Hệ quả chính sách cai trị của thực dân Pháp

Đề bài:

A. Nền kinh tế phát triển rõ rệt

B. Công nghiệp phát triển

C. Cơ cấu kinh tế ít nhiều có sự biến chuyển, cơ cấu xã hội biến đổi sâu sắc

D. Phong trào yêu nước phát triển mạnh

C

Ngày 1-9-1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta và nhanh chóng chúng đã chiếm được đất nước ta với hai bản hiệp ước Acmang 1883 và hiệp ước patơnốt 1884 mà triều đình nhà Nguyễn đã ký với Pháp công nhận sự thống trị lâu dài của thực dân Pháp đối với nước ta. Sau khi đặt ách thống trị lên đất nước ta thực dân Pháp đã nhanh chóng thiết lập chế độ chính trị vô cùng phản động và thực hiện chương trình khai thác thuộc địa nhằm vơ vét tài nguyên thiên nhiên về cho chính quốc, để lại những hậu quả to lớn cho đất nước Việt Nam.

Thực dân Pháp thực hiện chương trình khai thác thuộc địa nước ta chia làm hai giai đoạn:

+ Giai đoạn 1: Từ năm 1897 – 1914

+ Giai đoạn 2: Từ năm 1919 – 1929

Thực dân Pháp thực hiện chính sách cực kỳ phản động trên tất cả các mặt kinh tế-chính trị-xã hội nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho tư bản Pháp

* Về chính trị:

– Thực hiện chính sách chuyên chế về chính trị với bộ máy đàn áp vô cùng nặng nề.

– Dùng chính sách cai trị trực tiếp, duy trì bộ máy chính quyền phong kiến từ trung ương xuống địa phương làm tay sai đắc lực cho chúng

– Thực hiện chính sách chia để trị chúng chia đất nước ta ra thành 3 kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, với mỗi kỳ chúng lại thực hiện một chế độ chính trị riêng

– Thủ tiêu mọi quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam, đàn áp các phong trào yêu nước của nhân dân ta.

* Về kinh tế:

– Thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế thực dân phản động và bảo thủ nhằm biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hoá ế thừa và cung cấp nguyên vật liệu cho chúng.

– Thủ đoạn:

– Thực hiện chính sách độc quyền về kinh tế trên tất cả các ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp.

– Đặt ra nhiều thứ thuế vô lý [thuế thân, thuế chợ, thuế đò…]

– Duy trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu nhằm mục đích bóc lột tối đa kìm hãm nền kinh tế của nước trong vòng lạc hậu

– Thực dân Pháp thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

* Về văn hoá:

– Thực dân Pháp thực hiện chính sách kìm hãm và nô dịch nhân dân ta về văn hoá gây tâm lý tự ty vong bản, giam hãm và đầu độc nhân dân ta trong bề tăm tối, làm cho nhân dân ta ngu để dễ bề cai trị.

– Thủ đoạn:

– Khuyến khích các tệ nạn xã hội, các luồng văn hoá ngoại lai đồi trụy nhằm đầu độc nhân dân Việt Nam.

– Xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học và bệnh viện

– Ngăn chặn sự ảnh hưởng của văn hoá tiến bộ vào Việt Nam kể cả văn hoá tiến bộ Pháp.

Hậu quả: Chính sách khai thống trị vô cùng phản động và chương trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp để lại hậu quả vô cùng nặng nề đối với nước ta, làm cho nền kinh tế nước ta sa sút nghiêm trọng các tệ nạn xã hội phát triển, xã hội phân hóa hết sức sâu sắc. Xã hội nảy sinh mâu thuẫn ngoài mâu thuẫn cơ bản đã tồn tại là mâu thuẫn giai cấp xã hội còn nảy sinh thêm mẫu thuẫn mới đó là mẫu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc Pháp xâm lược đây là mâu thuẫn dân tộc cần phải được giải quyết trước đem lại độc lập tự do cho đất nước. Ngoài ra trong xã hội còn xuất hiện các giai cấp mới ngoài các giai cấp cơ bản là nông dân, địa chủ phong kiến xã hội còn xuất hiện giai cấp công nhân, giai cấp tư bản, giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản trong đó giai cấp công nhân có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo cách mạng đấu tranh chống đế quốc giải phóng dân tộc.

* Tóm lại:

Toàn bộ thủ đoạn và chính sách cai trị của thực dân Pháp đối với nước ta nhằm làm cho dân nhân ta phụ thuộc vào chúng mọi mặt đồng thời để lại những hậu quả nặng nề đối với nước ta.

Sau khi căn bản hoàn thành công cuộc bình định bằng quân sự, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam một cách có quy mô. Do đó, qua nội dung bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu về chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp?

Tổ chức bộ máy nhà nước

Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm có Việt Nam, Campuchia, Lào, đứng đầu là viên Toàn quyền người Pháp.

Việt Nam bị chia làm ba xứ với ba chế độ cai trị khác nhau: Bắc Kì là xứ nửa bảo hộ, Trung Kì theo chế độ bảo hộ và Nam Kì theo chế độ thuộc địa. Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh, đứng đầu xứ và tỉnh là các viên quan người Pháp. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu.

Đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam vẫn là làng xã, do các chức dịch địa phương cai quản. Bộ máy chính quyền từ trung tương đến cơ sở đều do thực dân Pháp chi phối.

Chính sách cai trị về kinh tế

Thực dân Pháp đẩy mạnh việc cướp đoạt ruộng đất, ở Bắc Kì chỉ tính đến năm 1092 đã có đến 182000 ha ruộng đất bị Pháp chiếm, riêng giáo hội Thiên chúa đã chiếm 1/4 diện tích cày cấy ở Nam kì. Bọn chủ đất mới vẫn áp dụng phương pháp bóc lột nông dân theo kiểu phát canh thu tô như địa chủ Việt Nam.

Còn trong công nghiệp, trước hết bọn thực dân Pháp tập trung vào hoạt động khai thác than và kim loại. Chỉ tính riêng trong năm 1912 sản lượng khai thác than đã tăng gấp 2 lần sản lượng khai thác của năm 1903. Trong năm 1922 Pháp đã khai thác hàng vạn tấn quặng kẽm, hàng trăm tấn thiếc, đồng, hàng trăm kilogam vàng và bạc.

Sau công nghiệp khai thác, các ngành sản xuất xi măng, gạch ngói, điện nước, chế biến gỗ, xay xát gạo, giấy, diêm. Rượu, đường, vải sợi…cũng đem lại cho chúng một nguồn lợi nhuận vô cùng lớn.

Thực dân Pháp xây dựng hệt thống giao thông vận tải nhằm tặng cường việc bóc lột kinh tế và dễ dàng đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân.

Đường bộ vươn tới những nơi xa xôi hẻo lánh, đường thủy ven biển và kênh rạch ở Nam Kì được khai thác triệt để. Đến năm 1912 thì hệ thống đường sắt ở Việt Nam đã có tổng chiều dài lên đến 2059 km.

Để nắm giữ được sử độc quyền trong thị trường Việt Nam, hàng hóa của Pháp nhập vào Việt Nam chỉ bị đánh thuế rất nhẹ hoặc thuộc đối tượng miễn thuế. Trong khi đó hàng hóa được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước khác thì phải chịu với mức thuế rất cao, có mặt hàng lên đến 120%, do đó mà hầu hết hàng hóa do Việt Nam sản xuất chủ yếu được xuất khấu qua Pháp.

Ngoài ra, Pháp còn tiến hành đánh các thứ thuế mới, chồng lên các thuế cũ đã có từ trước khi Pháp can thiệp vào Việt Nam. Trong đó nặng nhất phải kể đến thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện, đồng thời chúng còn bắt phu đắp đường, đào sông, xây cầu, dinh thự, đồn bốt…

Chính sách trong văn hóa, giáo dục

Tính đến năm 1919 thì Pháp vẫn duy trì chế độ giáo dục của thời kì phong kiến, song trong một số kì thi thì sẽ tổ chức thêm môn Tiếng Pháp. Về sau, do nhu cầu học tập của con em các quan chức thực dân và cũng như tạo một lớp cho người bản xứ nhằm phục vụ cho công việc cai trị sau này, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương đã bắt đầu mở thêm trường học mới cùng một số cơ sở văn hóa, y tế.

Từ đó, hệ thống giáo giục phổ thông được chia làm ba bậc đó là:

– Bậc Ấu học ở thôn xã, tập trung dạy chữ Hán và Quốc ngữ;

– Bậc Tiểu học ở phủ, huyện tập trung dạy chữ Hán, Quốc Ngữ và tiếng Pháp được xác định là môn tự nguyện;

– Bậc Trung học ở tỉnh, dạy chữ Hán, Quốc Ngữ và chữ Pháp là môn học bắt buộc.

Những chuyển biến của xã hội Việt Nam

Dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa của Thực dân Pháp, xã hội Việt Nam đã có nhiều chuyển biến như sau:

1/ Ở các vùng nông thôn

Giai cấp địa chủ phong kiến đã đầu hàng, chấp nhận làm tay sai cho thực dân Pháp với số lượng ngày càng tăng lên nhanh chóng. Một bộ phận đã cấu kết với đế quốc nhằm áp bức, bóc lột người dân. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phần các địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước.

Chính những điều này đã khiến cho đời sống nhân dân ngày càng lâm vào tình cảnh khổ cực. Họ bị tước đoạt hết ruộng đất, phải gánh chịu nhiều thứ thuế vô lý và vô số các khoản phụ thu của chức dịch trong các làng,

Nông dân bị phá sản, có người ở lại nông thôn làm tá điền cho địa chủ, một số khác bỏ đi làm phu cho các đồn điền Pháp, số khác ra thành thị kiếm ăn bằng những nghề phụ như cắt tóc, kéo xe… Một số còn lại thì làm công ở các nhà máy, hầm mỏ của tư bản Pháp và Việt Nam.

2/ Ở đô thị

Cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, đô thị Việt Nam ra đời và phát triển ngày càng nhiều. Ngoài Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn thì còn có Nam Định, Hòn Gai, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn…

Cùng với sự phát triển của đo thị thì một tầng lớp tư sản đầu tiên đã xuất hiện. Họ là các nhà thầu khoán, đại lí, chủ xí nghiệp, chủ xưởng thủ công, đông nhất là các chủ hãng buôn bán. Họ bị các nhà tư bản Pháp chèn ép, chính quyền thực dân kìm hãm. Song do bị lệ thuộc, yếu ớt về mặt kinh tế nên họ chỉ mong muốn có những thay đổi nhỏ để dễ bề làm ăn, sinh sống.

Ngoài ra, một tầng lớp đông đảo cũng xuất hiện trong giai đoạn này, đó là tiểu tư sản thành thị. Họ là các chủ xưởng thủ công nhỉ, cơ sở buôn bán nhỏ, những viên chức cấp thấp, như thông ngôn, nhà giáo, thư kí…cuộc sống của họ tuy có phầ dễ chịu hơn nông dân, công nhân và dân nghèo thành thị, song vẫn rất bấp bênh. Họ là những người có ý thức dân tộc, đặc biệt là các nhà giáo, thanh niên, học sinh nên rất tích cực tham gia vào các cuộc vận động cứu nước đầu thế kỉ XX.

Công, thương nghiệp phát triển nên cũng dẫn đến sự hình thành của đội ngũ công nhân. Họ chủ yếu có xuất thân từ nông dân, không có ruộng đất nên phải tìm đến các hầm mỏ, nhà máy, đồn điền… Công nhân và gia đình của họ bị thực dân phong kiến và tư sản bóc lột nên sớm đã có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống bọn chủ, đòi cải thiện điều kiện làm việc và sinh hoạt như tăng lương, giảm giờ làm…

Với nội dung bài viết phía trên, chúng tôi đã giải thích cho Quý khách về Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp? Nếu còn gì thắc mắc về vấn đề này thì Qúy khách hãy liên hệ đến tổng đài 19006557 để được hỗ trợ trực tiếp.

Video liên quan

Chủ Đề