Nền tảng tinh thần của xã hội là gì

[TG] - Văn hóa là những giá trị sống do sự sáng tạo của con người, được kết tinh, hội tụ, lan tỏa trong đời sống xã hội, là nhựa sống cho quốc gia, dân tộc và nhân loại.

Lễ hội Đền Hùng. [Ảnh: Báo Phú Thọ]

NHẬN DIỆN BẢN SẮC VÀ GIÁ TRỊ VĂN HÓA VIỆT NAM

Văn hóa Việt Nam được hình thành và bồi đắp qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước, đó là một nền văn hóa được hình thành trên nền tảng kinh tế nông nghiệp, vừa có tính phổ quát, vừa có tính cá biệt, kết nối và giao thoa giữa các nền văn minh gắn với đồng bằng, sông biển, núi rừng, sa mạc. Văn hóa Việt Nam không bị các nền văn hóa ngoại bang áp đặt, nô dịch, mà có tính tự chủ, đa dạng, phong phú do cộng đồng các dân tộc sinh tồn trên lãnh thổ Việt Nam, sự tiếp thu văn hóa bên ngoài thường được bản địa hóa. Cội rễ của Văn hóa Việt Nam là ý chí, nghị lực phi thường, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào cũng "chung lưng đấu cật" chống thiên tai địch họa, cần cù trong sản xuất làm ra của cải vật chất, hồn nhiên và tài hoa trong sáng tạo đời sống tinh thần. Với một lãnh thổ đa dạng, phức tạp, giàu tiềm năng và cũng không ít khó khăn, thách thức, Việt Nam là một quốc gia hỗn dung nhiều yếu tố tự nhiên, gắn kết nhiều tộc người, mỗi miền, mỗi tộc người đều tự tôn, tự tạo, bảo tồn và phát triển một số giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, góp phần làm nên diện mạo văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng, phản ánh sự gắn kết cộng đồng xã hội như cây một cội, đùm bọc lẫn nhau, yêu nước, thương nòi, làm nên khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đủ sức chế ngự thiên nhiên, đủ sức đánh bại quân xâm lăng. Phương thức sản xuất đánh bắt, hái lượm, trồng trọt, chăn nuôi cùng với sự chế biến lương thực, thực phẩm giúp cho con người Việt Nam sáng tạo văn hóa ẩm thực hết sức phong phú. Tín ngưỡng, tôn giáo làm giàu trí tưởng tượng để con người Việt Nam sáng tạo và làm giàu kho báu văn hóa vật thể và phi vật thể. Địa hình, môi trường tự nhiên đòi hỏi con người sáng tạo nhà ở, tư trang. Mối giao hòa giữa con người với cộng đồng dần hình thành các hình thức sinh hoạt lễ hội hồn nhiên, tươi vui. Dân tộc Việt Nam là nơi có nhiều giá trị văn hóa truyền thống đạt tinh hoa nhân loại, đây chính là nguồn lực tinh thần vô giá, nội sinh dân tộc, vừa là niềm kiêu hãnh của con người Việt Nam nói chung, của từng tộc người trên mọi miền đất nước, đồng thời là sức hút du khách thập phương.

SỨ MỆNH CỦA VĂN HÓA TRONG THỜI ĐẠI TOÀN CẦU HÓA

Trong bối cảnh hội nhập, văn hóa là chìa khóa mở ra những vách ngăn, khai quang rào chắn để con người với con người sống với nhau có nghĩa có tình, để các quốc gia, dân tộc thông hiểu về nhau, chia sẻ, cộng đồng trách nhiệm cùng giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu, chung tay xây dựng và bảo vệ mái nhà chung vì hòa bình cho nhân loại. Sự tiến hóa của nhân loại như một dòng chảy mang theo phù sa văn hóa, nuôi dưỡng những mầm sống tương lai cho tiến bộ, văn minh. Trong dòng chảy lịch sử nhân loại, mỗi dân tộc đều có những bước thăng trầm và góp vào lịch sử những giá trị cao đẹp, làm nên những giá trị sống có tính phổ quát, dần hình thành và định vị bản sắc văn hóa riêng có cho từng cộng đồng, dân tộc.

Văn hóa có chức năng định hướng nhân cách, lối sống; giúp cho con người biết sống hướng thiện, biết làm cho các mối quan hệ giữa người với người và giữa người với thiên nhiên trở nên hài hòa. Tiến trình lịch sử nhân loại và của từng quốc gia, dân tộc thực chất và sâu xa là lịch sử biến thiên của các dòng chảy văn hóa. Các cuộc chiến tranh xâm lược bao giờ cũng mang theo sự nô dịch, áp đặt văn hóa của kẻ thống trị. Các cuộc chiến tranh chống xâm lược bao giờ cũng nhằm bảo vệ nền tự chủ và bản sắc văn hóa dân tộc. Trong chiến tranh, vũ khí hiện đại và binh lính với số đông có thể giành chiến thắng nhất thời, song sức sống của văn hóa, sức mạnh của tinh thần chắc chắn là thứ vũ khí vô hình bất diệt.

Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, nhiều khi con người tiếp cận một cách thái quá sức mạnh vật chất, coi sức mạnh vật chất là vạn năng, nên dẫn đến chạy đua vũ trang, chạy đua kinh tế, sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt để “răn đe” các nước không theo quĩ đạo của mình, sử dụng kinh tế làm ngón đòn “trừng phạt”, gây mất ổn định xã hội, can thiệp thay đổi thể chế chính trị. Nhiều giá trị văn hóa bị vỡ tan bởi các cuộc chiến dưới chiêu bài chống khủng bố. Các cuộc xung đột sắc tộc được ngụy trang dưới chiêu bài dân chủ. Xung đột tư tưởng bị khoác lên màu tôn giáo, tín ngưỡng, nhân quyền. Thế giới từng phải chịu cảnh chiến tranh hủy diệt và điêu tàn nhiều giá trị văn hóa tinh thần, nhất là sự hận thù giai cấp, dân tộc, sự kỳ thị sắc tộc, tôn giáo. Mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang gây nhiều “tế bào ung thư” cho văn hóa đối nhân xử thế.

Trước tình hình như vậy, đòi hỏi văn hóa phải giữ vững thiên chức khuyến thiện, diệt ác, bảo vệ các giá trị chuẩn mực đạo đức, lối sống cao đẹp, đẩy lùi các biểu hiện hẹp hòi, ích kỷ, dân tộc cực đoan, dân chủ giả hiệu. Sự giao thoa văn hóa là sự kết nối các giá trị sống trên phạm vi toàn cầu, không đem văn hóa làm thứ vũ khí vô hình để dọn đường áp đặt thể chế chính trị, nô dịch dân tộc. Văn hóa thực sự là môi trường sinh tồn bình đẳng, tương hỗ giữa cá nhân, cộng đồng, quốc gia, dân tộc vì hòa bình, thịnh vượng chung. Đại dịch Covid - 19 là dịp để con người “sống chậm lại”, có thêm cơ hội suy ngẫm “cài đặt” lại các mối quan hệ và phương thức sản xuất cùng với lối sống, theo đó, có một thông điệp văn hóa làm mẫu số chung cho nhân loại là: muốn sinh tồn và phát triển, chắc chắn phải hợp sức cùng nhau.

MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA LÀM TRỤ ĐỠ CHO VIỆT NAM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

* : Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục tiêu từ nay đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam từng bước vươn lên thành nước công nghiệp hiện đại, thu nhập khá. Đây là mục tiêu chiến lược mang tầm nhìn thời đại, sát hợp với bối cảnh hội nhập, nâng cao thực lực kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của đất nước. Theo đó, văn hóa phải khai mở được tinh thần tự lực, tự cường, khởi nghiệp, tạo ra tinh thần mới, tư duy phát triển kinh tế bằng sức mạnh trí tuệ và bản lĩnh vượt khó, sáng tạo của người Việt Nam. Văn hóa phải lên án lề lối làm ăn, kinh doanh thiếu lành mạnh, phải đấu tranh với biểu hiện vì lợi ích kinh tế mà phá hủy môi trường sống, để lại hậu họa cho con cháu, làm hoen ố hình ảnh đất nước.

Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là tinh hoa trí tuệ của cả hệ thống chính trị và nhân dân, làm khung khổ cho đất nước phát triển. Văn hóa chính trị phải làm cho Đảng thực sự là đạo đức, là văn minh, xứng đáng là đại diện cho lợi ích tối cao dân tộc. Muốn vậy, văn hóa phải là người lính xung kích đấu tranh, ngăn chặn sự xuống cấp đạo đức, sự thoái hóa bản chất cách mạng trong cán bộ, đảng viên; phải làm cho tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị có được lòng tin của Nhân dân; đồng thời phải lan tỏa các giá trị đạo đức cách mạng mà Hồ Chí Minh đã đúc kết, chỉ dạy, nêu gương. Văn hóa vừa soi rọi, vừa kiểm duyệt các hành vi văn hóa xã hội, giữ vững các giềng mối điều tiết các mối quan hệ xã hội. Văn hóa còn thanh lọc “khí độc” trong du nhập các làn sóng văn hóa ngoại lai hoặc phát sinh mới.

Thực tế cho thấy, một số quốc gia có chỉ số hạnh phúc lại chưa phải là nước có kinh tế mạnh. Mục tiêu chiến lược của nước ta là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, như vậy kinh tế chỉ là một thành tố được đặt lên đầu trong các thành tố đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Nên, văn hóa còn phải định hướng, mở đường cho những giá trị ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa từng bước ra đời, định hình, mang đậm bản chất tốt đẹp của tính người, tình người nhân hậu, bao dung, bình đẳng, bác ái, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu” để con người thụ hưởng hạnh phúc, kinh tế chỉ là điều kiện vật chất nâng cao đời sống tinh thần Nhân dân. Văn hóa phải khai sáng tư tưởng tiến bộ, bồi đắp niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ.
Đạo đức chính là giá trị đặc biệt của văn hóa, song nói văn hóa đạo đức là để dựa vào đó mà nói sâu hơn về chức năng văn hóa đối với hình thành nhân cách. Văn hóa Việt Nam có được sức mạnh cảm hóa lòng người chính là dựa vào sự lay động lòng người, thức tỉnh lương tri. Đạo đức con người Việt Nam là biết hy sinh cho quê hương, đất nước, luôn hướng về cội nguồn dân tộc, tri ân tiên tổ, tôn vinh anh hùng dân tộc, đặt con người vào trung tâm phát triển. Đó chính là những triết lý sống của con người Việt Nam.

Văn hóa cần phải tiếp tục làm tỏa rạng những giá trị đạo đức thánh thiện như vậy. Văn hóa còn là vũ khí sâu cay, thâm thúy, đủ sức lên án, bài xích, tẩy chay lối sống bất nhân, bất nghĩa, vô ơn. Từng lĩnh vực ngành nghề đều có những chuẩn mực văn hóa đạo đức phù hợp, nhưng dù như thế nào thì hết thảy cũng đều là thành trì bảo vệ vững chắc lối sống đẹp, gìn giữ thuần phong mỹ tục của cộng đồng, dân tộc.

Những thành tố nêu trên chính là tòa sen đón ánh dương, soi rọi con người Việt Nam phấn đấu cho khát vọng dân tộc, sớm trở thành chủ nhân của một đất nước phồn vinh, hạnh phúc, văn minh và trường tồn./.

PGS.TS. Trần Viết Lưu




Có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và lịch sử”[1], Ph.Ăng-ghen đã viết như thế trong lời mở đầu trong cuốn bút chiến với nhà triết học Đuy-rinh. Ph.Ăng-ghen và C.Mác là đồng tác giả sáng tạo ra chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tuy vậy hai ông vẫn lưu ý hậu thế rằng học thuyết của các ông không phải là những chân lý bất biến, vĩnh cửu, cuối cùng mà chỉ đặt những viên gạch đầu tiên cho quá trình tiếp theo nhằm nghiên cứu, sáng tạo xây dựng một xã hội tốt đẹp ngày càng xứng đáng với Con Người. “Những viên gạch” đầu tiên ấy chính là những tư tưởng lớn của các ông vẫn đang đóng góp vào dòng chảy văn hóa chung của loài người. Văn hóa lại là nền tảng tinh thần của xã hội. Kỷ niệm lần thứ 194 ngày sinh của Ph.Ăng-ghen khi Đảng ta đang chuẩn bị dự thảo các văn kiện Đại hội XII, xin nêu mấy luận điểm của ông cùng với sự vận dụng sáng tạo, mẫu mực của Hồ Chí Minh, nó vẫn đang thực sự là những hạt ngọc trong kho tàng văn hóa của nhân loại, rất cần coi là “nền tảng tinh thần” của Đảng và xã hội ta trong giai đoạn hiện nay.

Xuất phát từ thực tiễn

Thực tiễn là tiêu chuẩn, là thước đo sự đúng đắn mọi chủ trương, đường lối của bất kỳ đảng cầm quyền nào. Khi bàn về xây dựng chủ nghĩa cộng sản, C.Mác và Ph.Ăng-ghen nhấn mạnh: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”[2].

Chỉ đạo Tiểu ban xây dựng dự thảo văn kiện Đại hội XII của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: cần sát thực tiễn hơn, bảo đảm yêu cầu đổi mới, nêu rõ được mục tiêu, những nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản nhất và bảo đảm sự thống nhất cao trong toàn Đảng, toàn dân.

Phải xuất phát từ thực tiễn - đó là chỉ dẫn quan trọng của Ph.Ăng-ghen, một chỉ dẫn vẫn đang nóng hổi tính thời sự, cần phải coi là nguyên tắc trong việc soạn thảo các văn bản chính trị của Đảng ta - đảng duy nhất cầm quyền. Chỉ có như vậy mới chuẩn bị được những văn kiện đúng đắn, từ đó tạo được sự đồng thuận cao trong Đảng và trong nhân dân. Chỉ có như vậy thì ý Đảng mới có thể đồng thời là lòng dân.

Cần có thái độ đúng đối với các nguyên lý lý luận truyền thống

Ph.Ăng-ghen là người đầu tiên trong lịch sử phủ định quan niệm về chân lý vĩnh cửu. Ông cho rằng có những nguyên lý lý luận về chính trị, nhà nước, tổ chức xã hội... ở một thời điểm nhất định là đúng, thậm chí nhất đúng. Nhưng thế giới là vận động, là biến đổi không ngừng, mà vận động và biến đổi lại chính là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng. Cho nên, “ở đây sự nhận thức là cơ bản, vì nó chỉ giới hạn trong việc làm sáng tỏ những mối liên hệ và những hậu quả của một số hình thức xã hội và nhà nước chỉ tồn tại vào một thời gian nhất định ở những dân tộc nhất định, và xét theo bản chất thì có tính chất nhất thời. Vì vậy, trong lĩnh vực này kẻ nào đi tìm những chân lý tuyệt đỉnh cuối cùng, những chân lý thực sự, nói chung không biến đổi, thì kẻ đó sẽ chẳng kiếm được là bao, ngoài những điều nhạt nhẽo và những điều nhàm tai loại tồi nhất...”[3]. Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng trình độ ngày nay đã bao quát được một khối lượng nhận thức to lớn, đòi hỏi một sự chuyên môn nghiên cứu rất sâu và với một thái độ nghiêm túc, tôn trọng thế giới khách quan, không được bảo thủ, giáo điều. Ông cho rằng các nguyên lý đã có, đã từng được tôn sùng không phải mãi mãi đúng: “Kẻ nào đem vận dụng tiêu chuẩn của một chân lý thật sự, bất biến, tuyệt đối cuối cùng thì kẻ đó chỉ chứng tỏ sự ngu dốt và thiếu hiểu biết của bản thân...”[4]. Do đó, ông khẳng định: “Không phải giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với các nguyên lý, mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng trong chừng mực chúng phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử”[5]. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã nêu tấm gương mẫu mực cho hậu thế bằng sự dũng cảm tự phủ định một số điểm quan trọng do chính mình sáng tạo ra trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” mặc dầu nó đã được Quốc tế I thừa nhận, coi là Cương lĩnh đầu tiên của những người cộng sản trên toàn thế giới, nó đã từng có sức mạnh “ám ảnh” cả thế giới tư bản đương thời, để vươn lên phát hiện những nguyên lý mới phù hợp với thời đại mới. Cụ thể là Tuyên ngôn ra đời năm 1848, đến năm 1872, khi tái bản Ph.Ăng-ghen đã viết rõ là tình hình đã thay đổi “cho nên hiện nay Cương lĩnh này đã có một số điểm đã cũ”. Đến năm 1888 khi viết lời tựa cho bản tiếng Anh, Ph.Ăng-ghen cũng nhắc lại như trên và còn lưu ý nhiều nội dung khác của Tuyên ngôn cũng không còn phù hợp nữa[6]. Ông còn nói thêm: “Thái độ của người cộng sản với các đảng đối lập [chương IV]... trong những chi tiết, những nhận định ấy đã cũ rồi và tình hình chính trị đã hoàn toàn thay đổi... Tuy nhiên “Tuyên ngôn” là một tài liệu lịch sử mà không có quyền sửa lại”[7].

Hồ Chí Minh, người cộng sản Việt Nam đầu tiên nêu tấm gương sáng về sự trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng Người không giáo điều, bảo thủ, cả đời kiên trì dũng cảm bám sát thực tiễn để sáng tạo.

Đọc lại lịch sử Đảng ta, càng suy ngẫm, càng thấm thía toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước những khó khăn, trở lực và cả những vấp váp và sai lầm, Đảng đều biết cách vượt qua để tiếp tục đưa cách mạng tiến lên giành thắng lợi mới to lớn hơn. Nguyên nhân chủ quan là trong những bước ngoặt ấy, Đảng đều có những quyết định đổi mới đúng đắn và kịp thời. Đổi mới luôn là có ý nghĩa sống còn. Hồ Chí Minh chính là người đi tiên phong, dũng cảm đổi mới đúng, có hiệu quả cao. Người là vĩ nhân của những bước ngoặt lịch sử. Xin dẫn vài ví dụ:

Một là, giải quyết mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc

Trong khi quan điểm chính thống trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khẳng định vấn đề dân tộc phải phụ thuộc vào vấn đề giai cấp, chỉ có giải phóng giai cấp thì dân tộc mới được giải phóng thì Nguyễn ái Quốc đã nhận định rằng đó là quan điểm đúng, nhưng chỉ đúng ở các nước phương Tây khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao. Người nói “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung cơ sở lịch sử của Chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”. Rồi Người khẳng định “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”[8].

Về phân loại thành phần giai cấp cũng vậy. ở châu Âu, chủ nghĩa tư bản đã phát triển, giai cấp tư sản là giai cấp phản động không còn đại diện cho lợi ích của dân tộc nữa, nó đã trở thành một cực đối lập rõ rệt với giai cấp công nhân và nhân dân lao động. ở Việt Nam thì khác, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, nó èo uột lại bị tư bản, đế quốc chèn ép, trừ một số rất ít tư sản mại bản làm tay sai cho thực dân, còn đại bộ phận giai cấp tư sản đều có tinh thần dân tộc, đều có thể đi cùng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc, thực dân. Còn giai cấp địa chủ ở Việt Nam thì “không có máy móc, ruộng đồng thuộc sở hữu của những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên ở châu Âu và châu Mỹ”[9]. Chính vì vậy trong “Chương trình tóm tắt của Đảng” do Nguyễn ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam [3-2-1930], đã ghi: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; Đảng tập hợp hoặc lôi kéo phú nông, tư sản và tư bản bậc trung...”[10].

Vì đặt vấn đề dân tộc phụ thuộc vấn đề giai cấp nên quan điểm của Quốc tế cộng sản là tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa quốc tế vô sản, phê phán chủ nghĩa dân tộc. Nhưng Nguyễn ái Quốc vận dụng phép biện chứng duy vật, căn cứ vào thực tiễn các phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trong lịch sử Việt Nam đã khẳng định: ở Việt Nam có chủ nghĩa dân tộc chân chính. Người viết: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước... Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì... nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[11].

Cái mới ra đời buổi đầu bao giờ cũng khó được chấp nhận. Chân lý không thể đi một đường thẳng tắp mà thường phải có thời gian và thực tiễn kiểm nghiệm. Cách mạng Việt Nam từ 1930 đến 1941 qua những bước thăng trầm, ngày 28-1-1941 Nguyễn ái Quốc từ nước ngoài về nước, Người bắt tay ngay vào việc xây dựng cơ sở cách mạng, tổ chức quần chúng tại Cao Bằng và tập trung trí tuệ chuẩn bị cho hội Trung ương. Ngày 10-5-1941, Hội nghị Trung ương 8 [khóa I] khai mạc do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc chủ trì. Hội nghị đã phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, chỉ ra các mâu thuẫn trong xã hội, Hội nghị đã có một kết luận lịch sử: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội, có tác dụng tập hợp lực lượng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cùng nhau đồng tâm hiệp lực làm cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945 thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Có thể khẳng định với thành tựu vĩ đại đó, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đổi mới, sáng tạo, phát triển, góp phần bổ sung làm phong phú thêm học thuyết giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Hai là, vấn đề dân tộc và quyền tự quyết dân tộc ở Việt Nam

Chủ nghĩa Mác-Lênin quan niệm dân tộc hình thành cùng với chủ nghĩa tư bản. Đó là một quan niệm đúng, phù hợp với sự hình thành các quốc gia - dân tộc ở châu Âu. Nguyễn ái Quốc, căn cứ vào đặc điểm Việt Nam, Người đã có kết luận khác, khẳng định dân tộc Việt Nam hình thành sớm trong lịch sử, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước. Về quyền tự quyết của dân tộc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm có kết luận vô cùng quan trọng. Đó là quyền tự quyết của cộng đồng dân tộc ở Việt Nam, của nước Việt Nam, còn các dân tộc ở trong nước thì thực hiện đoàn kết, bình đẳng, tương trợ, sống chết có nhau, no đói giúp nhau, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng lòng đoàn kết ấy không bao giờ suy xuyển.Và ở đây, kinh nghiệm của Việt Nam đã đóng góp, bổ sung cho lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc

Ba là, về Đảng Cộng sản

Dựa trên cơ sở lịch sử của châu Âu, các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học khẳng định Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp công nhân, Đảng ra đời là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân. Dựa trên sự phân tích sâu sắc xã hội Việt Nam và thực tiễn ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng ta, Hồ Chí Minh đã đi tới kết luận chính xác: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng [12-1951] khẳng định Đảng Lao động Việt Nam là “Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”[13]. Năm 1955, trong bài viết cho báo Sự thật [Liên Xô], Hồ Chí Minh lại một lần nữa khẳng định Đảng ta đã “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”[14]. Lịch sử Đảng ta và lịch sử phong trào cộng sản quốc tế chắc chắn còn in đậm lâu dài dấu ấn sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn xứng đáng bổ sung học thuyết xây dựng đảng kiểu mới của V.I.Lê-nin thêm phong phú và hoàn chỉnh.

Trước mắt Đảng ta đang còn nhiều thử thách ngặt nghèo, song những chỉ dẫn của Ph.Ăng-ghen và sự sáng tạo của Hồ Chí Minh vẫn đang soi sáng đường lối đổi mới, chỉnh đốn Đảng, giúp Đảng ta vượt qua được mọi trở lực khách quan và trước hết là vượt qua được trở lực của chính mình, như C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra, để Đảng hoàn thành sứ mệnh của mình trước nhân dân, dân tộc, Tổ quốc trong tình hình mới.

Trần Xuân Đỉnh

-----

[1], [2], [3], [4], [5], [6], [7] C.Mác và Ph.Ăng-ghen, tuyển tập, NXB ST, H.1980, tập 5, tr.21; tập 1, tr.297; tập 5, tr.129; tập 5, tr.131, tr.53; tập 1, tr.504-518-519; tập 1, tr.519. [8], [9], [10], [11], [13], [14] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB ST, H.1995, tập 1, tr.465; tập 12, tr.464; tập 3, tr.4; tập 3, tr.466-467; tập 6, tr.176; tập 7, tr.517. [12] Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB ST, H.2003, tr.11.

Video liên quan

Chủ Đề