VietJack
Bằng cách đăng ký, bạn đồng ý với Điều khoản sử dụng và Chính sách Bảo mật của chúng tôi.
* Hướng dẫn giải
Nhà máy thuỷ điện đầu tiên được xây dựng ở miền Bắc nước ta là nhà máy Thuỷ điện Thác Bà
Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm dưới đây !
Số câu hỏi: 107
Nói đến nhà máy thủy điện, nhiều người nghĩ ngay tới các cái tên như: nhà máy thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Thác Bà, Na Hang,… Vậy công trình nào là nhà máy thủy điện đầu tiên tại Việt Nam?
Nằm sâu trong thung lũng Dankia – Suối Vàng, thuộc vùng rừng núi ở H.Lạc Dương [Lâm Đồng] tồn tại 1 nhà máy thủy điện trông như một biệt thự cổ giữa rừng thông. Đó là nhà máy thủy điện Ankroet, đây là nhà máy thủy điện đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam.
Công trình nhà máy thủy điện Ankroet được khởi công xây dựng từ năm 1942 và được đi vào hoạt động từ năm 1945. Nhà máy phát điện được đưa về Đà Lạt, hòa điện với nhà máy điện diesel Đà Lạt. Nó chủ yếu cung cấp điện cho TP.Đà Lạt, nơi được ví như Paris thu nhỏ của người Pháp tại Việt Nam lúc bấy giờ.
Anh Đinh Viết Hòa [52] tuổi, quản đốc phân xưởng nhà máy thủy điện Ankroet nói rằng hầu hết những tư liệu về nhà máy thủy điện này đã bị thất lạc, chỉ còn lại 2 bản vẽ thiết kế đập bằng tay do người Pháp vẽ từ nước họ rồi gửi bưu điện sang nhà máy là còn được lưu giữ lại.
Công xây lên muôn thuở không quên
Nhìn từ xa thì nhà máy thủy điện Ankroet nhìn như 1 ngôi biệt thự hiền hòa, ẩn mình dưới tán thông xanh ngắt với phong cách giống như nhiều biệt Thự Pháp khác ở xứ sương mù. Sự khác biệt là xung quanh “ngôi biệt thự” này có những nấm mộ vô danh nằm rải rác khiến cho khung cảnh thơ mộng nơi đây đượm vẻ tịch liêu.
Hầu hêt các công trình, hạng mục đều được xây bằng đá chẻ và liên kết bằng mạch vữa. Tại thời điểm đó, việc thi công công trình hầu như sử dụng sức người là chủ yếu. Hàng ngàn lao động là những dân phu từ miền Bắc, miền Trung nước ta đã được người Pháp tuyển mộ đưa vào xây dựng công trình. Công phu nhất đó chính là công trình đường hầm xuyên núi đã được đào thủ công với muôn ngàn hiểm nguy rình rập. Những thiết bị, vật tư nào có thể tháo rời được đều đã được tháo rời. Rồi tận dụng vào sức của dân phu luồn rừng, lội suối kéo, cõng vào. Công việc nặng nhọc, ăn uống kham khổ, dịch bệnh, giá rét,… đã làm cho không ít dân phu phải bỏ mạng trên công trường này, xác họ bị vùi dưới lòng đất quanh nhà máy”. Anh Hòa cho biết.
Vào năm 2005, một đài tưởng niệm đã được dựng lên để ghi nhớ công ơn của những người đã góp công xây dựng, vận hành nhà máy. Vào những dịp lễ, tết, ngày kỷ niệm ngành, anh em nhà máy đều dọn cỏ, thắp nhang cho các nhấm mộ để nhớ tới tiền nhân. Tấm bia đá dựng trong đài tượng niệm đã ghi rõ 2 câu đối: “ơn góp sức ngàn năm vẫn nhớ/ Công xây nên muôn thuở không quên”.
Địa điểm tham quan thú vị khi tới Đà Lạt.
Theo như thiết kế ban đầu của người Pháp, đập hồ Ankroet là đập tự tràn được xây bằng đá chẻ, dài 97m, cao 10m, dung tích hồ chứa 1 triệu m3 nước. Cửa nhận nước là đường hầm xuyên núi dài 536m, hình móng ngựa với đường kính là 1.65m và có giếng thủy áp ở cuối đường hầm 44m [đường kính là 4m]. Đường ống thủy lực nối xuống nhà máy bằng thép dài 160m. Tại nhà máy lắp đặt 2 tổ máy, mỗi tổ máy 300 kW, tuốc bin hiệu BELL, máy phát hiệu CEM-LEHAVRE do Mỹ sản xuất.
Vào đầu những năm 1960, để có nguồn điện phục vụ xây dựng thủy điện Đa Nhim [tại huyện Đơn Dương và Sông Pha], nhà máy thủy điện Ankroet được tiến hành cải tạo và nâng cấp để đáp ứng thêm nhu cầu mới.
Sau ngày thống nhất năm 1975 thì nhà máy thủy điện Ankroet được tiếp quản. Sở quản lý phân phối điện Lâm Đồng [nay là điện lực Lâm Đồng] quản lý. Qua thời gian, những máy móc cũ, đập tự tràn, đường hầm bị hư hỏng nên dần dần được thay thế, nâng cấp. Cùng với đó thì công nghệ vận hành cũng đã cũ, Nó vận hành bằng tay và bán tự động theo nguyên lý cơ – điện – từ được thay đổi sang công nghệ kỹ thuật số, tự động hóa, điều khiển bằng công nghệ tiên tiến.
Cho tới hiện nay thì nhà máy thủy điện Ankroet là nhà máy thủy điện duy nhất trong nước có đập tràn được xây bằng đá chẻ. Ngoài ra, điều thú vị đó là nhà máy hiện tại rất kiên cố, có kiến trúc hài hòa với thiên nhiên. Nó tựa như 1 biệt thự để nghỉ dưỡng chứ không hề mang dáng dấp của 1 công xưởng. Anh Đinh Viết Hòa cũng cho hay “cho dù hiện tại thì nhà máy cũng đã được áp dụng công nghệ hiện đại, cán bộ, nhân viên quản lý, vận hành cũng đã được trẻ hóa nhưng những gì thuộc “dấu xưa” thì vẫn luôn được chúng tôi lưu giữ. Ngoài 1 số thiết bị và 1 trong 2 tổ máy đầu tiên đã được vận chuyển ra Hà Nội để trưng bày trong nhà truyền thống của tập đoàn điện lực VN. Thì tổ máy còn lại và 1 số thiết bị cùng vật liệu nhỏ khác chúng tôi đang lưu giữ, trưng bày trong khuôn viên nhà máy”.
Ngày nay, mỗi năm nhà máy thủy điện Ankroet đã đón cả ngàn lượt du khách đến tham quan. Do đặc thù, nhà máy sẽ không tiến hàng nâng công suất nữa. “Chúng tôi dự kiến sẽ xây dựng nơi đây thành điểm đến du lịch, phục vụ cho du khách tham quan, tìm hiểu về nhà máy thủy điện xưa nhất Việt Nam, có tuổi đời hơn 70 năm hiện vẫn còn hoạt động”, anh Hòa nói.
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại tỉnh Hòa Bình [từ năm 1979 đến năm 1991 là tỉnh Hà Sơn Bình], trên dòng sông Đà thuộc miền bắc Việt Nam. Đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á từ năm 1994 đến 2012 [Bị phá vỡ kỉ lục vào năm 2012 bởi Nhà máy thủy điện Sơn La].[cần dẫn nguồn] Nhà máy thủy điện Hòa Bình do Liên Xô [sau năm 1991 đến 1994 là Liên bang Nga] viện trợ kinh phí, hỗ trợ công tác xây dựng và hướng dẫn vận hành.
Cổng trước thủy điện Hòa Bình
Thông số kĩ thuật chính:
Nhà máy thủy điện Hòa Bình
Sông Đà là một trong ba phụ lưu chính của hệ thống sông Hồng chiếm 55% lượng nước. Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội.
Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng Đường dây 500 kV Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm [Thành phố Hồ Chí Minh] hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền Nam và miền Trung Việt Nam. Nhà máy cung cấp khoảng 27% [Thời điểm trước năm 2010] nguồn điện của cả nước.
Đập thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô. Điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông.
Cải thiện việc đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004, công trình tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường này. Một cửa xả nước
Trong quá trình xây dựng thủy điện Hòa Bình, 168 người đã hi sinh [do tai nạn lao động hoặc bệnh tật], trong đó có 11 chuyên gia Liên Xô. Đài tưởng niệm những người này được xây dựng cách nhà máy thủy điện về phía hạ lưu sông Đà khoảng 300 mét.[1] Tại sân truyền thống nhà máy Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình chóp cụt, trên đó có tấm biển thép khắc dòng chữ: "Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư được mở vào ngày ngày 1 tháng 1 năm 2100". "Kho lưu trữ" lá thư thực chất chỉ là một khối bê tông hình chóp cụt tứ giác đều [4 mặt bên hình thang] có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8 mét, cạnh trên 0,8 mét, nặng gần 10 tấn. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười đồng ý, lãnh đạo Tổng Công ty Xây dựng nhà máy Thủy điện Hòa Bình mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam chưa có tục lệ này, cho nên không được "chôn" vào lòng đập mà nên đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo tổng công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông. Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể. Sau khi lá thư được hoàn chỉnh về nội dung, một cán bộ viết chữ đẹp được giao nhiệm vụ chép hai bản đó với tiếng Việt và tiếng Nga bằng mực Tàu.[2] Nhà thơ Quang Huy đã sáng tác bài thơ Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà vào tháng 11 năm 1979, khi nhà máy mới được khởi công. Bài thơ lấy hình ảnh một cô gái Nga đang chơi một bản nhạc bằng chiếc đàn balalaika bên sông Đà để nói lên tình tình hữu nghị Việt-Xô và sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô trong việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình. Bài thơ đạt giải nhất trong cuộc thi thơ năm 1983 của Hội hữu nghị Việt Nam-Liên Xô . Có 14 nhạc sĩ đã phổ nhạc cho bài thơ này, trong đó phiên bản của nhạc sĩ An Thuyên đạt giải nhất của Hội Âm nhạc năm 1984.[3] Một đoạn trích của bài thơ đã được đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 của Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.[4]
Các chuyên gia đã tính toán và đưa ra cảnh báo: "Nếu vỡ đập thủy điện Hòa Bình thì toàn bộ 6 tỉnh đồng bằng sông Hồng sẽ bị cuốn trôi ra biển chỉ trong một ngày và Hà Nội sẽ ngập dưới 30 mét nước tính từ chỗ cao nhất của nhà ga Hàng Cỏ." Do đó, cần phải chuẩn bị sẵn kịch bản đối phó nếu lũ quá lớn nếu đập thủy điện không chống chọi được[5] Tháng 10 năm 2017, sau 21 năm, thủy điện Hòa Bình - dung tích 9,74 tỉ m3 - đã phải xả 8/12 cửa xả đáy sau nhiều đợt mưa lớn kéo dài làm nước dâng cao hơn giới hạn cho phép gần 5 mét và đạt mức 117m so với mức tối đa cho phép là 120m.[5] Thư viện Quốc Gia France tài trợ hình ảnh này
Video liên quanChủ Đề |