Tự Lực văn đoàn[1] [chữ Hán: 自力文團, tiếng Pháp: Groupe littéraire de ses propres forces] là tổ chức văn học mang tính hội đoàn[2], một nhóm nhà văn[3] đã tạo nên một trường phái văn học [do đó mới có khái niệm "trường phái tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn" phổ biến trong giới nghiên cứu], một phong trào cách tân văn học [và trên nhiều lĩnh vực, đồng thời là một phong trào cách tân văn hóa, cải cách xã hội] Việt Nam hiện đại, khởi đầu là một tổ chức văn bút do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam khởi xướng vào năm 1932,[4] nhưng đến thứ sáu ngày 2 tháng 3 năm 1934 mới chính thức trình diện [theo tuần báo Phong Hóa số 87].[5] Tự Lực văn đoàn Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu [bao gồm Vu Gia, một trong những học giả hàng đầu về văn phái Tự Lực] xem Tự Lực văn đoàn là tổ chức tư nhân làm văn chương và sống bằng văn chương [sáng tác văn học cũng như làm báo chí] một cách thực sự chuyên nghiệp và hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Họ là những người “tự lực” về nhiều mặt, đúng với tên gọi của văn đoàn. Dù thu nhập của họ có thể không cao hơn mấy so với mặt bằng trung bình của xã hội Việt Nam thời đó nhưng họ không cần phải qua con đường khoa cử thời cũ để tiến thân như cha ông họ cách đó chừng một thế hệ [so sánh với trường hợp của Tú Xương], cũng không cần nhờ vào hỗ trợ tài chính của chính quyền bảo hộ Pháp [như trường hợp Phạm Quỳnh] và cũng không đến nỗi phải sống lay lắt với nghiệp văn chương như thế hệ giao thời trước họ không lâu [như trường hợp Tản Đà “khi làm chủ báo, lúc viết mướn, hai chục năm dư cảnh khốn cùng”].
So với những nhóm sáng tác thơ văn từng tồn tại trước đó trong lịch sử Việt Nam [chẳng hạn như Tao đàn nhị thập bát tú, Tao đàn Chiêu Anh Các, Tùng Vân thi xã] hay một vài nhóm sáng tác văn học tư nhân đương thời với Tự Lực văn đoàn thì chỉ có nhóm Tự Lực mới hội tụ gần như đầy đủ tất cả những đặc tính cơ bản của một trường phái văn học [đặc biệt là "trường phái tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn"] hay một văn phái theo định nghĩa nghiêm ngặt của từ này. Đây là thứ khác biệt rõ ràng giữa Tự Lực văn đoàn với một vài nhóm sáng tác văn học Việt Nam ra đời trước họ và được gọi là văn phái như Ngô gia “văn phái” hay Hồng Sơn “văn phái”. Bởi vì Tự lực văn đoàn có tính tổ chức cao, năng lực tự túc tài chính tương đối cao, cương lĩnh hoạt động, tuyên ngôn tư tưởng rõ ràng, quy chế thành viên tương đối chặt chẽ. Ngay cả nhóm văn nghệ 'Sáng Tạo' [với những thành viên chủ chốt như Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên] một thời nổi tiếng tại miền Nam trong giai đoạn cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960 hay một vài nhóm sáng tác thơ văn tư nhân ra đời sau này cũng chưa có nhóm nào cho tới nay từng vươn tới mức độ ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử văn hóa Việt Nam nói chung như Tự Lực Văn Đoàn đã tạo nên trong khoảng chưa đầy một thập kỷ hoạt động ngắn ngủi nhưng sôi nổi, đa dạng của họ [1932–1942]. Và một thực tế lịch sử nữa là chưa từng có nhóm sáng tác văn học nào ở Việt Nam từ trước tới nay thu hút giới nghiên cứu phê bình một cách toàn diện như Tự Lực Văn Đoàn. Đối tượng nghiên cứu ở đây không chỉ là sự nghiệp sáng tác của từng thành viên cụ thể trong nhóm mà còn là thành tựu sáng tác, phong cách viết, lịch sử hoạt động của cả văn đoàn nói chung [xem chi tiết ở mục “Tài liệu nghiên cứu, phê bình về Tự Lực văn đoàn” trong phần cuối bài viết].
Một đặc điểm quan trọng không nên bỏ qua khi nghiên cứu về Tự Lực văn đoàn là hầu hết những thành viên trụ cột của nhóm như Khái Hưng Trần Khánh Giư, Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, Thạch Lam Nguyễn Tường Lân [nếu không kể thêm Trần Tiêu, em ruột Khái Hưng] đều có gốc gác xứ Đông hay trấn Hải Đông cũ, một tiểu vùng văn hóa cổ mà vành đai trung tâm nằm trong hai tỉnh thành Hải Dương và Hải Phòng ngày nay, ngoài ra cũng bao gồm một phần của Hưng Yên và Quảng Ninh.[6][7][8][9] Yếu tố văn hóa vùng miền [xứ Đông] cùng với các mối quan hệ trong đại gia đình kiểu cũ đặc biệt có một vai trò rất rõ nét trong những tác phẩm văn chương của Khái Hưng và Nhất Linh, hai cây bút “đàn anh” của cả nhóm Tự Lực. Những thành tựu của Tự Lực văn đoàn vì thế cũng có thể xem là những đóng góp nổi bật của văn học xứ Đông trong lịch sử văn chương Việt Nam. Trước đó, từng có một thời kỳ — thời kỳ văn hóa Lê-Mạc [1428–1592] — mà xứ Đông đóng vai trò tiên phong dẫn đường đối với việc sáng tạo thơ văn Việt Nam, với những đại diện tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ [cũng đôi khi được gọi là Nguyễn Dư], Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cần nhớ rằng việc sáng tác thơ văn bằng chữ Nôm của người Việt đã có những bước đi chập chững đáng ghi nhận ở thời kỳ Lý-Trần [1009–1400] nhưng chỉ thực sự tạo ra những bước đột phá vững chắc đầu tiên trong thời đại Lê-Mạc với 2 tập thơ Nôm của các tác gia gốc xứ Đông là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm.[10][11] Đây thực sự là những thành tựu có ý nghĩa rất trọng đại với nền văn học dân tộc bởi vì như nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Khiêu [1985] đã nhận xét rằng "suốt bao nhiêu thế kỷ học chữ Hán và làm thơ bằng chữ Hán, các nhà trí thức Việt Nam trước những khó khăn về ngôn từ và thể loại đã lẩn tránh việc cố gắng làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ." Bởi vậy nếu so sánh không quá khập khiễng, với tư cách là các tác gia xứ Đông ưu tú trong lịch sử sáng tác thơ văn của người Việt Nam, vai trò của những thành viên trụ cột của Tự Lực văn đoàn [điển hình là Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam] trong việc định hình một nền văn xuôi [đặc biệt là về tiểu thuyết và truyện ngắn] tiếng Việt sử dụng chữ Quốc ngữ ở thời kỳ hiện đại là không ít quan trọng hơn mấy so với vai trò của Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong việc tạo dựng diện mạo cho một nền thơ ca tiếng Việt sử dụng chữ Nôm ở thời kỳ trung đại.[12] Trong khoảng 10 năm tồn tại, thông qua nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa mà Tự Lực văn đoàn đã thổi một luồng gió khai phóng vào xã hội Bắc Trung Kỳ, ít nhiều thoát khỏi sự ràng buộc của những lề thói đã không còn thích ứng được với nhu cầu thời đại và tìm ra hướng tiếp cận xu thế hoàn cầu. Cho đến những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đã có không ít nghiên cứu hệ thống, phê bình chuyên sâu, nhận định thẳng thắn của cả những nhà nghiên cứu trong nước và hải ngoại về vai trò lịch sử của Tự Lực văn đoàn.[13][14] Ở đây có thể dẫn ra tổng kết ngắn gọn của học giả danh tiếng Hoàng Xuân Hãn [đăng trên Tạp chí Sông Hương, số 37, 1989] rằng trong lịch sử văn học Việt Nam thì "nhóm Tự Lực không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại." Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc [2013] nhận định về vai trò của nhóm không chỉ trong lịch sử văn học mà còn trong lịch sử văn hóa của Việt Nam nói chung: "Trong lịch sử Việt Nam, giới cầm bút ít có thói quen sinh hoạt theo nhóm... Nhìn lại văn học trung đại, từ cuối thế kỷ 19 trở về trước, chúng ta chỉ biết tên được một số tổ chức được gọi là tao đàn hay văn thi xã, như Tao đàn nhị thập bát tú của vua Lê Thánh Tông ở cuối thế kỷ 15, Chiêu Anh Các của Mặc Thiên Tích ở thế kỷ 18, Tùng Vân thi xã của Tùng Thiện Vương ở thế kỷ 19. Chỉ có hai nhóm đầu là có quy mô lớn và hoạt động tương đối tích cực... Nhưng về tầm vóc, cả hai, so với Tự Lực Văn Đoàn, hoàn toàn không đáng kể. Có thể nói, không có nhóm văn học nào, của tư nhân, từ xưa cũng như đến tận ngày nay, có tổ chức chặt chẽ, hoạt động đa dạng và sôi nổi như nhóm Tự Lực Văn Đoàn cả. Về phương diện tổ chức, họ có hội viên, có quy định về việc kết nạp hội viên, và đặc biệt, có cả cương lĩnh hoạt động rõ ràng. Về hoạt động, họ bao trùm rất nhiều lãnh vực: văn học, xã hội [phong trào Ánh Sáng] và về sau, từ năm 1939, cả chính trị nữa. Riêng trong lãnh vực văn học, họ không phải chỉ biết sáng tác mà còn ra báo [Phong Hóa và Ngày Nay], lập nhà xuất bản [Đời Nay], mở nhà in, và tổ chức các giải thưởng văn học. Trừ lãnh vực chính trị, trong mọi lãnh vực họ hoạt động, họ đều thành công rực rỡ. Trương Chính nhận định: “trong vòng tám năm, từ 1932 đến 1940, Tự Lực Văn Đoàn chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn công khai; sách báo họ in đẹp nhất, bán chạy nhất.” Chỉ với bảy người và chỉ trong khoảng một thời gian ngắn ngủi, họ làm được nhiều việc hơn bất cứ một nhóm văn học tư nhân nào khác trong cả lịch sử văn học Việt Nam từ trước đến nay... Đó không phải là nhóm lớn nhất hay quan trọng nhất trong “nền văn học hiện đại” hay trong giai đoạn 1930-1945 mà là trong suốt cả lịch sử kéo dài hơn một ngàn năm của văn học Việt Nam nói chung." Tuy nhiên đó cũng là "một nhóm văn học chịu nhiều oan khuất nhất trong nửa sau thế kỷ 20 như là hậu quả của những tranh chấp về chính trị và ý thức hệ tại Việt Nam trong suốt cả hai cuộc chiến tranh kéo dài từ 1945 đến 1975 cũng như cả giai đoạn gọi là “bao cấp” sau đó nữa... Với cả nhóm, cách đánh giá của giới nghiên cứu Việt Nam phần lớn vẫn còn khá rụt rè."[15] Trong khoảng thời gian sống tại Pháp, ngoài việc học khoa học, Nguyễn Tường Tam còn chuyên tâm nghiên cứu về nghề báo, và ông nhận thấy loại báo trào phúng là khá thích hợp với sở thích của nhiều người.[16] Năm 1930, ông đỗ bằng Cử nhân khoa học, và trở về Hà Nội để thực hiện ước vọng của mình. Nguyễn Tường Tam nộp đơn xin Sở Báo chí cho phép ra báo Tiếng cười, và chuẩn bị bài vở cho số báo đầu tiên. Tuy nhiên, lần nào hỏi thăm đều nghe người của sở ấy bảo rằng "chờ xét".[17] Trong thời gian đợi giấy phép ra báo, Nguyễn Tường Tam xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Tại đây, ông quen biết với hai đồng nghiệp là Trần Khánh Giư [Khái Hưng] và Phạm Hữu Ninh.[18] Khi biết ông Ninh cùng Nguyễn Xuân Mai đang làm chủ tờ tuần báo Phong Hóa, đã ra 13 số báo, nhưng sắp sửa phải đình bản vì không có gì mới mẻ để bạn đọc chú ý. Chớp thời cơ, Nguyễn Tường Tam ngỏ ý mua lại. Sau đó, ông Tam, với vai trò giám đốc [Directeur] tờ báo, liền cùng với một nhóm anh em bạn hữu gồm có: Khái Hưng [Trần Khánh Giư, vốn là cây bút cốt cán giữ nhiều mục quan trọng trên báo Phong Hóa suốt từ số 1 cho đến số 14],[19] Tú Mỡ [Hồ Trọng Hiếu], Hoàng Đạo [Nguyễn Tường Long], Thạch Lam [Nguyễn Tường Lân], tạo thành một ban biên tập hoàn toàn mới.[17] Bắt đầu ngày 22 tháng 9 năm 1932, báo Phong Hóa số 14 ra 8 trang khổ lớn, và được đánh giá là "một quả bom nổ giữa làng báo".[20] Sau khi tờ báo "bán chạy như tôm tươi ngay từ những số đầu",[21] Nguyễn Tường Tam cùng với các cộng sự quyết định thành lập một bút nhóm lấy tên là Tự Lực văn đoàn. Một thành viên của bút nhóm là Tú Mỡ kể lại [lược trích]:
自力文團
Về sau, khi điều kiện đã tốt hơn để mở rộng tầm hoạt động, bút nhóm ấy mới chính thức tuyên bố thành lập, với một tôn chỉ gồm 10 điều trên tuần báo Phong Hóa số 87 ra ngày thứ sáu, 2 tháng 3 năm 1934.
Theo GS. Nguyễn Văn Xuân, mặc dù Tự Lực văn đoàn "ra đời trong thời kỳ khó khăn mọi mặt: nghèo tiền, không thế lực, tinh thần quốc gia dao động, thực dân Pháp chèn ép đủ mặt; vậy mà các thành viên vẫn hợp tác được để dẫn dắt nhau ngang nhiên tiến bộ"...[23]
Diễn biến của Tự lực văn đoàn có thể chia thành hai giai đoạn:
1934 - 1936
Mặc dù Tự Lực văn đoàn chính thức tuyên bố thành lập vào tháng 3 năm 1934, song nó đã hình thành từ cuối năm 1932. Với cơ quan ngôn luận là báo Phong Hóa, họ làm một cuộc cải cách xã hội bằng tiếng cười trào phúng. Họ đem những thói hư tật xấu và những hành vi đáng cười của những nhân vật "tai to mặt lớn" trong nhiều giới ra chế giễu. Nhân vật Lý Toét, Xã Xệ và Bang Bạnh như là ba kiểu người điển hình của mọi thứ tệ lậu này. Bên cạnh đó, các khuynh hướng sáng tác [như khuynh hướng lãng mạn, khuynh hướng hiện thực,...] đều đã có mặt, nhưng khuynh hướng luận đề chống phong kiến là nổi trội hơn cả.[24] Theo GS. Dương Quảng Hàm, tác phẩm tiêu biểu nhất của khuynh hướng này là cuốn Đoạn tuyệt [1934] và Lạnh lùng [1936].[25]
Làm báo Phong Hóa được khoảng 2 năm, Nguyễn Tường Tam bèn xin phép ra thêm tờ tuần báo Ngày Nay [số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935] nhưng để Nguyễn Tường Cẩm [là một công chức, anh của ông Tam] đứng tên. Ban đầu, báo không có mục trào phúng, nhưng có mục "phóng sự điều tra với nhiều hình ảnh có tính cách mỹ thuật". Đây là sự mới lạ đối với độc giả lúc bấy giờ, nên rất được hoan nghênh. Nhưng vì ấn loát tốn kém quá, lại phải chia sức ra, nên báo Ngày Nay chỉ ra được 13 số thì phải đình bản.
Sau khi báo Phong Hóa bị đóng cửa [số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936], báo Ngày Nay lại ra thay. Tục bản, báo chỉ có hai phần chính là "tiểu thuyết" và "trông tìm", không có phần "trào phúng", vì nó là nguyên nhân khiến tờ Phong Hóa bị rút giấy phép. Tuy nhiên, đến cuối năm ấy [1936], vì thời cuộc thay đổi [nổ ra phong trào lập kiến nghị để chờ đón Ủy ban điều tra của Chính phủ bình dân Pháp phái sang], khiến Tự Lực văn đoàn lại cho mở mục trào phúng nhưng giảm bớt so với trước, gọi là "cười nửa miệng" thôi.[26]
1936 - 1942
Hiệu kỳ Hội Ánh sáng [1937 - 1945].
Bước sang những năm 1937- 1939, tờ Ngày Nay lại trở thành một cơ quan chính trị hẳn hoi, với những bài xã luận đanh thép của Hoàng Đạo, đề cập đến những vấn đề cấp thiết của thời đại. Ngoài ra, đây cũng là nơi Tự Lực văn đoàn cổ động cho phong trào Ánh Sáng [mục đích cải tạo nếp sống ở nông thôn] của họ... Văn đoàn ở giai đoạn này, cũng đã mở rộng cửa ra hơn, để đón nhận thêm nhiều văn nghệ sĩ có tài khác như: Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Thanh Tịnh, Xuân Diệu, Huy Cận,...[26] Sau số 224 [ra ngày 07 tháng 9 năm 1940], báo Ngày Nay bị nhà cầm quyền đóng cửa [chưa biết lý do].[27]
Hầu hết những khuynh hướng văn học đã có đều được văn đoàn tiếp tục ở giai đoạn này, tuy nhiên tiếng cười hài hước không còn tràn lan như trước. Có phần nổi đậm là khuynh hướng nghiêng về những người nghèo khổ. Ngoài ra cũng có một khuynh hướng mới, bắt đầu hé lộ những miền khuất tối, không thể nhận biết của cái "tôi", kể cả trên quá trình phân thân, tự hủy [như trong Bướm trắng, 1939; Băn khoăn, 1942]. Không những thế, như trên đã nói, từ lĩnh vực văn chương, văn đoàn còn chuyển sang hoạt động xã hội. Sau nhiều năm tháng chuẩn bị, ngày 16 tháng 8 năm 1937, Hội Ánh sáng của Tự Lực văn đoàn ra đời. Đây là một hình thức tổ chức "cải cách xã hội một cách êm thấm trong phạm vi luật pháp" [lời Hoàng Đạo], nhằm tập họp đông đảo những người có từ tâm trong nước, cùng nhau góp một phần công của để triệt phá dần những nhà ổ chuột, xây dựng những ngôi nhà kiểu mới hợp vệ sinh giá rẻ cho dân nghèo, đồng thời tiến hành các hoạt động cứu tế xã hội,...[28]
Từ khoảng năm 1937, không khí của Chiến tranh thế giới thứ hai tác động mạnh đến đời sống xã hội Việt Nam. Năm 1940, khi Nhật vào Đông Dương, Nguyễn Tường Tam và một số thành viên trong nhóm chuyển sang hoạt động chính trị.
Cuối năm 1940, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí...bị thực dân Pháp bắt giam rồi đày lên Sơn La. Năm 1942, Nguyễn Tường Tam trốn sang Trung Quốc, Thạch Lam mất vì bệnh lao phổi tại Hà Nội. Theo một số nhà nghiên cứu văn học sử thì Tự Lực văn đoàn đã cơ bản tan rã từ khi ấy [tự giải tán vì "sẩy đàn tan nghé", nhưng không tuyên bố].[29]
Tóm lại, theo GS. Phạm Thế Ngũ, thì:
Sự đàn áp thẳng tay của nhà cầm quyền Pháp nhiều năm [nhất là sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái năm 1930] đã gây một không khí hoang mang kinh sợ, hay buồn bã hoài nghi khắp nơi. Họ muốn trấn an, muốn lấy lại lòng tin nên cho mở hội chợ ở Sài Gòn, ở Hà Nội...để người ta vui, người ta quên...Trong không khí ấy, nhóm Tự Lực văn đoàn tung ra cái tôn chỉ "cười",[30] và chủ nghĩa "lãng mạn lý tưởng xinh tươi" sau đó thật là hợp thời...Đến năm 1936 và những năm tiếp theo, thì cuộc diện đã khác. Ở Pháp, đảng Xã hội lên cầm quyền, mở đầu cho những hoạt động chính trị diễn ra công khai ở Đông Dương. Theo đó, nhóm văn đoàn ấy cũng xoay qua hoạt động chính trị, xã hội... Cây bút Hoàng Đạo thì tố cáo những thối nát của chính quyền, những lầm than của dân chúng dưới chế độ thực dân phong kiến. Nguyễn Tường Tam thì chủ xướng chiến dịch Ánh Sáng, chống nhà ổ chuột, cổ động cho phong trào truyền bá quốc ngữ,... Đối với nhóm Tự Lực văn đoàn, thì những gì "xinh tươi ngày trước" đã phai nhiều...[31]Trong tuần báo Phong Hóa số 87 ra ngày 2 tháng 3 năm 1934, có in lời tuyên ngôn và tôn chỉ [10 điều] của Tự Lực văn đoàn như sau:
Tuyên ngôn
Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương.Người trong Văn đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực văn đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu.Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn bản thảo, gửi đến Văn đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn đoàn có mặt ở Hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Đoàn và sẽ tùy sứ cổ động giúp. Tự Lực văn đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách. Sau này nếu có thể được, Văn đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng Tự Lực văn đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Đoàn.Tôn chỉ
1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước. 2. Soạn hay dịch những cuốn sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho người và xã hội ngày một hay hơn. 3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những sách có tính cách bình dân và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân. 4. Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách An Nam. 5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. 6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả quý phái. 7. Trọng tự do cá nhân. 8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa. 9. Đem phương pháp khoa học thái tây[32] ứng dụng vào văn chương Việt Nam. 10. Theo một trong 9 điều này cũng được miễn là đừng trái ngược với những điều khác.Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, qua 10 điều ấy, có thể thấy văn đoàn đã đề ra 4 chủ trương lớn, đó là:
- Về văn học: Nhắm tới 3 mục tiêu lớn:
- Về xã hội: Đề cao chủ nghĩa bình dân và bồi đắp lòng yêu nước trên cơ sở lấy tầng lớp bình dân làm nền tảng.
- Về tư tưởng: Vạch trần tính chất lỗi thời của những tàn dư Nho giáo đang ngự trị trong xã hội.
- Về con người: Lấy việc giải phóng cá nhân làm trung tâm điểm của mọi sáng tác.[33]
Cơ cấu
Cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong Hóa [kể từ số 14 ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936], và từ năm 1935 thêm tuần báo Ngày nay [số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935, số cuối 224 ra ngày 7 tháng 9 năm 1940]. Ngoài ra, văn đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay để tự xuất bản sách của mình.[34]
Trụ sở chính của văn đoàn đặt ở nhà số 80 phố Quán Thánh, Hà Nội. Đây vừa là tòa soạn báo Phong Hóa, Ngày Nay; vừa là trụ sở nhà xuất bản Đời Nay. Ban đầu, bút nhóm chỉ có 6 thành viên, gồm:
– Nguyễn Tường Tam [Nhất Linh], là Trưởng văn đoàn và cũng là Giám đốc báo Phong Hóa. – Khái Hưng – Hoàng Đạo – Thế Lữ – Thạch Lam – Tú MỡVề sau, kết nạp thêm Xuân Diệu.
Bên cạnh đó còn có những cộng sự viên khác [không ở trong tòa soạn báo Phong Hóa và Tự Lực văn đoàn], gồm:
- Các nhà văn, nhà thơ: Huy Cận, Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng, Nguyễn Khắc Hiếu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường Bách,...
- Các họa sĩ: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường, Lê Minh Đức [tạo ra nhân vật Xã Xệ],...[35]
Một số văn nghệ sĩ kể trên, về sau đều thành danh, ít nhiều là nhờ người đứng đầu văn đoàn là Nguyễn Tường Tam. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì người đứng đầu ấy vốn là người có tài, có tâm và có tầm nhìn, biết đoàn kết cả nhóm trong một ý hướng chung, lại biết khơi gợi đúng thiên hướng của từng người mỗi tác giả trở thành một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại. Như Khái Hưng được ông khuyến khích chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo Văn học tạp chí, Duy tân [dưới bút danh Bán Than] sang viết tiểu thuyết; Tú Mỡ được ông gợi ý chuyên làm thơ trào phúng; Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự; còn Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho "thơ mới",...[36]
Khá nhiều tác phẩm của văn đoàn đã gây được tiếng vang, ở đây chỉ nêu ra một số như:
- Hồn bướm mơ tiên xuất bản ngày 27 tháng 5 năm 1933. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn đoàn.[37]
- Nửa chừng xuân [tiểu thuyết, 1934] của Khái Hưng.
- Thừa tự [tiểu thuyết, 1938] của Khái Hưng.
- Đoạn tuyệt [tiểu thuyết, 1934], Lạnh lùng [tiểu thuyết, 1936], Đôi bạn [tiểu thuyết, 1937]. Cả ba quyển đều của Nhất Linh.
- Con đường sáng [tiểu thuyết, 1940] của Hoàng Đạo.
- Mấy vần thơ [tập thơ, 1935] của Thế Lữ.
- Gió đầu mùa [tập truyện ngắn, 1937] của Thạch Lam.
- Dòng nước ngược [thơ trào phúng, 1943] của Tú Mỡ.
- Thơ thơ [tập thơ, 1938] của Xuân Diệu,...
Giải thưởng
Không chỉ sáng tác văn học, Tự Lực văn đoàn còn trao các giải thưởng cho các nhà văn không thuộc nhóm. Giải thưởng đã được xét trao cả thảy ba lần: 1935, 1937 và 1939. Đây là một giải thưởng uy tín, một bảo chứng danh giá cho sự nghiệp văn chương của những người đoạt giải: Ðỗ Ðức Thu, Phan Văn Dật, Vi Huyền Đắc, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Tế Hanh...[38] Thoạt nhìn đã có thể thấy, đây là một giải thưởng có tính phát hiện cao. Hầu hết các tác phẩm được giải là tác phẩm đầu tay, và nhiều tác phẩm trong số đó lúc ra mắt qua giải thưởng Tự lực văn đoàn, như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bức tranh quê của Anh Thơ... đã thành "hiện tượng" trong đời sống văn học. Và thật thú vị, những nhà văn chủ trì Tự lực văn đoàn, vốn được coi thuộc khuynh hướng lãng mạn, lại chọn biểu dương những cây bút gần như ngược hẳn với mình, đậm chất hiện thực xã hội, nhiều khi đến gay gắt. Có thể điều này rất quan trọng: giải thưởng do đó khêu gợi và quy tụ cả một dàn đồng ca rộn rã phong phú đa dạng như chưa từng có những tài năng mới, trẻ, góp phần tạo nên "cả một thời đại mới trong văn học" như cách nói của Hoài Thanh.[39]
Dưới đây là một vài nhận xét khái quát, mang tính tham khảo, của:
- Hoàng Xuân Hãn:
- Dương Quảng Hàm:
- Phạm Thế Ngũ [Việt Nam văn học sử giản ước tân biên]:
- Dương Nghiễm Mậu:
- Nguyễn Huệ Chi [Từ điển văn học]:[42]
- Nguyễn Huệ Chi [Thử định vị Tự lực văn đoàn, 2009]:
- Vu Gia, một học giả hàng đầu tại Việt Nam về các thành viên trong Tự Lực văn đoàn [2011]:[43]
- Nguyễn Hưng Quốc [Đánh giá lại Tự Lực Văn Đoàn, 2013]:[15]
- Lại Nguyên Ân [Tự lực văn đoàn, một "nhóm lợi ích" trong đời sống văn nghệ, 2014]:
- Sách Ngữ văn lớp 11 [tập 1]:
Bản số hóa toàn bộ báo Phong Hóa và báo Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn từ những năm 1930 - 1940 được công bố và cho tải về miễn phí tại nhiều Website. Ðây là công trình được bà Phạm Thảo Nguyên [định cư ở Hoa Kỳ, con dâu của nhà văn Thế Lữ] cùng các cộng sự thực hiện từ đầu năm 2011.[45]
Tại thị trấn Cẩm Giang thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương có Nơi lưu niệm Tự Lực văn đoàn hướng ra tuyến đường sắt xưa cũ mà nhà văn Thạch Lam viết tác phẩm Hai đứa trẻ Lưu trữ 2020-10-28 tại Wayback Machine.[46]
Tháng 2 năm 2012, quy hoạch chi tiết công viên Tự Lực văn đoàn được UBND tỉnh Hải Dương phê duyệt. Kèm theo là dự án xây dựng quần thể khu biểu trưng văn hóa, nhà văn hóa, thư viện, hội trường, nhà khách, nhà ẩm thực và các công trình phụ trợ, trên diện tích gần 2,4 ha [toàn bộ khu vườn và khu vực lân cận] với tổng vốn gần 60 tỉ đồng. Tuy nhiên vì nhiều lý do mà dự án trên vẫn chưa xây dựng cho đến nay.[46]
- Phong Hóa
- Ngày Nay
- Hội Ánh sáng
- Thơ mới [phong trào]
- ^ Mục từ "Tự lực văn đoàn" của GS. Nguyễn Huệ Chi [Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1900] và bài viết "Thử định vị Tự lực văn đoàn" [của cùng tác giả, bản điện tử [1]].
- ^ Vài Nét Về Tự Lực Văn Đoàn
- ^ VÀI NÉT VỀ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
- ^ Theo lời kể của Tú Mỡ, nhà văn Vu Gia dẫn lại trong Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, tr. 25-26.
- ^ Biên theo GS. Nguyễn Huệ Chi [Từ điển văn học, bộ mới, tr. 1899]. Giáo sư cũng cho biết: "Lâu nay nhiều sách báo đã dựa vào tư liệu của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên [tập 3, 1965] và Thanh Lãng trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam [quyển hạ, tr. 624], ghi ngày tuyên bố thành lập Tự Lực văn đoàn là 2 tháng 3 năm 1933 [báo Phong Hóa số 87]. Tuy nhiên, sau khi kiểm tra, thì thấy số báo ấy ra ngày 2 tháng 3 năm 1934. Nhận ra sai sót của mình, nên trong cuốn Phê bình văn học thế hệ 1932 [quyển 1, Phong trào văn học, Sài Gòn, 1973; tr. 27-29], chính Thanh Lãng đã điều chỉnh lại [Thử định vị Tự lực văn đoàn [2]]. Xem thêm thông tin trong bài viết "Chia sẻ miễn phí báo Phong Hóa - Ngày Nay" của Lam Điền trên website báo Tuổi Trẻ ra ngày 26 tháng 9 [3].
- ^ Dương Kiều Minh, Đến với “cái nôi” của Tự lực văn đoàn. [Báo Công an nhân dân điện tử, 11/08/2008]
- ^ Xuân Ba, Về Cẩm Giàng tìm dấu Tự Lực Văn Đoàn. [Báo điện tử Tiền Phong, 21/10/2012]
- ^ Đỗ Phú Thọ, Tự hào là dân Vĩnh Bảo. [Báo điện tử Quân đội nhân dân, 07/08/2018]
- ^ Hoàng Giang, Hải Dương: Sáp nhập thị trấn Cẩm Giàng có làm mất đi “thị trấn văn chương”?. [Báo Pháp luật Việt Nam, 8/7/2019]
- ^ Bùi Duy Dương, Thành ngữ gốc Hán trong ba kiệt tác thơ Nôm. [Tạp chí Hán Nôm, Số 5 [96], 2009]
- ^ Nguyễn Kim Châu, Sự phát triển của tiếng Việt văn học thế kỷ XVI qua cái nhìn đối sánh giữa "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi với "Bạch Vân quốc ngữ thi" của Nguyễn Bỉnh Khiêm. [Tạp chí Khoa học, Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Cần Thơ, 2012]
- ^ Nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Khiêu trong bài viết “Kỷ niệm 400 năm ngày mất của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Những vấn đề khoa học trong nghiên cứu Nguyễn Bỉnh Khiêm” [1985] đã có đánh giá mang tính tổng kết về những đóng góp quan trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng như Nguyễn Trãi trong dòng chảy của lịch sử thơ văn Việt Nam: “...Trước hết, phải thấy rằng suốt bao nhiêu thế kỷ học chữ Hán và làm thơ bằng chữ Hán, các nhà trí thức Việt Nam trước những khó khăn về ngôn từ và thể loại đã lẩn tránh việc cố gắng làm thơ bằng tiếng mẹ đẻ. Trước sự sáng tạo của Nguyễn Thuyên, sự quan tâm đặc biệt của Nguyễn Trãi, thành quả bước đầu của Lê Thánh Tông và nhóm Tao Đàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã suốt cuộc đời dành bao tâm huyết để làm thơ bằng tiếng Việt. Không chỉ nói với đồng bào mình những điều muốn nói. Ông cũng như Nguyễn Trãi đã đem hết nhiệt tình xây dựng nền văn học dân tộc mà lòng yêu nước và óc tự cường đã hằng ngày thôi thúc các ông. Với một di sản lớn lao mà ông để lại, thơ Nôm của ông đã đánh dấu một chặng đường quang vinh trong lịch sử văn học Việt Nam. Thơ văn ông vừa mang những nét mộc mạc và rắn chắc của thơ Nguyễn Trãi, vừa tiếp thu truyền thống trau chuốt và nhuần nhuyễn của thơ Lê Thánh Tông và nhóm Tao Đàn. Thơ của ông chính là sự chuẩn bị cần thiết cho sự phát triển rực rỡ của thơ Nôm thế kỷ XVIII. Có lẽ đầy lòng tự hào về tinh hoa và tiềm năng của dân tộc trong thơ ca dân gian Việt Nam mà ông đã đưa vào tràn ngập trong thơ ông những lời đẹp nhất của ca dao, tục ngữ. Thơ của ông hướng vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân mà ông gần gũi và yêu quý. Có lẽ vì thế mà thơ Nôm của ông ít những lời sáo rỗng về phong, hoa, tuyết, nguyệt, mà lại đi vào lòng người với những nét rất thân thương của những đồ đạc, những rau cỏ, những chim muông gặp gỡ hằng ngày... Phải chăng vì gần gũi với đời sống như thế, ông đã thuộc tên từ cụ già đến trẻ em, đi vào niềm vui và nỗi lo của từng người, và từ đó đưa vào thơ một tính nhân dân sâu sắc...”
- ^ Nguyễn Công Lý, Văn chương Tự lực văn đoàn và thơ Mới trong chương trình trung học môn Văn ở miền Nam trước năm 1975. [Khoa Văn học và Ngôn ngữ - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP. HCM, 30/10/2012]. Nguyễn Công Lý [2012]: "...Có thể đi đến kết luận văn chương Tự lực văn đoàn và Thơ Mới có một vai trò và vị trí quan trọng trong chương trình môn Văn trung học đệ nhất và đệ nhị cấp ở Miền Nam trước năm 1975. Trong khi đó, cùng thời gian này trong chương trình và sách giáo khoa ở Miền Bắc lại không hề nhắc đến; còn trong giáo trình Văn học sử giai đoạn 1930-1945 ở bậc đại học thì lại phê phán Tự Lực văn đoàn và Thơ Mới một cách gay gắt, nặng nề. Điều này có lý do tế nhị riêng của một thời đã qua. Rất may là từ sau 1986, nhất là từ 1990 đến nay, vấn đề này đã được nhìn nhận lại và các nhà nghiên cứu đã thống nhất khi đánh giá rất cao vai trò cùng đóng góp không nhỏ của văn chương Tự Lực văn đoàn và thơ Mới trong quá trình hiện đại hoá văn học dân tộc hồi nửa đầu thế kỷ XX."
- ^ Trần Hoài Anh, Tự lực văn đoàn trong cái nhìn của lý luận – phê bình văn học ở miền nam 1954 – 1975 [Vanchuongviet.org, 10/2/2013]
- ^ a b Nguyễn Hưng Quốc, Đánh giá lại Tự Lực Văn Đoàn. [Tạp chí văn chương Da Màu, 22/07/2013]
- ^ Theo nhà văn Vu Gia, Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, tr. 23.
- ^ a b Theo lời kể của Tú Mỡ. Vu Gia dẫn lại, tr. 24.
- ^ Theo Văn Giá, "Sắp công bố toàn bộ báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn" đăng trên Tiền Phong online ngày 16 tháng 8 năm 2012 [4].
- ^ Theo Thanh Lãng, tr. 61.
- ^ Theo GS. Thanh Lãng [tr. 610] và Phạm Thế Ngũ [tr. 441].
- ^ Theo thi sĩ Nguyễn Vỹ, Tuấn, chàng trai nước Việt, chương 47, bản điện tử [5][liên kết hỏng].
- ^ Dẫn lại theo Vu Gia [tr. 25-26]. Xem thêm bài viết của TS. Hoàng Văn Quang, "Phong Hóa và những ước vọng xa vời" trên website Đại học Quốc gia Hà Nội, nguồn đã dẫn.
- ^ GS. Nguyễn Văn Xuân, "Nhất Linh - Người dẫn dắt nhau ngang nhiên tiến bộ" in trong Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, tr. 436.
- ^ Theo Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học [bộ mới], tr. 1901-1902.
- ^ Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, tr. 454.
- ^ a b Theo Phạm Thế Ngũ, tr. 442-443.
- ^ Thông tin thêm: Năm 1945, một số thành viên cũ như Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Tú Mỡ, Thanh Tịnh, Nguyễn Tường Bách... tập họp lại, cho ra tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới, nhưng chỉ được 16 số thì đình bản ngày 18 tháng 8 năm 1945.... Theo Phạm Thảo Nguyên - Nguyễn Trọng Hiền, "Giới thiệu báo Phong Hóa-Ngày Nay" [6] Lưu trữ 2012-09-25 tại Wayback Machine.
- ^ Theo Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học [bộ mới, tr. 1902-1903] và một số nguồn ghi kèm theo bài.
- ^ Theo Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam... [Nhà xuất bản Thanh niên, 2008]. Xem online ở đây: [7]. Vì không tuyên bố giải tán, nên năm Tự Lực văn đoàn ngưng hoạt động vẫn có ý kiến khác. Thí dụ như theo Nguyễn Huệ Chi thì Tự lực văn đoàn đã "chấm dứt hoạt động thực tế kể từ sau năm 1940" ["Thử định vị Tự Lực văn đoàn", nguồn đã dẫn]. Hoặc có ý kiến cho rằng phải sau khi tờ Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới đình bản ngày 18 tháng 8 năm 1945 và Cách mạng tháng Tám nổ ra. Xem Phạm Thảo Nguyên - Nguyễn Trọng Hiền, nguồn đã dẫn.
- ^ Tương tự, người cùng thời là thi sĩ Nguyễn Vỹ cũng đã viết rằng: "Cái khôn khéo tùy thời của Nguyễn Tường Tam là biết lợi dụng đúng lúc sự chán nản của tinh thần thanh niên và dân chúng sau các vụ 'Hội Kín' liên tiếp thất bại, gây ra máu lửa hãi hùng và tang tóc...để phát hành tờ báo Phong Hóa, chuyên về hài hước, cốt làm cho độc giả cười, thành một trò vui nhộn [Tuấn, chàng trai nước Việt, chương 47, bản điện tử [8][liên kết hỏng]].
- ^ Tóm tắt nhận định của Phạm Thế Ngũ, tr. 423-425.
- ^ Thái tây là tiếng gọi chung những nước Âu Tây.
- ^ Theo Nguyễn Huệ Chi, Thử định vị Tự lực văn đoàn, nguồn đã dẫn.
- ^ Sau khi báo Phong Hóa ra được vài tháng, Nguyễn Tường Tam liền nghĩ ngay đến việc lập nhà xuất bản. Ban đầu, ông nhờ một nhà tư sản là Bác sĩ Luyện mở "An Nam xuất bản cục". Mấy tác phẩm đầu tiên nhóm, như Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân...đều in ở đó. Ít lâu sau, để tự chủ hơn, Tự Lực văn đoàn lập nhà xuất bản Đời Nay. Ban đầu, nơi đây chỉ xuất bản những tác phẩm của nhóm, về sau mới in cả những sách được giải thưởng Tự Lực văn đoàn, và của các văn gia khác mà họ công nhận có giá trị... Đến năm 1940, tờ Ngày Nay đóng cửa, nhưng nhà xuất bản Đời Nay vẫn còn và tiếp tục công việc phổ biến các sách của họ [theo Phạm Thế Ngũ, tr. 443-444].
- ^ Lược ghi theo di cảo viết tay "Đời làm báo" của Nhất Linh [9]. Trước đây, do tư liệu gốc không có, nhiều tài liệu nghiên cứu đã công bố không chính xác số lượng các thành viên chính thức của bút nhóm, khi vắng người này, khi thêm người khác, mà Trần Tiêu là một thí dụ. Xem mục từ "Trần Tiêu".
- ^ GS. Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học [bộ mới, tr. 1990]. Xem thêm bài viết Thử định vị Tự lực văn đoàn, nguồn đã dẫn.
- ^ Theo Vu Gia, Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, tr. 27.
- ^ Theo Lam Điền, "Chia sẻ miễn phí báo Phong Hóa-Ngày nay", nguồn đã dẫn.
- ^ Nhà văn Nguyên Ngọc, "Đôi chút về giải thưởng Tự lực văn đoàn" [10].
- ^ Theo bài viết "Chuyện trò với Hoàng Xuân Hãn", tạp chí sông Hương số 37 [tháng 4 năm 1989], Huế, tr. 74.
- ^ Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, tr. 455.
- ^ Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học, [bộ mới], tr. 1903.
- ^ Lam Điền, Tự Lực văn đoàn làm giàu văn sản trong nước. [Báo điện tử Tuổi Trẻ, 05/08/2011]
- ^ Nhiều người soạn, "Khái quát về văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến 1945" in trong Văn học 11. Nhà xuất bản Văn học, 2008, tr. 85 và tr. 89.
- ^ Xem: [11].
- ^ a b “Sự thật sau những tác phẩm để đời - Kỳ 8: Về vườn xưa Tự Lực văn đoàn”.
Sách:
- Khái Hưng, Truyện ngắn Khái Hưng, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2018
- Nhất Linh, Truyện ngắn Nhất Linh Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2018
- Nhất Linh & Khái Hưng, Tuyển tập Nhất Linh - Khái Hưng, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2018
- Thạch Lam, Tuyển tập Thạch Lam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2016
Về Tự Lực văn đoàn
Sách- Nguyen, Martina Thucnhi [2020]. On Our Own Strength: The Self-Reliant Literary Group and Cosmopolitan Nationalism in Late Colonial Vietnam. University of Hawai‘i Press. ISBN 9780824883331.
- Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản [bản in lần thứ 10], Sài Gòn, 1968
- Hà Minh Đức [chủ biên], Tự Lực văn đoàn, trào lưu và tác giả, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2007
- Khúc Hà Linh, Anh em Nguyễn Tường Tam Nhất Linh - Ánh sáng và bóng tối, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2017
- Lê Thị Dục Tú, Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2003
- Mai Hương [tuyển chọn và biên soạn], Tự Lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000
- Ngô Văn Thư, Bàn về tiểu thuyết Khái Hưng, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2006
- Nguyễn Huệ Chi, mục từ "Tự lực văn đoàn" trong Từ điển văn học [bộ mới], Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, 2004
- Nguyễn Thành Thi, Đặc trưng nghệ thuật của truyện ngắn Thạch Lam, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1999
- Nguyễn Thành Thi, Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2006
- Nguyễn Thị Thế, Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường. Chuyện nhà của những văn nhân trụ cột Tự Lực Văn Đoàn, Nhà Xuất Bản Phụ Nữ Việt Nam, Hà Nội, 2021
- Nguyễn Trác & Đái Xuân Ninh, Về Tự Lực văn đoàn, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 1989
- Nhiều tác giả, Khái Hưng, thân thế và tác phẩm, Nhà xuất bản Nam Hà, Sài Gòn, 1972
- Nhiều tác giả, Phong Hóa thời hiện đại - Tự Lực văn đoàn trong tình thế thuộc địa ở Việt Nam đầu thế kỷ 20, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2020
- Nhiều tác giả, Tự Lực văn đoàn với vấn đề phụ nữ ở nước ta, Nhà xuất bản Phụ Nữ Việt Nam, Hà Nội, 2021
- Phan Cự Đệ, Tự Lực văn đoàn - Con người và văn chương, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1990
- Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên [tập 3], Sài Gòn, 1965
- Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam [quyển hạ], Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, 1967
- Vu Gia, Khái Hưng, nhà tiểu thuyết, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1993
- Vu Gia, Thạch Lam, thân thế và sự nghiệp, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1994
- Vu Gia, Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hóa văn học, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội, 1995
- Vu Gia, Hoàng Đạo, nhà báo, nhà văn, Nhà xuất bản Văn hoá, Hà Nội, 1997
- Vu Gia, Trần Tiêu, nhà văn độc đáo của Tự Lực văn đoàn, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2006
- Vu Gia, Tú Mỡ, người gieo tiếng cười, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2008
- Vu Gia, Thế Lữ, một khách tình si, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2009
- Vu Gia, Khái Hưng, người đổi mới văn chương, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 2011
- Dutton, George [2007]. “Lý Toét in the City: Coming to Terms with the Modern in 1930s Vietnam”. Journal of Vietnamese Studies. 2 [1]: 80–108. doi:10.1525/vs.2007.2.1.80.
- Nguyen, Martina Thucnhi [2016]. “French Colonial State, Vietnamese Civil Society: The League of Light [Đoàn Ánh Sáng] and Housing Reform in Hà Nội, 1937–1941”. Journal of Vietnamese Studies. 11 [3–4]: 17–57. doi:10.1525/jvs.2016.11.3-4.17.
- Đào Văn A, Tự lực văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây, Tạp chí Văn học, số 5-1981.
- Đinh Quang Tốn, Thạch Lam và quê hương sáng tác, Tạp chí Văn học, số 6-1992, tr.20.
- Đỗ Đức Hiểu, Đọc Bướm trắng của Nhất Linh, Tạp chí Văn học, số 1-1997, tr.15.
- Đỗ Đức Hiểu, Đọc Đôi bạn của Nhất Linh, Tạp chí Văn học, số 1-1997, tr.15.
- Hà Minh Đức, Hoàng Đạo [1907-1948], Nghiên cứu Văn học, số 8-2006, tr.75.
- Lê Dục Tú, Tìm hiểu truyện ngắn Khái Hưng, Nghiên cứu Văn học, số 3-2005, tr.106.
- Lê Kim Vinh, Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 3-1990, tr.5.
- Lê Minh Tuyên, Những nét tương đồng và khác biệt trong truyện ngắn Nguyễn Tuân và Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 12-2003, tr.69.
- Lê Thị Đức Hạnh, Trần Tiêu có phải là thành viên trong tổ chức Tự lực văn đoàn không?, Tạp chí Văn học, số 5-1990, tr.17.
- Lê Thị Đức Hạnh, Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 3-1991, tr.76.
- Lê Thị Đức Hạnh, Tự lực văn đoàn và Phong trào Thơ Mới, Tạp chí Văn học, số 2-1993, tr.24.
- Ngô Văn Thư, Nửa chừng xuân – bước tiến của nghệ thuật tiểu thuyết, tạp chí Văn học, số 11-2001, tr.64.
- Ngô Văn Thư, Quan niệm văn chương của Khái Hưng, Nghiên cứu Văn học, số 3-2005, tr.117.
- Ngô Văn Thư, Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Khái Hưng, Nghiên cứu Văn học, số 6-2009, tr.43
- Nguyễn Kim Hồng, Xu hướng hiện thực tâm lý qua các tác phẩm viết về làng quê của Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 12-2001, tr.53.
- Nguyễn Hữu Hiếu, Mấy suy nghĩ về nhà văn Nhất Linh – Nguyễn Trường Tam, Tạp chí Văn học, số 4-1994, tr.50.
- Nguyễn Thanh Hồng, Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 3-1990, tr.7.
- Nguyễn Thành Thi, Thạch Lam từ quan niệm về cái đẹp đến những trang văn Hà Nội ba sáu phố phương, Tạp chí Văn học, số 10-2000, tr.58.
- Oh Eun Chol, Vấn đề gia đình trong tiểu thuyết Gia đình của Khái Hưng [Việt Nam] và tiểu thuyết Ba thế hệ của Yom Sang Sop [Hàn Quốc], Tạp chí Văn học, số 11-2000, tr.69.
- Phan Quốc Lữ, Tính chất phi cốt truyện trong văn xuôi Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Tạp chí Văn học, số 6-2003, tr.55.
- Phan Trọng Thưởng, Cuối thế kỷ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh giá văn chương Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 2-2000, tr.51.
- Phạm Đình Ân, Thế Lữ trong Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 8-2003, tr.64.
- Phạm Thị Thu Hương, Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 3-1993, tr.16.
- Phong Lê, Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 2-1988, tr.103.
- Trần Văn Toàn, Nam tính hoá nữ tính – đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh dưới góc nhìn giới tính, Nghiên cứu Văn học, số 9-2011, tr.86.
- Trương Chính, Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 5-1990, tr.3.
- Văn Tạo, Nên có nhà lưu niệm Tự lực văn đoàn, Nghiên cứu Văn học, số 3-2006, tr.127.
- Vu Gia, Một ít tư liệu chung quanh Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 8-1994, tr.53.
- Vũ Khánh Dần, Nhìn nhận tiểu thuyết Nhất Linh hơn nửa thế kỷ qua, Tạp chí Văn học, số 3-1997, tr.81.
- Vũ Tuấn Anh, Thạch Lam – văn chương và cái đẹp, Tạp chí Văn học, số 6-1992, tr.13.
- Vương Trí Nhàn, Cốt cách của ngòi bút Thạch Lam, Tạp chí Văn học, số 5-1990, tr.10.
- Kawaguchi Kenichi, Tự Lực Văn Đoàn và văn học hiện đại Việt Nam, 2012
- Khuất Bình Nguyên, Trở lại với Thạch Lam Lưu trữ 2019-09-27 tại Wayback Machine. [Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 06/8/2017]
- Lã Nguyên, Lý luận tiểu thuyết trong “Theo giòng” của Thạch Lam Lưu trữ 2019-09-18 tại Wayback Machine. [Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 10/1/2011]
- Lại Nguyên Ân, Tự lực văn đoàn, một "nhóm lợi ích" trong đời sống văn nghệ Lưu trữ 2019-09-11 tại Wayback Machine. [Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 18/2/2014]
- Mặc Lâm, Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn”. [Đài Á Châu Tự Do – RFA, 05/09/2015]
- Nguyên Ngọc, Đôi chút về giải thưởng Tự lực văn đoàn. [Tạp chí Tia Sáng, 16/08/2012]
- Nguyễn Công Lý, Văn chương Tự lực văn đoàn và thơ Mới trong chương trình trung học môn Văn ở miền Nam trước năm 1975. [Khoa Văn học và Ngôn ngữ - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP. HCM, 30/10/2012]
- Nguyễn Huệ Chi, Thử định vị Tự lực văn đoàn Lưu trữ 2019-09-04 tại Wayback Machine. [Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 08/12/2009]
- Nguyễn Hưng Quốc, Đánh giá lại Tự Lực Văn Đoàn. [Tạp chí văn chương Da Màu, 22/07/2013]
- Nguyễn Thị Phương Thuý, Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đến tiểu thuyết ở đô thị Nam Bộ 1945-1954. [Tham luận tại Hội thảo Phong trào Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn - 80 năm nhìn lại, 28/10/2012]
- Tanaka Aki, Một cách nhìn mới về “Băn khoăn” của Khái Hưng Lưu trữ 2019-09-11 tại Wayback Machine. [Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 29/10/2017]
- Thụy Khuê, Tự Lực văn đoàn, văn học và cách mạng
- Trần Hoài Anh, Tự lực văn đoàn trong cái nhìn của lý luận – phê bình văn học ở miền nam 1954 – 1975 [Vanchuongviet.org, 10/2/2013]
- Trần Thị Thanh Xuân, Truyện ngắn Thạch Lam: Nhìn từ lý thuyết mô hình văn bản nghệ thuật của Iu.Lotman Lưu trữ 2019-09-18 tại Wayback Machine. [Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 08/1/2012]
Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Tự_Lực_văn_đoàn&oldid=68898658”