Kể tên các nhà văn của nền văn học Việt Nam hiện đại

- Chủ đề bao trùm trong những ngày đầu đất nước -vừa giành được độc lập [1845-1946] là ca ngợi Tổ quốc và quần chúng cách mạng. Với những tác phẩm tiêu biểu: Dân khí miền Trung [Hoài Thanh], Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt [Tố Hữu], Ngọn quốc kì, Hội nghị non sông [Xuân Diệu], Tình sông núi [Trần Mai Ninh]...

- Sau năm 1946, văn học tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng chiến; hướng tới đại chúng, phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân, thể hiện niềm tự hào dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cuộc kháng chiến.

- Các thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kịch, lí luận, nghiên cứu và phê bình văn học,... đều đạt được những thành tựu mới. Có thể kể tên một số tác phẩm tiêu biểu: Đôi mắt [Nam Cao], Làng [Kim Lân], Vùng mỏ[Võ Huy Tâm], Xung kích [Nguyễn Đình Thi], Đất nước đứng lên [Nguyên Ngọc], Tập truyện Truyện Tây Bắc [Tô Hoài], tập thơ Việt Bắc [Tố Hữu], các bài thơ kháng chiến của Hồ Chí Minh: Cảnhkhuya, Nguyên tiêu, Báo tiệp..., Tủy tiến [Quang Dũng], Đồng chí [Chính Hữu], bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam [Trường Chinh]...

2] Giai đoạn từ 1955 đến 1964

- Chúng ta vừa tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa đấu tranh thống nhất đất nước. Văn học tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, ca ngợi những đổi thay của đất nước và con người mới trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt, nói lên nỗi đau chia cắt và thể hiện ý chí thống nhất đất nước.

- Văn học đạt được nhiều thành tụm trên cả ba thể loại:

+ Văn xuôi mở rộng đề tài, bao quát được khá nhiều vấn đề, nhiều phạm vi hiện thực đời sống.

+ Thơ phát triển mạnh mẽ với nhiều cảm hứng lớn từ đất nước, dàn tộc trong sự hài hoà giữa cái riêng và cái chung và đã có một mùa gặt bội thu.

+ Kịch đã có những tác phẩm được dư luận chú ý như Một đảng viên [Học Phi], Ngọn lửa [Nguyễn Vũ], Quẫn [Lộng Chương], Chị Nhàn, Nổi gió [Đào Hồng Cẩm]...

3] Giai đoạn từ 1965 đến 1975

Toàn bộ nền văn học cả hai miền Nam, Bắc tập trung vào cuộc chiến đấu chống Mĩ cứu nước với chủ đề bao trùm là ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

- Tiền tuyến lớn miền Nam với những tác phẩm viết trong máu lửa của chiến tranh đã phản ánh nhanh nhạy và kịp thời cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng. Mùa văn học nở rộ thành công với những tác phẩm truyện của Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Trần Hiếu Minh, Phan Tứ, với thơ của Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Giang Nam, Thanh Hải...

- Miền Bắc với những tác phẩm truyện kí của Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyên Khải, Nguyễn Minh Cháu, Hữu Mai, Chu Văn... và nhiều tập thơ của TốHữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Chính Hữu... Các tác phẩm của các nhà thơ đã phản ánh chân thực, sinh động đời sống chiến trường, cái ác liệt, những hi sinh, tổn thất... trong chiến tranh. Đặc biệt họ đã dựng nên bức chân dung tinh thần của cả một thế hệ trẻ chống Mĩ. Họ đã đem đến cho nền thơ Việt Nam một tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, sôi nổi, thông minh.

- Kịch chống Mĩ cũng có những thành tựu với nhiều tác phẩm đáng ghi nhận: Quê hương Việt Nam, Thời tiết ngày mai [Xuân Trình]; Đại đội trưởng của tôi [Đào Hồng Cẩm]; Đôi mắt [Vũ Dũng Minh]... đã tạo được tiếng vang lúc bấy giờ.

- Nhiều công trình nghiên cứu, lí luận phê bình xuất hiện và có giá trị. Tiêu biểu là những công trình của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên...

.Đánh giá những thành tựu chủ yếu của giai đoạn 1945 - 1975

- Dựng lên dược hình tượng những con người mới trong lao động sản xuất và chiến đấu.

- Ca ngợi công cuộc xây dựng cuộc sống mới CNXH ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà; ca ngợi sự đổi thay của đất nước, con người và tinh thần lạc quan tin tưởng.

- Ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; khơi dậy được tinh thần yêu nước của toàn dân.

- Nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao biểu hiện sự tìm tòi cách thể hiện mới và cách tân. Đánh dấu một bước tiến mới của nền thơ Việt Nam hiện đại: tập trung thể hiện cuộc ra quân của toàn dân tộc, khám phá sức mạnh của con người Việt Nam; khái quát tầm vóc dân tộc trong thời đại mới, tăng cường chất suy tương chính luận, tạo âm vang rộng lớn mang hơi thở thời đại.

- Mang đến cho văn học tính chất trẻ trung, sôi nổi, thông minh, lạc quan, yêu đời...

Các tác giả văn học hiện đại từ 1945-1946: Hoài Thanh [Dân khí miền Trung], Tố Hữu [Huế tháng Tám, Vui bất tuyệt], Xuân Diệu [Ngọn quốc kì, Hội nghị non sông], Trần Mai Ninh [Tình sông núi]…

Sau năm 1946 có các tác giả văn học hiện đại: Nam Cao [Đôi mắt], Kim Lân [Làng], Võ Huy Tâm [Vùng mỏ], Nguyễn Đình Thi [Xung kích], Nguyên Ngọc [Đất nước đứng lên], Tô Hoài [Tập truyện Truyện Tây Bắc], Tố Hữu [tập thơ Việt Bắc], các bài thơ kháng chiến của Hồ Chí Minh: Cảnh khuya, Nguyên tiêu, Báo tiệp…, Quang Dũng [Tây tiến], Chính Hữu [Đồng chí], Trường Chinh [bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam]…

Tác giả văn học hiện đại giai đoạn 1955 – 1964

Học Phi [Một đảng viên], Nguyễn Vũ [Ngọn lửa], Lộng Chương [Quẫn], Đào Hồng Cẩm [Chị Nhàn, Nổi gió]…

Tác giả văn học hiện đại giai đoạn 1965 – 1975

Các tác giả văn học hiện đại Miền Nam có: Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Trần Hiếu Minh, Phan Tứ, với thơ của Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Giang Nam, Thanh Hải…

Văn học hiện đại Miền Bắc với các tác giả Nguyễn Tuân, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Kiên, Nguyên Khải, Nguyễn Minh Cháu, Hữu Mai, Chu Văn… và nhiều tập thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Xuân Diệu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Chính Hữu…

Các tác giả với kịch chống Mĩ đã tạo được tiếng vang lúc bấy giờ: Xuân Trình [Quê hương Việt Nam, Thời tiết ngày mai]; Đào Hồng Cẩm [Đại đội trưởng của tôi]; Vũ Dũng Minh [Đôi mắt]…

Nhiều tác giả với các công trình nghiên cứu, lí luận phê bình xuất hiện và có giá trị: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên…

12. Kim Lân: [1921-2007] Tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Từ Sơn – Hà Bắc. Ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn về đề tài ngư¬ời nông dân và nông thôn Việt Nam. Việc sử dụng từ ngữ mộc mạc, trong sáng, hóm hỉnh, ít dùng những câu văn hoa mĩ, cầu kì Kim Lân đã viết về những làng quê Việt Nam hết sức chân thực. Các tác phẩm chính như¬ : "Nên vợ nên chồng" ,"Con chó xấu xí" .Vợ nhặt "Làng" là truyện ngắn thể hiện rõ phong cách viết văn của ông.

13. Nguyễn Thành Long: [1925 – 1991], quê ở Duy Xuyên – Quảng Nam. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và kí. Ông viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội với một bút pháp giàu chất thơ, nhẹ nhàng, trầm lắng tha thiết. Tác phẩm chính: "Bát cơm cụ Hồ" [1955], "Trong gió bão" [1963], "Giữa trong xanh" [1972] "Lặng lẽ Sa Pa"là truyện ngắn đ¬ược trích từ tập "Giữa trong xanh" .

Bạn đang xem nội dung tài liệu Các tác giả văn học hiện đại trong chương trinh Ngữ văn 9, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Các tác giả văn học hiện đại trong chương trinh Ngữ văn 9 1. Chính Hữu[ 1926- 2007] Tên thật là Trần Đình Đắc, quê ở Can Lộc – Hà Tĩnh. Chính Hữu thường viết về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ ông mộc mạc, giản dị mà ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm xúc, giàu hình ảnh và cảm xúc dồn nén. Tác phẩm chính là tập thơ "Đầu súng trăng treo"[1966], tiêu biểu nhất là b.thơ "Đồng chí". 2. Phạm Tiến Duật:[1941-2007] quê ở Phú Thọ. Ông thường viết về chiến tranh và hình tượng những người lính lái xe trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông ngang tàng, tinh nghịch, tươi trẻ và giàu chất hiện thực. Các tác phẩm chính nh : "Vầng trăng – quầng lửa" [1970], "Thơ một chặng đường" [1971], "ở hai đầu núi" [1981]. "Bài thơ VTĐXKK" là bài thơ được trích từ tập "Vầng trăng – quầng lửa". 3. Huy Cận:[1919 – 2005] Cù Huy Cận quê ở Hương Sơn – Hà Tĩnh. Ông được mệnh danh là "nhà thơ của thiên nhiên, vũ trụ". Nếu như trước cách mạng thơ ông mang một nỗi buồn của thời đại thì sau cách mạng, thơ ông lại phơi phới, rạo rực niềm tin. Ngôn ngữ thơ trong sáng, hình ảnh thơ đầy lãng mạn. Các tác phẩm chính nh: "Lửa thiêng" [1940], "Trời mỗi ngày một sáng" [1958], "Đất nở hoa" [1984], v.v... và bài thơ "Đoàn thuyền đánh cá" đợc trích trong tập thơ "Trời mỗi ngày lại sáng". 4. Bằng Việt: Tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng sinh năm 1941, quê ở Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ nên gần gũi với bạn đọc trẻ, nhất là trong nhà trờng.Bài thơ "Bếp lửa" đợc Bằng Việt sáng tác năm 1963 khi ấy tác giả là sinh viên đang du học tại Liên Xô và mới bắt đầu đến với thơ. 5. Nguyễn Khoa Điềm: sinh năm 1943, quê ở Phong Điền – Thừa Thiên Huế, trong một gia đình tri thức cách mạng. Ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc.Thơ của Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, dồn nén cảm xúc, thể hiện tâm tư người trí thức tham gia vào cuộc chiếu đấu của nhân dân. Tác phẩm chính: "Đất ngoại ô" [1972], "Mặt đờng khát vọng" [1971, in 1974]... Bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu phía Tây Thừa Thiên. 6. Nguyễn Duy:Tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, quê ở Thanh Hoá. Nguyễn Duy đã được trao giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1972 – 1973. Ông trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nớc và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Theo nhà phê bình VH Hoài Thanh : "Thơ Nguyễn Duy có một vẻ đẹp không gì sánh được, quen thuộc mà không nhàm chán. Nguyễn Duy đặc biệt thấm thía cái cao đẹp của những cuộc đời cần cù chăm chỉ; chất thơ của Nguyễn Duy chính là cái hiền hậu, một cái gì rất Việt Nam". Bài thơ "Ánh trăng" viết năm 1978, tại t.phố HCM, vào lúc cuộc kháng chiến đã khép lại được 3 năm. 7. Chế Lan Viên: [1920 – 1989], tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, quê ở Quảng Trị. Tập thơ đầu tay "Điêu tàn" [1937] đã đưa tên tuổi của Chế Lan Viên vào trong số nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ Mới. Tham gia kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên đã tìm được con đường cho thơ mình đến với nhân dân và đời sống cách mạng. Thơ Chế Lan Viên có phong cách nghệ thuật rõ nét và độc đáo: suy tưởng triết lí, đậm trí tuệ và tính hiện đại. Chế Lan Viên có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ. Hình ảnh thơ của ông phong phú đa dạng, kết hợp giữa thực và ảo, thường được sáng tác bằng sức mạnh của sự liên tưởng, tưởng tượng nhiều bất ngờ kì thú. Bài thơ "Con cò" được sáng tác năm 1962, in trong tập thơ "Hoa ngày thường – Chim báo bão" [1967]. 8. Thanh Hải: [1930 – 1980] Tên thật là Phạm Bá Ngoãn , quê ở Phong Điền – Thừa Thiên Huế. Thanh Hải thường viết về thiên nhiên, tình yêu cuộc sống. Thơ ông bình dị, nhẹ nhàng, chân thật, khiêm nhường nhng mang đậm tính triết lí về cuộc đời, thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết. Ông có các tác phẩm nh: "Những đồng chí trung kiên" [1963], "Huế mùa xuân" [1971 – 1975], "Dấu võng Trường Sơn" [1977]. 9. Viễn Phương: [1928-2007 Tên thật là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang. Ông thường viết về phong trào kháng chiến ở miền Nam và công cuộc xây dựng CNXH. Thơ ông thờng nhỏ nhẹ, giàu tìch cảm đầy chất mơ mộng. Các tác phẩm chính nh : "Mắt sáng học trò" [1970], "Nhớ lời di chúc" [1972]. "Viếng lăng Bác" là bài thơ được trích từ tập "Như mây mùa xuân". 10. Hữu Thỉnh:Tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở Vĩnh Phúc. Thơ Hữu Thỉnh có một giọng điệu riêng chân thực trong cảm xúc tinh tế và có nhiều tìm tòi trong cách biểu hiện. Ông là nhà thơ viết nhiều và viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang cảm xúc bâng khâng, vấn vương trước đất trời trong trẻo đang biến chuyển nhẹ nhàng. Bài thơ "Sang thu" được sáng tác gần cuối năm 1977. 11. Y Phương: Tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948, quê ở Cao Bằng. Thơ Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi. Bài thơ "Nói với con" được viết năm 1977. Bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Y Phương: yêu quê hương, làng bản, tự hào và gắn bó với dân tộc mình. 12. Kim Lân: [1921-2007] Tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Từ Sơn – Hà Bắc. Ông là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân và nông thôn Việt Nam. Việc sử dụng từ ngữ mộc mạc, trong sáng, hóm hỉnh, ít dùng những câu văn hoa mĩ, cầu kì Kim Lân đã viết về những làng quê Việt Nam hết sức chân thực. Các tác phẩm chính như : "Nên vợ nên chồng" ,"Con chó xấu xí" .Vợ nhặt "Làng" là truyện ngắn thể hiện rõ phong cách viết văn của ông. 13. Nguyễn Thành Long: [1925 – 1991], quê ở Duy Xuyên – Quảng Nam. Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và kí. Ông viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội với một bút pháp giàu chất thơ, nhẹ nhàng, trầm lắng tha thiết. Tác phẩm chính: "Bát cơm cụ Hồ" [1955], "Trong gió bão" [1963], "Giữa trong xanh" [1972]"Lặng lẽ Sa Pa"là truyện ngắn được trích từ tập "Giữa trong xanh" . 14.Nguyễn Quang Sáng: sinh năm 1932, quê ở An Giang. Ông tham gia kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong 2 cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình. Lối viết của Nguyễn Quang Sáng giản dị, mộc mạc những sâu sắc, dậm đà chất Nam Bộ. "Chiếc lược ngà" được viết năm 1966, tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra quyết liệt. 15. Nguyễn Minh Châu: [1930 – 1989] quê ở Nghệ An. Nếu trước 1975, Nguyễn Minh Châu luôn trăn trở "đi tìm những hạt ngọc ẩn dấu trong bể sâu mỗi con người" thì sau 1975, ông viết về chiến tranh và công cuộc đổi mới của đất nước. Ông đã thể hiện được những đổi mới về mặt tư tưởng và nghệ thuật với giàu triết lí nhưng không khô cứng mà rất nhẹ nhàng. Các tác phẩm tiêu biểu: "Dấu chân người lính", "Mảnh trăng cuối rừng". Các truyện ngắn như: "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành" [1983], "Bến quê" [1985], "Cỏ lau" [1989]. 16. Lê Minh Khuê: sinh năm 1940, quê ở Thanh Hoá. Trong kháng chiến chống Mĩ, gia nhập TNXP và bắt đầu viết văn vào đầu những năm 70, chủ yếu viết về cuộc sống chiếu đấu của tuổi trẻ nơi tuyến đường Trường Sơn. Là nhà văn có sở trường về truyện ngắn và có nhiều tìm tòi đáng quí. Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của Lê Minh Khuê khá sắc sảo, nhất là khi miêu tả tâm lý phụ nữ. "Những ngôi sao xa xôi" viết năm 1971, trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt

Video liên quan

Chủ Đề