, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, kiểm toán độc lập không tồn tại nữa. Mãi cho đến khi Đảng và Nhà nước ta chủ trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu và đa phương hoá các loại hình đầu tư đã đặt ra những đòi hỏi cấp thiết của kiểm toán độc lập thì loại hình kiểm toán độc lập mới thực sự xuất hiện. Điều này cho thấy kiểm toán độc lập có vai trò to lớn trong nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh cần phải có thông tin chính xác kịp thời và tin cậy. Để đáp ứng yêu cầu này phải có bên thứ ba độc lập khách quan có trình độ chuyên môn cao, được pháp luật cho phép cung cấp thông tin tin cậy cho các bên quan tâm. Bên thứ ba này chính là kiểm toán độc lập.

Ở nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển quy định chỉ có các báo caó tài chính đã được kiểm toán độc lập mới có giá trị pháp lý và đáng tin cậy.Ý nghĩa và tầm quan trọng của kiểm toán độc lập thể hiện trên các mặt sau:

§ Thứ nhất, kiểm toán độc lập tạo niềm tin cho những người quan tâm.

Dù hoạt động trong bất kì lĩnh vực kinh tế nào, thì kết quả hoạt động hàng năm của doanh nghiệp đều thể hiện trên báo cáo tài chính [gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kế quả kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính]. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, các chủ doang nghiệp- người có trách nhiệm lập báo cáo tài chính đều muốn che dấu các phần yếu kém hoặc khuyếch trương kết quả kinh doanh của mình trên BCTC đó. Trái lại những người quan tâm đến kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp lại đòi hỏi sự trung thực chính xác của thông tin tài chính đó. Vì thế cần có sự kiển tra xác nhận của người thứ ba. Kiểm toán viên độc lập -những người hoạt động theo nguyên tắc bắt buộc và có đủ năng lực uy tín với cả chủ doanh ngiệp và người quan tâm đến bản báo cáo tài chính.

Những người quan tâm có thể kể đến là :

▫ Các cơ quan Nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để xem xét các doanh nghiệp sử dụng ngân sách Nhà nước, tài sản quốc gia để hoạt động kinh doanh có đem lại hiệu quả không, có phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đất nước hay không. Cơ quan thuế sẽ căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để tính và thu thuế trừ khi có nghi vấn mới kiểm tra lại. Về nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, các doang nghiệp thường muốn nộp ít để chiếm chiếm dụng phần thuế phải nộp Nhà nước nên họ sẽ khai tăng các khoản chi phí để làm giảm lợi nhuận và như thế thuế phải nộp sẽ ít đi. Tuy nhiên nếu được kiểm toán thì sai phạm này sẽ bị phát hiện và điều chỉnh.

▫ Các cổ đông góp vốn kinh doanh hoặc mua cổ phiếu của doanh nghiệp tuy không có trình độ để kiểm tra kỹ lưỡng bản BCTC, do đó khi có trên tay bản BCTC đã được kiểm toán viên độc lập xác nhận là trung thực hợp lý thì họ có thể yên tâm ăn chia lợi tức và quyết định tiếp tục đầu tư hoặc không đầu tư vào doanh nghiệp đó.

▫ Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay vốn cũng phải nắm chắc tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng để quyết định cho vay, thu hồi vốn hoặc không cho vay. Kiểm toán viên sẽ giúp ngân hàng hoặc những người cho vay làm việc đó.

▫ Trong quan hệ kinh doanh các khách hàng có thể mua chịu.Tuy nhiên nếu có báo cáo tài chính của người mua hàng được kiểm toán viên có danh tiếng kiểm tra xác nhận là tốt thì người bán sẵn sàng bán chịu. Ngược lại xác nhận là tình hình tài chính khó khăn thì không gì người mua mua được hàng khi chưa có tiền.

▫ Trong kinh tế thị trường, người lao động có quyền lựa chọn nơi làm việc ổn định và có mức thu nhập cao. Bản báo cáo tài chính của một doang nghiệp làm ăn có lãi được kiểm toán viên xác nhận sẽ hấp dẫn được người lao động có chuyên môn trình độ và năng lực.

▫ Việt Nam đang thực hiện chính sách mở cửa, đa phương hoá đầu tư không chỉ trong nước mà còn nước ngoài. Việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài [cả trực tiếp và gián tiếp] đang được Nhà nước rất quan tâm, cụ thể là đã ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam nhằm khuyến khính các nhà đầu tư vào Việt Nam. Những nhà đầu tư nước ngoài luôn đòi hỏi một báo cáo tài chính được kiểm toán xác nhận về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp mà họ dự định đầu tư.

▫ Các nhà quản trị doang nghiệp và các nhà quản lý khác cũng cần thông tin trung thực không chỉ riêng trên các bản BCTC để có những quyết định trong mọi giai đoạn quản lý kể cả tiếp nhận vốn liếng, chỉ đạo và điều hành các hoạt động kinh doanh và hoạt động quản lý. Những thông tin đó chỉ có được thông qua kiểm toán.

§ Thứ hai, kiểm toán độc lập góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế toán.

Mọi hoạt động, đặc biệt là hoạt động tài chính đều bao gồm những mối quan hệ đa dạng, luôn luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết tốt các quan hệ trên không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt mà cần thường xuyên soát xem việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong muốn. Hơn nữa chính định hướng và tổ chức thực hiện tốt trên cơ sở những bài học thực tiễn soát xét và luôn uốn nắn thường xuyên những lệch lạc trong quá trình thực hiện.

Nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế trong đó các quan hệ tài chính, chế độ kế toán thay đổi nhiều lần. Trong khi đó công tác kiểm tra kiểm soát chưa chuyển hướng kịp thời, dẫn tới tình trạng vi phạm các nguyên tắc chế độ tài chính kế toán. Đã có ý kiến cho rằng chưa thể cải cách công tác kiểm tra trong khi chưa triển khai toàn diện và rộng khắp công tác kế toán. Tuy nhiên kinh nghiệm thực tế đã chỉ rõ chỉ có triển khai tốt hơn công tác kiểm toán mới có thể nhanh chóng đưa công tác tài chính kế toán đi vào nề nếp.

§ Thứ ba, kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý.

Rõ ràng kiểm toán không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư vấn. Các chủ doang nghiệp không thể kiểm soát hàng ngàn, hàng vạn nghiệp vụ tài chính kế toán đã xảy ra trong doanh nghiệp. Vì vậy các chủ doanh nghiệp thường kiểm soát các nghiệp vụ tài chính kế toán cho người phụ tá. Để biết được một cách chính xác, trung thực tình hình tài chính kế toán của mình vào kì hạn nào đó, người chủ doanh nghiệp thường mời các kiểm toán viên chuyên nghiệp độc lập có uy tín thực hiện việc kiểm tra và nhận xét bản báo cáo tài chính của doang nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập ra. Những nhận xét của kiểm toán viên sẽ giúp cho các chủ doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót, lãng phí hoặc vi phạm pháp luật do cố ý hay vô ý để xử lý kịp thời hay ngăn ngừa các tổn thất. Điều đó giúp doanh nghiệp hạn chế được những rủi ro hay phát hiện ra thế mạnh những tiềm năng tài chính nội tại có trong doanh nghiệp.

4. THỰC TRẠNG CHÊNH LỆCH THÔNG TIN GIỮA BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRƯỚC VÀ SAU KIỂM TOÁN

Từ trước đến nay, báo cáo tài chính doanh nghiệp, dù đã kiểm toán hay chưa, luôn là một trong những thông tin quan trọng và tin cậy để nhà đầu tư phân tích, đánh giá cổ phiếu và ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên trong những năm gần đây, tình trạng chênh lệch về lợi nhuận giữa báo cáo tài chính trước và sau khi kiểm toán lại khá phổ biến. Việc doanh nghiệp đang từ lãi nhiều thành lãi ít, đang từ lãi thành lỗ đã làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhà đầu tư vào doanh nghiệp, vào thị trường chứng khoán, nhất là khi hiện tượng này gây thiệt hại cho nhà đầu tư.

4.1. Trên thế giới

Công ty Viễn thông WorldCom [Hoa Kỳ]

Năm 2002, cả thế giới chấn động với vụ phá sản của cty Viễn thông WorldCom. Công ty viễn thông đường dài lớn thứ hai Hoa Kỳ [WorldCom] đã bùng nổ thần tốc thông qua 65 vụ thôn tính đạt tới giá trị thị trường 180 tỷ USD trong vòng 15 năm, sở hữu 80.000 lao động. Tuy nhiên, công ty này phải nộp đơn phá sản vào ngày 21/7/2002 vì nợ nần và gian lận kế toán. Vụ phá sản của WorldCom với số tài sản 110 tỷ đô, lớn gấp đôi kỷ lục của Enron năm 2001.

Với phương thức chủ yếu dùng cổ phiếu thay tiền, trong nửa đầu thập niên 1990, Ebbers đã sáp nhập được trên 35 công ty, vươn sang lĩnh vực internet, dữ liệu, giao dịch thương mại điện tử. Công ty được đổi tên thành WorldCom để thể hiện địa vị mới.

Cho đến tháng 6 năm 2002, ban kiểm toán nội bộ WorldCom phát hiện công ty này che giấu khoản chi phí 3,8 tỷ USD kể từ năm 2001, đồng thời, lợi nhuận 1,4 tỷ USD năm 2001 và 130 triệu USD trong quý 1 năm 2002 đều là báo cáo sai. Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái [SEC] buộc tội WorldCom gian lận và Bộ Tư pháp bắt đầu một cuộc điều tra hình sự các hành vi của WorldCom. Giá trị cổ phiếu WorldCom từ đỉnh 63,5 USD/cổ phiếu vào ngày 18/6/1999 đã lao dốc xuống 6,74 USD/cổ phiếu và tiếp tục giảm chỉ còn 20 cent/cổ phiếu cho đến khi tuyên bố phá sản vào đêm 21/7/2002. [1]

Tập đoàn Toshiba [Nhật Bản]

Theo thông tin từ các hãng tin Reuters, Blomberg, từ năm 2008 đến nay, Toshiba đã khai khống tài chính lên tới 170 tỉ yen, tương đương 1,22 tỉ USD.

Vụ bê bối bắt đầu khi cơ quan chức năng nước này phát hiện ra những điểm bất thường trong sổ sách kế toán của tập đoàn hồi đầu năm. Toshiba đã đặt ra những mục tiêu tài chính “ngoài sức tưởng tượng” khi hoạt động của bộ phận liên quan đến năng lượng hạt nhân bị ảnh hưởng bởi thảm họa Fukushima năm 2011.

Không chỉ vậy, Tập đoàn Toshiba cũng phát hiện ra con số sai lệch khi thuê một tổ chức thứ ba độc lập để tiến hành điều tra việc hạch toán sổ sách kế toán. Nguyên nhân được xác định là trước đó tập đoàn này đã không thể khóa sổ kế toán trong năm 2014 cũng như hoãn việc chi trả cổ tức.

Ngoài ra, kết quả điều tra cũng cho thấy các sai lệch trong báo cáo lợi nhuận của Toshiba đã được che giấu rất “bài bản và điệu nghệ”. Cụ thể, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành [CEO] của Toshiba, ông Hisao Tanaka và hai người tiền nhiệm đã tìm cách trì hoãn đưa các khoản thua lỗ vào sổ sách. Trong khi đó, cấp dưới của họ thì không thể nào chống lại chỉ đạo của cấp trên. Với kết quả điều tra này, Toshiba cho biết sẽ cắt giảm lợi nhuận đã được báo cáo của hơn 6 năm.

Mặc dù bị lỗ nhưng tập đoàn này vẫn liên tục đưa ra thông báo lợi nhuận ròng đã tăng gấp 6 lần, lên 54,52 tỉ yen, tương đương khoảng 600 triệu USD nhờ doanh số bán thiết bị bán dẫn và các thiết bị cho nhà máy điện tăng mạnh. [2]

4.2. Tại Việt Nam

§ Thực trạng chênh lệch số liệu trên BCTC sau kiểm toán năm 2008

Sau khi trang web Stox.vn thống kê về sai lệch giữa báo cáo tài chính năm 2008 chưa kiểm toán với báo cáo đã kiểm toán thì nhà đầu tư đều giật mình xem xét lại. Trong 357 doanh nghiệp niêm yết trên cả hai sàn, ít nhất 194 doanh nghiệp có sự chênh lệch về chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trước và sau khi kiểm toán, trong đó 47 doanh nghiệp có sự chênh lệch trên 50%. Chẳng hạn, FPC công bố lỗ 44,4 tỷ đồng, nhưng sau khi kiểm toán thì lỗ 83,2 tỷ đồng. Tương tự, TPC từ lỗ 51 tỷ đồng thành lỗ 61,6 tỷ đồng; KDC từ lãi 142,3 tỷ đồng thành lỗ 60,6 tỷ đồng; NVC từ lãi 0,5 tỷ đồng thành lỗ 44,4 tỷ đồng; MPC từ lãi 4 tỷ đồng thành lỗ 38,1 tỷ đồng; NKD từ lãi hơn 38 tỷ đồng thành lãi chưa đầy 1 tỷ đồng; NTL từ lãi 98,7 tỷ đồng về 61,8 tỷ đồng; SJS từ lãi 175,1 tỷ đồng về 118,8 tỷ đồng... [3]

§ Thực trạng chênh lệch số liệu trên BCTC sau kiểm toán từ năm 2010 đến năm 2012

Năm 2010 số lượng tổng công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam là 428 công ty trong đó theo chỉ tiêu lợi nhuận có đến 197 công ty chiếm tỷ lệ 45% có lợi nhuận giảm sau kiểm toán so với trước kiểm toán. Qua năm 2011 số lượng công ty đã có sự nhảy vọt đáng kể, tổng số công ty trên thị trường chứng khoán đã là 628 công ty và số lượng công ty có lợi nhuận sau kiểm toán giảm so với trước kiểm toán đạt mốc 311 công ty với tỷ lệ là 50%. Năm 2012 số lượng công ty niêm yết trên sàn chứng khoán đã tăng lên 652 công ty trong đó theo chỉ tiêu lợi nhuận có khoảng 314 công ty có lợi nhuận sau kiểm toán giảm so với trước kiểm toán chiếm tỷ lệ 48%. Có thể nhận thấy rằng qua 3 năm từ 2010 đến năm 2012 tỷ lệ các công ty có sự thay đổi về 11 lợi nhuận sau kiểm toán so với trước kiểm toán luôn xấp xỉ 50%. Điều này cho thấy thị trường chứng khoán Việt Nam cần có nhiều biện pháp hơn nữa để hạn chế hoặc giảm bớt mức tỷ lệ này [4]

§ Thực trạng chênh lệch số liệu trên BCTC sau kiểm toán năm 2014

Tính đến hết ngày 25/03/2015, có 330 doanh nghiệp công bố báo cáo tài chính kiểm toán 2014 đầy đủ, trong đó có tới 196 đơn vị có số liệu chênh lệch so với trước kiểm toán, tức chiếm tới 59% [5] , trong đó, một số doanh nghiệp đang lãi chuyển thành lỗ hoặc đang lỗ chuyển thành lãi. Chẳng hạn như:

Cty Than Đèo Nai [HNX: TDN] sau kiểm toán 2014 công ty đột ngột chuyển từ lỗ 14.4 tỷ đồng sang lãi hơn 28 tỷ đồng. Theo lý giải của TDN cho việc lỗ trước kiểm toán do năm 2014, các loại thuế, phí tăng trong kỳ [thuế tài nguyên tăng 2%, tiền cấp quyền khai thác…] làm chi phí sản xuất tăng. Trong khi đó, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam [TKV] chưa tổ chức nghiệm thu chi phí năm 2014 cho Công ty, do vậy Tập đoàn chưa bổ sung khoản chi phí nói trên. Nếu được Tập đoàn bổ sung chi phí, Công ty đảm bảo đạt lợi nhuận năm 2014 theo kế hoạch. Bởi thế, TDN có lý do phù hợp để giải trình cho việc chênh lệch lớn sau kiểm toán vì tại thời gian đó TKV chưa tổ chức nghiệm thu, quyết toán khoán chi phí năm 2014. Do vậy Công ty lập báo cáo tài chính theo số dự kiến và điều chỉnh số liệu chính thức tạo báo cáo tài chính kiểm toán năm 2014.

Tương tự, sau khi có báo cáo kiểm toán, từ mức lỗ 39 tỷ đồng trong năm 2014, Hacisco [HOSE: HAS] đã lật ngược thế cờ khi lãi 4.5 tỷ đồng. Nguyên do là nhờ chi phí quản lý doanh nghiệp được điều chỉnh hồi tố những khoản dự phòng các năm trước gần 42 tỷ đồng.

Ngoài ra, HPS, CLW, VTB, HLC, VPH, V12, PVC, PVV và MDC cũng đều là những doanh nghiệp có kết quả lãi ròng tăng từ 12% trở lên sau kiểm toán. Đối với Dung dịch Khoan và Hóa phẩm Dầu khí [HNX: PVC], lãi tăng thêm gần 41 tỷ đồng sau kiểm toán nhờ lợi nhuận sau thuế tại công ty con là Công ty TNHH Dung dịch khoan M-I Việt Nam tăng 26.6 tỷ đồng. Bên cạnh đó PVC giảm lợi nhuận chưa thực hiện trong hàng tồn kho tiêu thụ nội bộ mà năm 2014 đã tiêu thụ số tiền là 6.9 tỷ đồng, Công ty cũng giảm hơn 7 tỷ đồng chi phí thuế thu nhập hoàn lại tại M-I Việt Nam.

Lãi ròng của Than Hà Lầm [HNX: HLC] tăng thêm hơn 8 tỷ đồng để lên mức 36.5 tỷ đồng do khi thực hiện báo cáo nghiệm thu khoán với TKV, công ty đã thực hiện tiết kiệm một số chỉ tiêu giao khoán và được TKV bù phụ các chi phí đã thực hiện.

Ở chiều ngược lại, kết quả kinh doanh năm 2014 sau kiểm toán của công ty Ntaco [HOSE: ATA] chuyển từ lãi 187 triệu đồng sang lỗ 14.4 tỷ đồng. Thêm vào đó, thông tin giải trình của ban lãnh đạo ATA cũng rất mơ hồ: “Năm 2014 doanh thu hoạt động kinh doanh, doanh thu tài chính có tăng so với cùng kỳ nhưng chi phí về giá vốn, chi phí quản lý, chi phí tài chính vẫn duy trì ở mức cao đã làm lợi nhuận bị âm” mà không hề đề cập đến việc vì sao có sự chênh lệch quá lớn giữa trước và sau kiểm toán.

Bên cạnh đó cũng có những trường hợp lỗ nặng thêm sau kiểm toán như CID, SAV, S12, VNH,PFL, PVG, BTH... Trong đó, sau khi công bố lỗ thêm 1 tỷ đồng tức âm 15 tỷ đồng, Dầu khí Đông Đô [HNX: PFL] đã cầm chắc án hủy niêm yết bắt buộc khi lỗ 3 năm liên tiếp do “tình hình kinh tế nói chung và thị trường kinh doanh bất động sản nói riêng có nhiều biến động không thuận lợi, lãi suất cho vay đối với lĩnh vực bất động sản vẫn còn cao và sức mua thấp dẫn đến doanh thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thấp, chi phí tăng cao và một số khoản đầu tư phải trích lập dự phòng”.

Còn Kinh doanh Khí hóa lỏng miền Bắc [HNX: PVG] lần đầu tiên báo lỗ 3.4 tỷ đồng từ khi thành lập đến nay [2007] do biến động mạnh về giá bán LPG, rồi kiểm toán cũng lưu ý về việc PVG đang làm việc với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam [PVN] và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về khoản lãi chậm nộp tiền thu về cổ phần hóa hơn 49 tỷ đồng vào năm 2012. Sau đó vào năm 2014 PVN đã xác định lại là con số 13.88 tỷ đồng và đề nghị PVG không phải thực hiện nghĩa vụ nộp số tiền trên.

Trong khi các doanh nghiệp cùng ngành hồ hởi báo lãi đậm trong năm 2014 thì Thủy hải sản Việt Nhật [HOSE: VNH] lại báo lỗ thêm 4 tỷ đồng, tức âm tới 43.5 tỷ đồng sau kiểm toán. Theo VNH, sở dĩ có sự chênh lệch này do công ty kiểm toán trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho chậm luân chuyển, rồi đánh giá lại chênh lệch tỷ giá nợ phải thu gốc ngoại tệ và tiền gửi ngân hàng gốc ngoại tệ…

Hay như Sông Đà 12 [HNX: S12] cũng lần đầu tiên báo lỗ 15 tỷ đồng [tăng 1.6 tỷ đồng sau kiểm toán] sau 9 năm hoạt động. Và dù các năm trước doanh nghiệp này đều ghi nhận lãi nhưng vẫn “không đủ” chi trả cổ tức 3% của năm 2011 mà phải hoãn thêm 6 tháng nữa, tức tới 30/09/2015.

5. NGUYÊN NHÂN TẠO NÊN SỰ CHÊNH LỆCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRƯỚC VÀ SAU KIỂM TOÁN

Sự khác biệt giữa báo cáo tài chính trước và sau kiểm toán có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như:

5.1. Từ phía doanh nghiệp

5.1.1. Sự khác biệt về mặt kỹ thuật, phương pháp tính và sai sót trong quá trình hạch toán

Sự khác biệt về mặt kỹ thuật, phương pháp tính và sai sót trong quá trình hạch toán là những sai sót thường thấy đối với hầu hết doanh nghiệp. Với từng người, mức độ hiểu biết về chế độ, chính sách và các văn bản hướng dẫn có thể khác nhau dẫn đến việc sai sót trong quá trình hạch toán. Hay, việc nâng cấp, thay đổi phần mềm kế toán dẫn đến lỗi dữ liệu hoặc thông tin sai lệch so với ban đầu là điều không tránh khỏi.

Chúng ta có thể thấy rõ thực tế qua giải trình về chênh lệch trước và sau kiểm toán của một số công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán như sau:

▫ Giải trình chênh lệch kết quả sản xuất kinh doanh trước và sau kiểm toán của BCTC năm 2013 của Tổng cty Khí Việt Nam [PV Gas] ngày 14/04/2014 do sai sót trong quá trình hạch toán: “Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ tăng 78 tỷ đồng và khoản giảm trừ doanh thu tăng 123 tỷ đồng so với trước kiểm toán là do phát sinh một khoản giảm trừ doanh thu với giá trị 123 tỷ đồng nhưng không ghi nhận trên mục “Các khoản giảm trừ doanh thu“ mà trừ trực tiếp vào mục “Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” [6]

▫ Giải trình chênh lệch kết quả sản xuất kinh doanh trước và sau kiểm toán của BCTC năm 2013 của Cty CP Everpia Việt Nam ngày 26/03/2014 do không nắm rõ nội dung và kết cấu của tài khoản kế toán: “Điều chỉnh lại tiền và các khoản tương đương tiền do điều chỉnh lại các khoản đầu tư ngắn hạn tương ứng. Hoặc tương tự như giải trình của Tổng cty Khí Việt Nam [PV Gas] ngày 14/04/2014 do hiểu sai về chế độ, chính sách kế toán: “Giá vốn hàng bán tăng 96 tỷ đồng so với BCTC hợp nhất trước kiểm toán là do cty CP Sản xuất Ống thép Dầu khí Việt Nam [PV Pipe] đã áp dụng phương pháp khấu hao theo sản lượng đối với Nhà máy và dây chuyền sản xuất ống thép. Tuy nhiên, do sản lượng thực tế trong năm 2013 chỉ đạt 1,5% so với công suất thiết kế nên theo quy định tại Thông tư 45/2013/TT-BTC ngày 25/04/2013 của Bộ Tài chính, PV Pipe chưa đáp ứng điều kiện để áp dụng phương pháp khấu hao này. Do đó, PV Pipe đã điều chỉnh áp dụng phương pháp khấu hao theo đường thẳng làm chi phí khấu hao [được ghi nhận ở mục Giá vốn hàng bán] trong báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất năm 2013 sau kiểm toán của PV Gas tăng thêm 96 tỷ đồng”[6]

▫ Giải trình của cty CP Quản lý Đầu tư Trí Việt về chênh lệch số liệu trên Báo cáo tài chính hợp nhất quý IV năm 2014 ngày 30/03/2015 do lỗi phần mềm kế toán: “Trong quá trình nhập số liệu của Báo cáo tài chính hợp nhất năm 2014 vào phần mềm kế toán Misa và kết xuất ra sheet LCTT-GT của Báo cáo tài chính cty Đại Chúng quý IV/2014. Do phần mềm kế toán Misa của chúng tôi đang cập nhật dữ liệu nâng cấp lên phiên bản Misa 2015 theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, do đó phần mềm đã chạy sai chỉ tiêu 26 “Tiền thu hồi đầu tư góp vốn vào đơn vị khác” dẫn đến các chỉ tiêu [30], [50], [70] cũng bị thay đổi theo” [7]

Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, những khác biệt về mặt kỹ thuật, phương pháp tính thường không tạo nên độ vênh quá lớn. Vì thế, nếu mức chênh lệnh trên 20%, không loại trừ trường hợp doanh nghiệp có thể đang thực hiện ý đồ tối đa hóa lợi nhuận [thổi phồng lợi nhuận] hoặc muốn giấu lãi [hạ mức lợi nhuận xuống].

5.1.2. Sự khác biệt về thời gian công bố báo cáo tài chính được kiểm toán

Lý do là quãng thời gian cách nhau hơn 2 tháng cho sự ra đời của một Báo cáo tài chính đã được kiểm toán cũng có thể dẫn đến chênh lệch về số liệu. Ví dụ Báo cáo tài chính trước kiểm toán được doanh nghiệp lập và nộp vào tầm tháng 1, trong khi đó, Báo cáo tài chính đã kiểm toán thường là vào tầm cuối tháng 3. Trong thời gian đó, có rất nhiều thông tin bổ sung mà các doanh nghiệp phải thay đổi các ước tính kế toán của họ.

5.1.3. Độ phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế và năng lực của nhân viên kế toán Chức năng cơ bản của Báo cáo tài chính là cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp nhằm hỗ trợ các đối tượng này đưa ra các quyết định tối ưu. Các đối tượng bên ngoài thường được nhắc tới là các nhà đầu tư, các ngân hàng, khách hàng, nhà cung cấp. Trong một nền kinh tế mà nguồn vốn chủ yếu huy động qua thị trường vốn thì vai trò của các nhà đầu tư được đặc biệt quan tâm. Việc cung cấp thông tin tài chính minh bạch cho các nhà đầu tư góp phần giảm thiểu rủi ro do “thông tin không cân xứng”. Chính vì vậy, vai trò của kế toán trong một nền kinh tế phát triển không chỉ giới hạn ở việc tuân thủ đúng các quy định hiện hành về tài chính - kế toán, mà yêu cầu giờ đây đã trở nên cao hơn: cung cấp thông tin hữu ích cho nhà đầu tư. Để đáp ứng yêu cầu này, người làm kế toán phải nắm rất vững các quy định hiện hành về kế toán - tài chính để không chỉ tuân thủ đúng mà còn phải biết vận dụng các quy định này một cách linh hoạt nhằm bảo đảm Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin hữu ích nhất cho các nhà đầu tư.

Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng với quy mô của các tổ chức ngày càng lớn kéo theo sự phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế ngày càng tăng đòi hỏi kinh nghiệm, chuyên môn của nhân viên kế toán phải vững. Do đó, năng lực của đội ngũ nhân viên kế toán bị hạn chế, không được cập nhật thường xuyên cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra sự sai sót trong thông tin kế toán trước và sau kiểm toán.

Ngoài ra, theo ông Nguyễn Phan Xuân Thủy, Giám đốc Công ty Kiểm toán Gia Cát, “nếu sai lệch xảy ra ở doanh nghiệp có quy mô lớn, nhà đầu tư cũng nên tìm hiểu kỹ hơn”. Theo kinh nghiệm và quan sát của ông, doanh nghiệp có quy mô và tầm vóc lớn thường chú ý đến công tác kế toán, báo cáo sổ sách. Bộ phận kế toán tại đây ít khi mù mờ hay yếu kém về mặt chuyên môn. Do đó, nếu có chênh lệch xảy ra, thường không phải do doanh nghiệp và bên kiểm toán có sự bất đồng, mà cái chính là “ý muốn” của ban lãnh đạo.

5.1.4. Động cơ của người cung cấp thông tin

Theo Tiến sĩ Donald R. Cressey [Other People’s Money, 1973], một trong những yếu tố khiến cho báo cáo tài chính có sự gian lận là do áp lực [động cơ]. Tùy thuộc vào mục đích của mình mà người cung cấp thông tin có thể thực hiện các động cơ sau đây:

  • Thổi phồng lợi nhuận

Có nhiều lý do khiến các bản báo cáo tài chính không minh bạch xuất phát từ động cơ của người cung cấp thông tin mà chủ yếu là nhằm mục đích nâng cao giá trị cổ phiếu của doanh nghiệp [chiếm 94,1%]. Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên các nhà lãnh đạo buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, các nhà lãnh đạo cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm. Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật phù phép báo cáo tài chính. Tuy nhiên, những thủ thuật này chỉ là biện pháp đối phó nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Một số kỹ thuật mà các công ty thường sử dụng để “thổi” lợi nhuận bao gồm:

[1] Ghi nhận doanh thu không có thật hay khai cao doanh thu

Là việc ghi nhận vào sổ sách một nghiệp vụ bán hàng hoá hay cung cấp dịch vụ không có thực. Kỹ thuật thường sử dụng là tạo ra các khách hàng giả mạo thông qua lập chứng từ giả mạo nhưng hàng hóa không được giao và đầu niên độ sau sẽ lập bút toán hàng bán bị trả lại. Khai cao doanh thu còn được thực hiện thông qua việc cố ý ghi tăng các nhân tố trên Hóa đơn như số lượng, giá bán… hoặc ghi nhận doanh thu khi các điều kiện giao hàng chưa hoàn tất, chưa chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro đối với hàng hoá, dịch vụ được bán.

Ví dụ tại Việt Nam, công ty Cổ phần Kinh doanh Khí hóa lỏng Miền Bắc [PVG] công bố Báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán năm 2010. Lợi nhuận ròng trên báo cáo hợp nhất sau kiểm toán của PVG đạt 35,83 tỷ đồng, giảm 1,2 tỷ đồng so với báo cáo trước kiểm toán. Đáng chú ý là đơn vị kiểm toán có ý kiến loại trừ việc ghi nhận cổ tức từ lợi nhuận năm 2010 của Công ty cổ phần Phân phối khí thấp áp [PGD], PVG tạm ghi nhận khoản cổ tức 9,28 tỷ đồng của PGD vào doanh thu hoạt động tài chính năm 2010. Tại ngày 31/12/2010, việc phân phối cổ tức nói trên chưa được đại hội cổ đông của PGD phê duyệt. Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 [VAS 14]-Doanh thu và thu nhập khác, cổ tức và lợi nhuận được chia được ghi nhận khi cổ đông có quyền nhận cổ tức. Nếu công ty áp dụng VAS 14, doanh thu từ hoạt động tài chính và lợi nhuận trước thuế cho năm 2010 sẽ giảm một khoản tương ứng là 9,28 tỷ đồng.

[2] Tăng doanh thu thông qua các chính sách giá và tín dụng

Một biện pháp các doanh nghiệp thường sử dụng để tăng lợi nhuận khi thấy có nguy cơ không đạt kế hoạch đặt ra là giảm giá bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm tăng lượng hàng bán ra trong những tháng cuối năm tài chính. Biện pháp thứ hai là công bố kế hoạch tăng giá bán đầu năm sau. Ví dụ, để tăng lợi nhuận Quí IV/2007, một công ty sản xuất ôtô có thể công bố kế hoạch tăng giá bán từ Quí I/2008, lập tức doanh thu Quí IV/2007 sẽ tăng vọt. Hai biện pháp này cho phép công ty tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, nhưng sẽ bị giảm vào các năm sau, vì thực chất công ty đã chuyển lợi nhuận của năm sau sang năm hiện tại. Mặt khác, tăng giá bán năm sau còn làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường.

[3] Che giấu công nợ và chi phí

Che giấu công nợ đưa đến giảm chi phí là một trong những kỹ thuật gian lận phổ biến trên BCTC nhằm mục đích khai khống lợi nhuận. Khi đó, lợi nhuận trước thuế sẽ tăng tương ứng với số chi phí hay công nợ bị che giấu. Đây là phương pháp dễ thực hiện và khó bị phát hiện vì thường không để lại dấu vết. Có ba phương pháp chính thực hiện giấu chi phí: Không ghi nhận công nợ và chi phí, đặc biệt không lập đầy đủ các khoản dự phòng; Vốn hoá chi phí; Không ghi nhận hàng bán trả lại – các khoản giảm trừ và không trích trước chi phí bảo hành;

Ví dụ tại Việt Nam, Công ty cổ phần Tập đoàn Thép Tiến Lên [TLH] mở màn cho hoang mang của nhiều nhà đầu tư với việc công bố lợi nhuận ròng sau kiểm toán giảm gần 30%. So với kết quả trước kiểm toán, chi phí tài chính của TLH tăng thêm 30,3 tỷ đồng do phải trích thêm dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán dẫn đến lợi nhuận trước thuế giảm một lượng tương ứng. Dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ban đầu là 27,74 tỷ đồng đã tăng lên thành hơn 58 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ đạt 55,97 tỷ đồng, giảm 22,8 tỷ [-29%] so với kết quả ban đầu là 78,8 tỷ đồng.

Báo cáo tài chính năm 2010 của Công ty cổ phần Basa có mã chứng khoán BAS, công ty đã vốn hóa chi phí đi vay số tiền 1,04 tỷ đồng vào giá trị công trình xây dựng cơ bản, trong khi công trình này đã ngừng xây dựng trong năm 2010. Nếu áp dụng đúng như VAS 16, thì chi phí đi vay này phải tạm ngừng vốn hóa và tính vào chi phí kinh doanh trong kỳ. Nếu thực hiện đúng như VAS 16, công ty sẽ gia tăng thêm khoản lỗ với số tiền tương ứng 1,04 tỷ đồng.

[4] Trì hoãn thanh lý tài sản không có nhu cầu sử dụng, các khoản đầu tư không hiệu quả

Đối với các tài sản doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không mang lại hiệu quả, giải pháp tối ưu là thanh lý càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, thanh lý tài sản thường đem lại một khoản lỗ cho công ty trong năm hiện tại. Do đó, nếu lợi nhuận trong năm hiện tại có nguy cơ không đạt được mức kỳ vọng của thị trường, lãnh đạo công ty có thể không muốn thanh lý, mặc dù trì hoãn sẽ gây nhiều thiệt hại cho công ty như làm phát sinh chi phí bảo quản, cản trở không gian sản xuất. Với các tài sản và các khoản đầu tư không hiệu quả thì càng nắm giữ lâu, doanh nghiệp càng lỗ

[5] Bán các khoản đầu tư hiệu quả

Ngoài trì hoãn thanh lý các khoản đầu tư không hiệu quả, công ty có thể bán các khoản đầu tư sinh lời nhằm tăng thêm lợi nhuận cho năm hiện tại. Vì thế, áp dụng biện pháp trên có nghĩa là công ty tự nguyện bỏ qua tiềm năng sinh lời lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo.

[6] Sản xuất vượt mức công suất tối ưu

Trong điều kiện thông thường, mỗi doanh nghiệp thường xác định một mức công suất tối ưu, tuỳ thuộc vào năng lực nội tại cũng như điều kiện thị trường. Tuy nhiên, trong trường hợp cần tăng lợi nhuận, công ty có thể quyết định sản xuất vượt mức công suất tối ưu. Điều này cho phép công ty giảm giá thành đơn vị sản phẩm nhờ tận dụng chi phí cố định. Mặt trái của biện pháp này là máy móc, thiết bị phải làm việc quá mức ảnh hưởng tiêu cự tới năng suất và độ bền. Ngoài ra, sản phẩm làm ra nhiều, nếu không bán được, sẽ phát sinh chi phí bảo quản và hàng tồn kho lâu ngày sẽ bị giảm giá trị.

[7] Ghi nhận sai niên độ

Doanh thu hay chi phí được ghi nhận không đúng với thời kỳ mà nó phát sinh. Doanh thu hoặc chi phí của kỳ này có thể chuyển sang kỳ kế tiếp hay ngược lại để làm tăng hoặc giảm thu nhập theo mong muốn.

Ví dụ tại Việt Nam, trong mùa kiểm toán năm 2010, đơn vị kiểm toán có ý kiến ngoại trừ việc Công ty Cổ phần Địa ốc Đà Lạt [DLR] ghi nhận 31,15 tỷ đồng doanh thu với giá vốn 27,98 tỷ đồng từ Dự án xây dựng Cụm dân cư - Khu chung cư Yersin thành phố Đà Lạt. Theo ký kết, công ty sẽ bàn giao từng phần hạng mục công ty của dự án sau khi hoàn thành và đủ điều kiện để bố trí tái định cư. UBND sẽ thanh toán cho công ty khi quyết toán dự án và đã được cơ quan độc lập kiểm toán. Tuy nhiên, tại Báo cáo tài chính năm 2010, công ty đã ước tính và ghi nhận doanh thu, giá vốn như trên theo số liệu hoàn thành giữa công ty và đội thi công của công ty trong khi UBND tỉnh Lâm Đồng chưa có văn bản chỉ định UBND thành phố Đà Lạt nghiệm thu. Đơn vị kiểm toán cho biết, ngày 22/2/2011, UBND tỉnh Lâm Đồng đã có công văn thống nhất giao cho UBND thành phố Đà Lạt là đơn vị tiếp nhận từng hạng mục công trình theo từng giai đoạn giá trị công trình hoàn thành để DLR ghi nhận doanh thu. Qua đây cho thấy DRL đã ghi nhận doanh thu và giá vốn Dự án xây dựng Cụm dân cư - Khu chung cư Yersin thành phố Đà Lạt sai niên độ, doanh thu và giá vốn này phải được ghi nhận ở niên độ năm 2011, nhưng đã được doanh nghiệp ghi nhận vào năm 2010.

[8] Không khai báo đầy đủ thông tin

Việc không khai báo đầy đủ các thông tin nhằm hạn chế khả năng phân tích của người sử dụng Báo cáo tài chính. Các thông tin thường không đựợc khai báo đầy đủ trong thuyết minh như nợ tiềm tàng , các sự kiện phát sinh sau ngày khóa sổ kế toán, thông tin về bên có liên quan, các những thay đổi về chính sách kế toán..

Ví dụ tại Việt Nam, trong báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Container Phía Nam [VSG], kiểm toán viên lưu ý người sử dụng đến khoản lỗ chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện do đánh giá lại số dư có gốc ngoại tệ cuối năm của khoản vay dài hạn với số tiền 33,16 tỷ đồng đang được ghi nhận trên chỉ tiêu “chênh lệch tỷ giá hối đoái”. Điều này giúp cho người sử dụng hiểu được, việc áp dụng TT 201/2009/TT-BTC giúp cho công ty giảm lỗ 33,16 tỷ đồng. Nếu áp dụng VAS 10 thì chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên báo cáo tài chính của công ty năm 2010 không phải con số lỗ 40,66 tỷ đồng mà là con số lỗ 73,82 tỷ đồng. Qua đó cho người sử dụng thấy một phần lợi nhuận được tạo ra [hoặc một phần giảm lỗ] là do sự thay đổi cách hạch toán mà có chứ không phải do bản thân hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty tạo ra. [8]

  • Hạ thấp lợi nhuận

Trong những năm tình hình kinh doanh thuận lợi, doanh nghiệp đạt lợi nhuận cao hơn so với kế hoạch, ban lãnh đạo có thể muốn để dành lợi nhuận cho năm sau. Ngược lại, khi tình hình kinh doanh khó khăn, doanh nghiệp khó đạt lợi nhuận theo kế hoạch thậm chí là thua lỗ, xu hướng giảm lợi nhuận hay tăng lỗ trong năm [nhằm giảm chi phí năm sau] cũng xuất hiện. Họ làm việc này chủ yếu là vì muốn có báo cáo tài chính tốt vào đúng thời điểm, tạo niềm tin cho nhà đầu tư vào triển vọng của công ty.

Chẳng hạn, doanh nghiệp sẽ để dành lợi nhuận để công bố vào các đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng nhằm thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư. Ngoài ra, theo ông Võ Kim Phụng, Trưởng phòng Phân tích Công ty Chứng Khoán MHB, cũng có khả năng ban lãnh đạo tận dụng lợi thế về tiếp cận thông tin để tạo sóng trên thị trường chứng khoán nhằm thu lợi cá nhân. Một số kỹ thuật mà các công ty thường sử dụng để “giấu” lợi nhuận bao gồm:

[1] Giảm doanh thu

Giảm doanh thu là một cách để doanh nghiệp thực hiện mục tiêu trên. Do vô tình hoặc cố ý, kế toán đã ghi nhận doanh thu không đúng niên độ. Ngoài ra, do việc ghi nhận doanh thu thông thường được căn cứ vào hóa đơn, nên việc bán hàng mà không xuất hóa đơn ngay lập tức cũng là một phương pháp để điều chỉnh doanh thu trong kỳ.

Báo cáo tài chính quý II/2010 của Công ty Cổ phần Quốc Cường Gia Lai [QCG] cho thấy, doanh thu sau soát xét tăng đến 177 tỉ đồng so với trước. Theo giải trình của QCG, đó là do ghi nhận thêm 204 tỉ đồng doanh thu từ việc bán dự án ở số 106 Lý Chính Thắng [quận 3, TP.HCM] và điều chỉnh giảm doanh thu nội bộ Tập đoàn 27 tỉ đồng.

Một thủ thuật nhỏ khác cũng giúp doanh nghiệp đẩy doanh số sang năm sau như tuyên bố trước một chương trình khuyến mãi bắt đầu từ ngày 1.1 [lúc đó, một số khách hàng có thể sẽ dời kế hoạch mua hàng sang sau ngày 1.1 để hưởng khuyến mãi]. Công ty cũng có thể sử dụng cách che giấu các khoản thu từ bán phế phẩm, hoa hồng và chiết khấu nhận từ nhà cung cấp.

[2] Tăng chi phí

Thủ thuật này được thực hiện thông qua sự thay đổi các ước tính kế toán của doanh nghiệp như phương pháp khấu hao, phân bổ chi phí, phương pháp tính giá hàng tồn kho. Trong báo cáo sau kiểm toán năm 2011 của CNG, kiểm toán viên có nêu: nếu phương thức khấu hao trước đây tiếp tục được sử dụng, chi phí khấu hao trong năm 2011 sẽ giảm 30,86 tỉ đồng. Điều đó có nghĩa, nếu Công ty không đột nhiên thay đổi phương pháp khấu hao, lợi nhuận trước thuế năm 2011 có thể tăng thêm 30,86 tỉ đồng.

Hay như trong báo cáo kiểm toán năm 2010, Công ty Cổ phần Hóa dầu Petrolimex [PLC] đã ghi nhận số chênh lệch giữa giá hạch toán và giá thực tế của thành phẩm, hàng hóa từ năm 2009 vào báo cáo kết quả kinh doanh năm 2010 với số tiền khoảng 55 tỉ đồng. Do vậy, kết quả kinh doanh năm 2010 của Công ty đã bao gồm số tiền 55 tỉ đồng từ năm 2009 chuyển sang.

Doanh nghiệp cũng có thể thực hiện thủ thuật này thông qua việc gia tăng ước tính các chi phí trích trước. Ngày 4.3.2011, CIG thông báo kết quả kinh doanh năm 2011 đã kiểm toán. Theo đó, doanh thu của CIG không thay đổi nhưng giá vốn hàng bán giảm 1 tỉ đồng. Nguyên nhân là đơn vị kiểm toán đã loại ra khoản chi phí trích trước. Như vậy, lợi nhuận của CIG rõ ràng đã bị giấu bớt.

Nhà đầu tư có thể nhận ra dấu hiệu của thủ thuật nói trên thông qua việc xem xét các tỉ lệ như giá vốn/doanh thu, chi phí/doanh thu khi các chỉ số này có sự thay đổi lớn so với cùng kỳ. Tuy nhiên, việc này sẽ khó hơn nhiều đối với những năm có biến động mạnh về giá cả như năm 2011 [do lạm phát].

Một phương pháp dịch chuyển lợi nhuận khác là lập các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, đầu tư tài chính, nợ phải thu khó đòi cao hơn mức cần thiết và thực hiện hoàn nhập dự phòng vào năm sau.

Theo ông Phụng, Công ty Chứng khoán MHB, nhà đầu tư nên dựa vào báo cáo tài chính đã kiểm toán của công ty và những thông tin khác như giao dịch của cổ đông nội bộ, cổ đông lớn để ra quyết định. Khi chưa có báo cáo kiểm toán, nhà đầu tư nên xem xét tiểu sử của công ty như liệu trong quá khứ báo cáo tài chính của công ty đã có những biến động lớn giữa trước và sau kiểm toán hay chưa. [9]

Tuy nhiên, cần lưu ý là những thủ thuật dịch chuyển lợi nhuận không phải lúc nào cũng gây tổn hại đến lợi ích lâu dài của công ty. Đối với nhà đầu tư giá trị, dịch chuyển lợi nhuận cũng là một phương pháp đảm bảo cho thu nhập từ cổ tức vào năm sau.

  • Động cơ khác

Ngoài ra, do áp lực ngân hàng đòi hỏi phải duy trì một mức lợi nhuận nào đó mới cho vay vốn kinh doanh, từ nhà cung cấp, hoặc áp lực từ bên trong công ty, cũng như những khoản tiền thưởng béo bở cho giám đốc nếu công ty có lợi nhuận tốt cũng là một động lực của việc thổi phồng lợi nhuận.

5.2. Từ phía Nhà nước

Một số nguyên nhân khách quan đến từ chính sách quản lý của Nhà nước và các cơ quan chức năng có liên quan như:

5.2.1. Các biện pháp xử phạt còn nhẹ

Tình trạng DN đang lỗ thành lãi, đang lãi sang lỗ lại tái diễn mỗi mùa công bố báo cáo kiểm toán, soát xét đang khiến nhiều người đặt câu hỏi: Phải chăng việc cơ quan quản lý thị trường yêu cầu giải trình rồi “để đó”, mà không có các chế tài mạnh tay khiến DN lờn quy định.

Nghị định 105/2013/NĐ-CP về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán có hiệu lực từ 01/12/2013, tại Điều 10 có quy định “phạt tiền từ 20 - 30 triệu đồng đối với hành vi giả mạo báo cáo tài chính, khai man số liệu trên báo cáo tài chính; thoả thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo báo cáo tài chính, khai man số liệu trên báo cáo tài chính; thông tin, số liệu công khai báo cáo tài chính sai sự thật”. “Chế tài xử phạt đã có, nhưng cho tới nay, chưa có trường hợp nào doanh nghiệp bị phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán. Về nguyên tắc, nhà đầu tư được quyền khởi kiện doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhà đầu tư rất khó chứng minh được thiệt hại là do báo cáo tài chính của doanh nghiệp không trung thực. Ví dụ, hiện nay, ngân hàng nào cũng công bố có lãi hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng, anh đi mua cổ phiếu ngân hàng, cuối năm thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính ngân hàng bị lỗ, cổ phiếu giảm giá, thì anh đi kiện ai? Để bảo vệ nhà đầu tư, tăng minh bạch cho nền kinh tế, cần phải xử phạt thật nghiêm hành vi gian lận trong báo cáo tài chính.” [10]

5.2.2. Khuôn khổ pháp lý trên thị trường chứng khoán chưa được hoàn thiện

Để giảm thiểu sự chênh lệch số liệu, khuôn khổ pháp lý trên thị trường chứng khoán phải hoàn thiện. Ở Mỹ, người ta có riêng một ủy ban giám sát chế độ kế toán, kiểm toán của công ty đại chúng. Ngoài việc giám sát doanh nghiệp, ủy ban này còn liên tục đưa ra các hướng dẫn, chuẩn mực phụ trong công bố thông tin tài chính của doanh nghiệp để hỗ trợ doanh nghiệp và bảo vệ nhà đầu tư. Bên cạnh đó, chế tài xử phạt doanh nghiệp vi phạm quy chuẩn về công bố thông tin, sai phạm trong báo cáo tài chính là rất nặng, nhằm cảnh báo chung cho các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, tại Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có doanh nghiệp niêm yết hoặc lãnh đạo doanh nghiệp niêm yết nào bị phạt vì lý do bất nhất số liệu trước và sau kiểm toán.

5.2.3. Chế độ kế toán, kiểm toán còn nhiều khoảng hở

Tại Việt Nam, vì chế độ kế toán, kiểm toán vẫn còn nhiều khoảng hở, nên rất khó để đi đến cùng kết luận một sự vụ chênh lệch báo cáo trước và sau kiểm toán tại doanh nghiệp là sai phạm hay không. Vì thế, để giảm bớt tình trạng này, VAFI [Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính] cho rằng, từ năm 2012, Sở Giao dịch chứng khoán TP. HCM nên có quy định buộc doanh nghiệp niêm yết soát xét báo cáo tài chính hàng quý. Bộ Tài chính nên có biện pháp tăng cường trách nhiệm của công ty kiểm toán, chẳng hạn, hàng năm Bộ kiểm tra điểm một số báo cáo tài chính đã kiểm toán, hoặc thanh tra công tác kế toán, kiểm toán tại doanh nghiệp theo yêu cầu của nhà đầu tư. VAFI dự kiến sẽ có cuộc làm việc với Hiệp hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam để đi đến thống nhất, trước khi cùng ký công văn đề xuất với Bộ Tài chính.

5.3. Từ phía nhà đầu tư

Một số nhà đầu tư chưa có nhiều kiến thức về đọc hiểu báo cáo tài chính, thiếu sự thận trọng khi đưa ra các quyết định đầu tư.

6. HẬU QUẢ CỦA VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP

Sai sót nói chung và gian lận nói riêng trong báo cáo tài chính đang phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Tại Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới, nguy cơ xuất hiện sai lệch trên báo cáo tài chính sau kiểm toán của doanh nghiệp ở mức rất cao. Thực tế, hậu quả của những sai lệch thông tin trên báo cáo tài chính khó lường và nghiêm trọng hơn những gì các nhà quản lý có thể nhận thấy. Đó là:

[1] Làm suy yếu chất lượng báo cáo tài chính.

[2] Làm xói mòn tính toàn vẹn và khách quan của nghề kế toán.

[3] Làm giảm niềm tin vào thị trường vốn và niềm tin vào độ tin cậy của các thông tin tài chính.

[4] Làm cho thị trường vốn kém hiệu quả.

[5] Ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng và thịnh vượng của 1 quốc gia.

[6] Có thể dẫn đến thiệt hại do kiện tụng.

[7] Phá hủy sự nghiệp của các cá nhân liên quan đến hành vi gian lận.

[8] Gây ra phá sản hoặc thiệt hại kinh tế cho công ty tham gia vào việc gian lận.

[9] Đòi hỏi mức độ can thiệp cao hơn của những quy định của nhà nước và pháp luật.

[10] Phá vỡ hoạt động bình thường của thị trường và hoạt động của các công ty bị cáo buộc gian lận.

7. GIẢI PHÁP

Với những hậu quả nghiêm trọng như vậy, tác giả xin đưa ra một số giải pháp nhằm hạn chế sự sai lệch trên báo cáo tài chính sau kiểm toán.

7.1. Về phía công ty

7.1.1. Nâng cao vai trò của Hội đồng Quản trị và Ban Kiểm soát

Một trong những chức năng quan trọng của Hội đồng Quản trị là thay mặt cổ đông giám sát hoạt động của Công ty. Hội đồng Quản trị một mặt có trách nhiệm hỗ trợ, tư vấn cho Giám đốc công ty trong các quyết định quan trọng, mặt khác có trách nhiệm phát hiện và ngăn ngừa những hành vi đi ngược lại lợi ích của cổ đông. Vì vậy, Hội đồng Quản trị chính là một cơ chế kiểm soát quan trọng ngăn ngừa việc bóp méo thông tin tài chính nhằm lừa gạt các nhà đầu tư. Peasnell, Pope, Young nghiên cứu các công ty ở Anh thấy rằng trong các công ty mà tính độc lập của Hội đồng Quản trị càng cao thì tình trạng phù phép báo cáo tài chính càng ít.

Hỗ trợ cho hoạt động của Hội đồng Quản trị có Ban Kiểm soát. Thông thường Ban Kiểm soát bao gồm một hoặc một số thành viên có am hiểu về Kế toán - Tài chính. Những thành viên này đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và ngăn ngừa các hành vi phù phép báo cáo tài chính đi ngược lại lợi ích của cổ đông. Nghiên cứu của Xie, Davidson, DaDalt cho thấy mức độ am hiểu về Tài chính của các thành viên Ban Kiểm soát tỷ lệ nghịch với tình trạng phù phép báo cáo tài chính. [11]

7.1.2. Nâng cao vai trò của Kiểm toán độc lập

Một nhân tố không thể thiếu để bảo đảm tính minh bạch của thông tin tài chính là kiểm toán độc lập. Thông thường các kiểm toán viên chuyên nghiệp có kiến thức sâu hơn về tài chính - kế toán so với các thành viên Ban Kiểm soát và Hội đồng Quản trị, cho phép họ có thể phát hiện ra những thủ thuật tinh vi nhằm bóp méo thông tin tài chính. Kiểm toán viên cũng có tính độc lập cao hơn so với các thành viên Hội đồng Quản trị và Ban Kiểm soát. Tất nhiên, những lợi ích do kiểm toán độc lập mang lại cũng phụ thuộc nhiều vào năng lực, uy tín của kiểm toán viên. Giới chuyên môn cũng như các nhà nghiên cứu vẫn luôn cho rằng các hãng kiểm toán Big 4 có chất lượng cao hơn các hãng kiểm toán khác. Với các hãng kiểm toán không phải Big 4, một trong những tiêu chí quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng kiểm toán chính là quy mô của hãng kiểm toán. Quy mô hãng kiểm toán càng lớn thì chất lượng càng cao.

7.1.3. Nâng cao năng lực chuyên môn và đạo đức của đội ngũ nhân viên kế toán

Công việc kế toán gắn liền với các hoạt động kinh tế, tài chính, mà các hoạt động này diễn ra ngày càng đa dạng, phong phú, muôn màu muôn vẻ. Do đó, để đáp ứng được nhu cầu công việc, nhân viên kế toán phải có năng lực và kinh nghiệm làm việc thực tế cũng như cập nhật kiến thức một cách thường xuyên, điều này sẽ giúp họ bắt kịp xu hướng biến động không ngừng của nền kinh tế thị trường.

Ngoài ra, nhân viên kế toán còn phải có đạo đức. Sau nhiều vụ bê bối về tài chính, các công ty trên thế giới hiện nay rất chú ý đến đạo đức nghề nghiệp của người kế toán viên. Nhiều công ty đã đặt tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp lên số một khi cần tuyển dụng nhân viên kế toán giỏi cho công ty. Hầu hết họ đều nhận thức được rằng thông tin kế toán là rất cần thiết cho nhà quản trị để ra các chiến lược và quyết định kinh doanh. Một khi kế toán viên cố tình làm sai lệch các thông tin sẽ dẫn đến các quyết định của nhà quản trị không phù hợp, thậm chí là sai lầm dẫn đến doanh nghiệp rơi vào tình trạng khó khăn…

Tại Việt Nam, việc hành xử thiếu đạo đức trong nghề kế toán cũng đang phổ biến đáng báo động - Bà Nguyễn Phương Mai, Trưởng đại diện Hiệp hội Kế toán công chứng Anh [ACCA] tại Việt Nam, nhận định. Bà Mai dẫn chứng trong đợt kiểm tra các công ty kế toán, có nhiều kế toán viên không biết đọc báo cáo kiểm toán, không biết lập báo cáo tài chính nhưng vẫn nhận hợp đồng của khách hàng dẫu không có chuyên môn. Điều này là một trong những biểu hiện của việc thiếu đạo đức kế toán… Những sinh viên trẻ ra trường chưa có tính tự giác, chưa đặt nặng tính chuyên nghiệp mà chỉ chú trọng đến kỹ năng chuyên môn… Bà Phương Mai cho rằng trau dồi nghiệp vụ chuyên môn là cần thiết nhưng điều quan trọng nhất của một kế toán viên chính là phải trau dồi đạo đức nghề nghiệp bởi đó sẽ là kim chỉ nam để phát triển sự nghiệp[12]

7.2. Về phía Nhà nước

7.2.1. Tăng cường các biện pháp xử lý vi phạm

Bộ Tài chính đã lường trước tất cả các hành vi vi phạm trong việc lập báo cáo tài chính có thể xảy ra trong thực tế và đều quy định mức phạt cụ thể, nhưng tính răn đe không cao. Hiện nay mức phạt là từ 20 - 30 triệu đồng đối với “hành vi giả mạo báo cáo tài chính, khai man số liệu trên báo cáo tài chính; thoả thuận hoặc ép buộc người khác giả mạo báo cáo tài chính, khai man số liệu trên báo cáo tài chính; thông tin, số liệu công khai báo cáo tài chính sai sự thật”. Mức phạt này không thấp, nhưng chưa có tính răn đe nếu không truy tố trước pháp luật đối với hành vi gian lận nhằm trục lợi, gây thiệt hại nghiêm trọng đến nhà đầu tư. Do vậy, ngoài các biện pháp chế tài, Bộ Tài chính cần đưa ra các biện pháp pháp lý để củng cố vai trò răn đe của pháp luật và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm về kinh tế-tài chính.

7.2.2. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trên thị trường chứng khoán

Hiện nay, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư, đồng thời để đảm bảo cho thị trường hoạt động công khai minh bạch, Luật Chứng khoán ban hành ngày 29/06/2006 và mới đây là Thông tư 155/2015/TT-BTC ngày 06/10/2015 đã có những quy định cụ thể về nghĩa vụ báo cáo và công bố thông tin của công ty đại chúng. Các công ty đại chúng có nghĩa vụ phải thực hiện công bố thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác tới các cấp quản lý và ra công chúng đầu tư theo các loại hình như công bố thông tin định kỳ, công bố thông tin bất thường và công bố thông tin theo yêu cầu. Tuy vậy, các qui định về công bố thông tin trên thị trường giao dịch chứng khoán vẫn chưa được rõ ràng, cụ thể, chưa xác định các thông tin nào doanh nghiệp bắt buộc phải công bố, thông tin nào được quyền giữ kín.

Ngoài ra, pháp luật qui định các tổ chức niêm yết, công ty quản lý quĩ, thị trường giao dịch chứng khoán không được cung cấp thông tin sai sự thật, còn nghĩa vụ, trách nhiệm và hình thức xử phạt đối với việc công bố thông tin sai sự thật và không kịp thời thì lại chưa có các qui định rõ.

Do vậy, để thị trường chứng khoán phát triển một cách ổn định và bền vững, cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho thị trường theo hướng ngày càng tiếp cận các tiêu chuẩn của tổ chức tài chính quốc tế, đặc biệt cần quán triệt các nguyên tắc quản lý thị trường mà IOSCO [Ủy ban chứng khoán quốc tế] đã khuyến nghị, đồng thời phải phù hợp với tình hình và đặc điểm Việt Nam trong xu hướng phát triển và hội nhập, có như vậy mới nâng cao tính hiệu quả của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về thị trường chứng khoán nói riêng.

7.2.3. Hoàn thiện hệ thống kế toán Việt Nam

Hệ thống pháp luật về kế toán Việt Nam bao gồm Luật Kế toán năm 2003, các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và các quy định kế toán liên quan. Thời gian qua, hệ thống pháp luật về kế toán ở Việt Nam đã được xây dựng và từng bước hoàn thiện, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng thông tin kế toán. Tuy vậy, trong quá trình vận hành, cùng với những thay đổi mạnh mẽ của nền kinh tế, chính sách của Nhà nước và yêu cầu hội nhập theo nền kinh tế thị trường...hệ thống kế toán Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế gây khó khăn cho người làm kế toán và người sử dụng thông tin kế toán.

Chẳng hạn như, một số chuẩn mực kế toán quốc tế đã được ban hành nhưng Việt Nam vẫn chưa xúc tiến nghiên cứu, soạn thảo như: Thanh toán trên cơ sở cổ phiếu [IFRS 2], Tài sản dài hạn nắm giữ để bán và ngừng hoạt động [IFRS 5], Tổn thất tài sản [IAS 36]...Điều này dẫn đến thiếu tính thống nhất cũng như tính đồng bộ trong hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam so với quốc tế. Sự chậm trễ này đã ảnh hưởng đến chất lượng thông tin, làm cản trở quá trình phát triển của hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam so với sự phát triển nhanh chóng của quốc tế và các nước trong khu vực. Hoặc, chế độ kế toán Việt Nam theo Quyết định 48 đã cắt bỏ một số quy định và nội dung trong chuẩn mực kế toán số 02 về hàng tồn kho, số 03, 04 về tài sản cố định hữu hình và vô hình, số 21 về trình bày báo cáo tài chính...Điều này dẫn đến sự thiếu thống nhất trong việc triển khai áp dụng chuẩn mực kế toán vào thực tiễn và làm giảm chất lượng thông tin kế toán [13]

Do vậy, Việt Nam cần lưu ý khi ban hành các luật và quy định liên quan đến các nghiệp vụ kế toán. Đây là vấn đề mang tính cốt yếu và quyết định bởi tất cả các quy định đảm bảo tính nhất quán sẽ tạo nên hệ thống đồng bộ, tạo dựng hành lang pháp lý vững chắc, hạn chế được sự chồng chéo, mâu thuẫn về nội dung.

7.3. Về phía nhà đầu tư

Để giảm thiểu rủi ro, nhà đầu tư nào cũng cần có thêm hiểu biết về kinh tế, tài chính và cả kế toán. Báo cáo của doanh nghiệp cũng cần được theo dõi trong nhiều thời kỳ và xâu chuỗi, thì mới nhìn thấy được sức khoẻ thực sự của doanh nghiệp.

Hãy thận trọng với những “chiêu” làm đẹp sổ sách của các công ty mẹ, công ty con. Đó là hiện tượng chuyển vốn lòng vòng từ các công ty mẹ, công ty con...

KẾT LUẬN

Sai lệch trên báo cáo tài chính sau kiểm toán vẫn luôn là một trong những chủ đề thời sự hiện nay. Việc phát sinh các sai sót trên báo cáo tài chính ở những công ty đại chúng nói chung và những công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán nói riêng đang đe dọa tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính gây mất niềm tin của nhà đầu tư vào các thông tin tài chính được công bố. Do vậy, để hạn chế những sai sót, đòi hỏi sự chung tay góp sức từ phía công ty trong việc hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, từ phía nhà nước trong việc hoàn thiện các chính sách pháp luật có liên quan và từ phía các nhà đầu tư trong việc nâng cao hiểu biết về các thông tin trên báo cáo tài chính.

Dựa trên cơ sở lý luận và tình hình thực tế phát sinh tại Việt Nam, tác giả đã nghiên cứu những nguyên nhân chủ yếu tạo nên sự khác biệt trên báo cáo tài chính trước và sau kiểm toán, từ đó, đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế ở mức có thể những sai lệch về thông tin trên báo cáo tài chính, trả lại tính trung thực và hợp lý vốn có của báo cáo tài chính giúp nhà đầu tư có cái nhìn thông suốt hơn về sức khỏe của doanh nghiệp trước khi đưa ra các quyết định của mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. “Những vụ án kinh tế chấn động”, 13/09/2012, www.saigondautu.com.vn

2. “Toshiba có thể bị phạt 3 tỷ USD do “thổi phồng” lợi nhuận”, 31/07/2015, www.motthegioi.vn [Phan Diệu [st], Reuters, Blomberg]

3. “Có nên công bố báo cáo tài chính chưa kiểm toán”, 07/05/2009, www.cafef.vn

4. “Nghiên cứu về sai sót trong báo cáo tài chính của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Trần Nguyễn Nguyên Trân

5. “Chênh lệch sau kiểm toán 2014: “Vẫn còn nhức nhối””, 27/03/2015, www.vietstock.vn

6. Công văn giải trình số 755/KVN-TC-KTKT giải trình chênh lệch về số liệu trước và sau kiểm toán trong Báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất năm 2013 ngày 14/04/2014 của Tổng công ty khí Việt Nam

7. Công văn giải trình số 20/2015-TVC về chênh lệch số liệu trên Báo cáo tài chính hợp nhất Quý 4 năm 2014 của cty CP Quản lý Đầu tư Trí Việt ngày 30/03/2015

Chủ Đề