Phân tích 8 câu đầu của tình cảnh lẻ loi

Phân tích 8 câu đầu bài Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ

#Phân #tích #câu #đầu #bài #Tình #cảnh #lẻ #loi #của #người #chinh #phụ

[rule_3_plain]

#Phân #tích #câu #đầu #bài #Tình #cảnh #lẻ #loi #của #người #chinh #phụ

Bài văn mẫu Phân tích 8 câu đầu bài Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ dưới đây nhằm giúp các em cảm thu được những sâu lắng về nỗi bi tráng, sự đơn chiếc của người chinh phụ trong cảnh hy vọng mòn mỏi. Mời các em cùng tham khảo nhé! Ngoài ra, để làm giàu có thêm tri thức cho phiên bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ.

1. Lược đồ tóm lược gợi ý

2. Dàn bài cụ thể

a. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, công trình, đoạn trích và 8 câu đầu của Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ.

b. Thân bài:

* Hành động của người chinh phụ

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen

– Người chinh phụ vừa đi vừa đếm bước chân mình, như đang đếm từng ngày xa chồng.

– Những bước chân của người chinh phụ tưởng như âm thầm, mà lại mang theo nỗi ưu phiền, thấp thỏm cho người chồng ở nơi mặt trận.

=> Đó là những bước chân trĩu nặng tâm tứ, sự nhớ thương và nỗi xót xa.

– Người chinh phụ ngồi bên cửa sổ, hết buông lại cuốn rèm như một hành động vô thức, lặp đi lặp lại.

=> Nàng không tinh thần được mình đang làm gì, do đã dồn hết tâm tứ, sự thấp thỏm, nhớ nhung cho người chồng nơi biên cửa ải chẳng biết khi nào thế hệ về.

– Tính từ “vắng”, “thưa” tạo nên sự trống vắng cho không gian, tô đậm sự bi tráng tủi, đơn chiếc của người chinh phụ.

– Dùng từ “từng”, “đòi” càng nhấn mạnh sự lặp lại vô thức những hành động bất nghĩa của người chinh phụ.

=> Hành động của người chinh phụ biểu lộ những bề bộn thấp thỏm, nỗi bi tráng phiền và tấm lòng son sắt nhưng nàng dành cho người chồng.

* Ngoại cảnh: 6 câu tiếp theo

– Chim thước: loài chim báo tin người đi xa trở về.

– Người chinh phụ ngóng chờ bóng chim thước qua bức rèm thưa.

– Nhìn về thực tế với những nỗi nhớ, sự mong ngóng, hoài vọng đoàn viên đều xa vời, không được phúc âm, người chinh phụ càng thêm tuyệt vọng.

– Khi đối diện với ánh đèn, người chinh phụ khát khao được mến thương và sẻ chia, câu hỏi tu từ khi ngồi trước ngọn đèn dầu chính là một lời than vãn, tỏ bày sự ngao ngán, đơn chiếc đan xen với vô vọng.

– Hình ảnh ngọn đèn là một hình ảnh thân thuộc, hiện ra nhiều trong các công trình văn chương trung đại.

– Trong đoạn trích, ngọn đèn được dùng để ẩn dụ cho thời kì trôi nhanh, ẩn dụ cho sự lụi tàn, héo hắt của một kiếp người.

=> Cuộc đời như một kiếp hoa đèn mỏng manh dang dở.

* Hình ảnh hy vọng của người chinh phụ

– Người chinh phụ thức trắng đêm cùng ngọn đèn do xót xa cho cảnh ngộ của chính mình. Nhưng thời kì trôi qua, ngọn đèn cũng chẳng thức cùng nàng, chỉ để lại bóng vía cô độc của người chinh phụ.

– Tính từ “bi lụy”, “bi tráng rầu”, “thương” biểu lộ tâm cảnh não nại của người chinh phụ:

Bi thiết là bi tráng, thảm thiết, là nỗi đau chẳng thể nói thành lời, là thèm khát được thấu hiểu, được sẻ chia mà lại chẳng có ai để cùng hàn ôn.
Thiết tha là cắt, mài [theo nghĩa Hán Việt]: biểu lộ nỗi đau chôn giấu tạo nên vết cắt sâu trong tâm não.

=> Nỗi đau. sự bi tráng tủi, khắc khoải của nàng mãi dồn nén trong tim, để rồi cứa vào trái tim đơn chiếc, khiến nỗi đau càng dày thêm theo từng ngày ngóng chờ bóng tình nhân đang chinh chiến nơi mặt trận hiểm ác hiểm.

* Nghệ thuật:

– Văn pháp nghệ thuật ước lệ liên kết thể thơ song thất lục bát cùng nhịp thơ chậm chạp rãi đã biểu lộ những mạch cảm xúc mang cung bậc không giống nhau của người chinh phụ.

– Đoạn trích dùng nghệ thuật mô tả tâm trạng bằng ngoại cảnh cùng nhiều tính từ chỉ cảm xúc.

=> Tác giả đã chiến thắng thành lập hình ảnh người chinh phụ mang suy tứ rối bời, tâm cảnh héo mòn chạm tới trái tim người đọc. Song song, gợi nên sự đồng cảm thâm thúy đối với những người thiếu phụ nặng tình mong ngóng bóng vía người chồng đang nhập cuộc những trận chiến tranh bất chính [giá trị nhân đạo].

c. Kết bài:

– Nêu giá trị của đoạn trích cùng 8 câu đầu trong “Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ”.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Phân tích 8 câu đầu bài Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ dưới dạng một bài văn ngắn.

GỢI Ý LÀM BÀI

3.1. Bài văn mẫu số 1

Ái tình luôn là chủ đề muôn đời trong văn chương và cũng là nguồn cảm hứng vô tận của thi nhân. Nếu tình ái trong thời bình gắn với những ngọt ngào, thơ mộng, thì tình ái trong thời chiến lại gắn liền với sự hy vọng mòn mỏi và sự biệt ly cực khổ. Nếu thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán thù ghét chiến tranh bất chính, thông cảm cho tâm cảnh người đàn bà phòng khuê nhưng viết nên những vần thơ xúc động:

“Khuê trung đàn bà bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu dung nhan

Hối hận giao cu li tế mịch phong hầu”

[Khuê oán thù – Vương Xương Linh]

Thì trong thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn đã thông cảm thâm thúy trước số mệnh những người thiếu phụ có chồng đi quân nhân nhưng làm nên kiệt tác “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ” thuộc công trình trên đã chạm tới cùng tận trái tim người đọc khi tái tạo tình cảnh cô độc, nỗi thương nhớ da diết của người thiếu phụ khi có chồng ra trận cùng với mơ ước về hạnh phúc đoàn viên. Điều ấy được đặc tả trong 8 câu đầu đoạn trích “Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ”.

“Chinh phụ ngâm” ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, khi phong trào khởi nghĩa dân cày diễn ra triền miên, triều đình điều binh quân nhân đi dẹp loàn. Điều đó dẫn tới việc nhiều gia đình rơi vào cảnh ly biệt kẻ ở người đi, hoàng hậu mất chồng, mẹ mất con. Số mệnh và thảm kịch của những nhân loại nhỏ dại bé xíu trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã biến chuyển trái tim của Đặng Trần Côn.

Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ lẻ loi chốn khuê phòng im thin thít, lạnh mát, nỗi khổ tâm của nàng được biểu lộ qua hành động và ngoại cảnh.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Không gian “hiên vắng”, “ngoài rèm”, “trong rèm” là không gian chật hẹp, tù đọng túng im thin thít và hiu hắt chỉ có vang vọng tiếng bước chân của người lẻ bóng. Đây là một không gian nghệ thuật đã góp phần biểu lộ tâm cảnh của người chinh phụ. Không gian im thin thít lúc này là để bày tỏ nỗi lòng mình và càng tô đậm thêm sự lẻ bóng của nàng.

“Hiên vắng” do lẽ không có người cần thiết nhất kề bên nàng lúc này. Tâm cảnh người chinh phụ đơn chiếc, độc thân trải dài khắp không thời kì. Ở mọi không gian, phút giây người chinh phụ đều chỉ một mình một bóng. Người chinh phụ dạo bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi.

Qua 8 câu thơ đầu ta thấy những bước chân âm thầm của nàng trĩu nặng u sầu, đong đầy nhớ thương, như bước chân người nô tỳ trong “Cung oán thù ngâm” của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngơ ngẩn”. Sự hoảng sợ, khắc khoải, trông mong được khắc họa qua những hành động lặp đi, lặp lại, hết đứng lại ngồi, hết ra ngoài hiên rồi lại bước vào phòng, kéo rèm trông tin chim thước rồi lại rủ rèm. Những hành động bất nghĩa ấy được lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn nhọc lòng mình đang làm gì do tâm khảm nàng giờ dồn hết vào người chồng đang nơi mặt trận biên cửa ải bóng gió.

“Ngoài rèm thước chẳng méc tin,

Trong rèm nhường nhịn đã có đèn biết chăng?”

Không gian càng ngày càng tù đọng túng. Với nàng, không gian lúc này chỉ được xác định bằng địa điểm của tấm rèm “trong rèm”, “ngoài rèm” nhưng thôi. Không gian càng thu hẹp như tâm cảnh của người chinh phụ lúc này càng ngày càng chìm trong cô độc. Nàng thèm khát được đồng cảm, sẻ chia mong tin chim thước tới báo tin chồng trở về mà chim thước nào có tới, mong ngọn đèn hiểu thấu và soi tỏ nỗi lòng mình mà đèn lại vô tri vô giác chẳng thể cùng người yên ủi, sẻ chia nỗi bi tráng cô lẻ.

Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mỏi mòn chờ mong nàng càng hụt hẫng, vô vọng. Khát khao đoàn viên đoàn viên, thèm khát hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng cực khổ, thuyệt vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp lại ba càng đẩy nàng vào thất vọng, cái thất vọng của xã hội phong kiến suy vong, của triều đình kháng chiến khiến niềm tin của nhân loại về tình ái, hạnh phúc không còn giá trị. Có thể thấy, phân tách 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ khiến ta đồng cảm và nâng niu xiết bao về số mệnh cũng như tâm cảnh mỏi mòn đợi chồng của những người thiếu phụ xưa.

Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối đơn chiếc thanh u kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm game thủ với đèn điện. Nhưng ngay ở câu thơ sau nàng lại phủ nhận:

“Đèn có biết nhường nhịn bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi lụy nhưng thôi.”

Do đèn vô tri chỉ có thể soi tỏ bóng vía đơn độc của nàng mà làm sao có thể san sẻ được. Tấm lòng này chỉ có một mình mình biết, một mình mình hay. Trong quá trình cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, ta thấy từ “bi lụy” là một động từ mạnh cực tả cảm giác đơn chiếc và sự thèm khát được đồng cảm của chinh phụ trong đêm vắng.

Điệp ngữ bắc cầu “Đèn biết chăng” – “đèn có biết” đã góp phần cho thấy biên độ nỗi nhớ trong nàng gia tăng. Hình ảnh ngọn đèn không chỉ làm nổi trội sự đơn độc thèm khát san sẻ của nàng nhưng còn là nhân chứng cho thấy người chinh phụ đã thao thức canh dài. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn nhưng ẩn dụ sự trôi đi nhanh lẹ của thời kì, sự tàn lụi, héo hắt của kiếp người. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, ta đột nhiên nhớ tới ngọn đèn với nỗi nhớ tình ái ấy trong bài ca dao “Khăn nhớ thương ai”

“Đèn nhớ thương ai

Nhưng đèn không tắt?

Mắt nhớ thương ai

Mắt ngủ không im

Đêm qua em những lo phiền

Lo do một nỗi không im một bề”

[Ca dao]

Hình ảnh ngọn đèn trong bài ca dao cũng nói về nỗi nhớ của cô gái trong tình ái và những thấp thỏm băn khoăn về ngày mai. Thế mà, nếu cô gái trong bài ca dao trên nỗi thấp thỏm chỉ dừng lại ở liệu tương lai có cái kết viên mãn cho mối tình thế hệ chớm thì nỗi lo của người chinh phụ là sự sinh ly tử biệt. Do lẽ chiến tranh xảy ra, mấy người đi có mấy người trở về?. Khát khao thấu hiểu san sẻ để rồi nhận ra thực tế phũ phàng không ai có thể cùng nàng san sẻ đồng cảm. Nỗi nhớ cứ thế nhưng tăng dần và nàng cũng càng thêm đơn độc…

“Buồn rầu nói chẳng nên lời

Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Từ thuần việt “bi tráng rầu” đã diễn đạt sống động và sinh động nỗi bi tráng của người chinh phụ trong phút giây này. “Nói chẳng nên lời” do nỗi bi tráng liên miên chẳng thể diễn đạt được hay do nói ra cũng chẳng ai sẽ chia. Nàng giờ đây một mình đơn chiếc không chỉ trong không gian nhưng còn trong cả tâm tứ. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, người đọc cũng nhận ra cụm từ “hoa đèn” cho thấy đêm đã gần tàn, người chinh phụ đã ngồi trước đèn điện ấy rất lâu. Nỗi nhớ trào dâng như chính tâm cảnh của những cô gái trong câu ca dao:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ hiện thời nhớ ai”

[Ca dao]

Hay những vần ca dao:

“Nhớ ai bồi hồi bổi hổi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

[Ca dao]

Nhưng với những cô gái trong ca dao trên đó là nỗi nhớ tương tứ thèm khát gặp mặt mặt trong tình ái. Còn đối với người chinh phụ đó không thuần tuý là nỗi nhớ nhưng còn là sự bất an, thấp thỏm cho người chinh cu li. Do giữa thời buổi kháng chiến, nhà có người đi quân nhân, ‘họa có mấy khi có người về báo tin mặt trận.

Như người xưa từ nói “Kim cổ chinh chiến kỷ nhân hồi?”. Không nghe tin chồng nàng chỉ có thể hy vọng trong lúng túng, nàng như chết dần chết mòn do sự bi lụy trong lòng, sự bi lụy tới từ nỗi mong đợi trong cô lẻ, miên man. “Bóng người” ở đây chính là bóng người chinh phụ chờ chồng trông thương nhớ hay chính là hình ảnh người chinh phụ héo hắt, tàn tã chờ chồng giống như cái bóng mòn mỏi, như hoa đang lụi tàn dần. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, ta cũng thấy tâm cảnh ấy phần nào giống với nàng Kiều

“Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình bóng gió”

[Truyện Kiều – Nguyễn Du]

Như vậy, các nhân tố ngoại cảnh đã nói hộ cho nỗi lòng vò võ của chinh phụ ngóng chồng đi chinh chiến. Ngọn đèn tắt, bỏ lại sức chinh phụ đơn độc trong đêm dài thanh u u sầu. Nỗi đơn chiếc chứa chan không gian và kéo dài bất tận theo thời kì luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng. Cảnh vật bao quanh chẳng thể chia sẻ nhưng trái lại như cộng hưởng với nỗi sầu liên miên của người chinh phụ, khiến nàng càng đau đớn, sầu tủi. Có thể thấy rằng, khi cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, ta cũng nhận ra số mệnh cùng nỗi đơn chiếc tới khốn cùng của những người thiếu phụ…

3.2. Bài văn mẫu số 2

Đặng Trần Côn là một tác giả nhiều người biết đến do tài nghệ văn học nổi tiếng gắn liền với nhiều công trình mang đậm giá trị thời đại. Trong đó, “Chinh phụ ngâm” là một công trình thuộc chuyên mục ngâm khúc đã làm nên danh tiếng của ông do giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo thâm thúy. Đoạn trích “Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ” chính là một phần của công trình này, nó biểu lộ nỗi mong nhớ da diết của người chinh phụ khi chồng chinh chiến nơi sa trường. Khác lạ, tám câu thơ đầu của đoạn trích sẽ giúp người đọc cảm nhận thâm thúy nhất về cảnh ngộ trống trải cùng những cung bậc cảm xúc của anh hùng trữ tình.

Mở màn đoạn trích là tâm cảnh rối bời của người chinh phụ được biểu lộ qua những hành động vô thức:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Đây phải chăng là lời than vãn miên man, da diết của người thiếu phụ có chồng đang chinh chiến nơi sa trường. Tác giả đã dùng văn pháp mô tả nội tâm duyệt y ngoại cảnh để mô tả hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, không có mục tiêu của người chinh phụ. Qua hành động đó, ta như tưởng tượng được dáng vẻ bi tráng rầu, không nói nên lời của người chinh phụ nơi hiên vắng đờ đẫn đợi chồng về từ phương xa.

Bấy giờ đã là chiều tối – khoảng thời kì bi đát, hắt hiu nhất của một ngày – người chinh phụ lại đang gieo từng bước nơi hiên im thin thít. Chính không gian, thời kì đó đã tô đậm bước chân đơn chiếc, quạnh vắng vắng của người chinh phụ. Trong khuông cảnh đó, người ta đang đoàn tụ bên gia đình sau một ngày dài, thì người chinh phụ lại chỉ có một mình lẻ bóng, không có chồng cạnh bên vỗ về.

Cảm giác trống trải nhường nhịn như phong toả nơi trái tim người thiếu phụ, làm cho bước chân của nàng cũng thật chậm chạp rãi và mỏi mệt. Mỗi một bước chân là một tiếng thở dài cho những nỗi chất chứa trong lòng, cho nỗi ưu tứ muộn phiền của người thiếu phụ đang ngóng trông tin chồng trở về. Nhưng rồi, người chinh phụ chỉ có thể quặn thắt lòng do do đáp lại cũng chỉ là tiếng bước chân lặng lẽ của mình.

Hành động buông rèm của người chinh phụ cũng là một hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, chẳng có mục tiêu rõ ràng. Đó phải chăng là hành động che lấp đi sự tù đọng túng, sốt ruột của người thiếu phụ? Hay là nỗi nhớ nhung da diết đan xen với sự thấp thỏm cho an nguy của chồng mình? Nỗi nhớ da diết cùng sự ngóng trông tin chồng như dồn nén ở người chinh phụ, để rồi tô đậm cảm giác đơn chiếc bi tráng tủi của nàng. Nhưng rồi, càng ngóng trông, đáp lại nàng vẫn là hiện thực đau thương.

“Ngoài rèm thước chẳng méc tin

Trong rèm nhường nhịn đã có đèn biết chăng”

Thước là một loài chim báo tin người đi xa trở về. Nhưng mặc cho người đang ngóng chờ, thước lúc này lại yên ổn bặt làm cho nỗi nhớ cùng nỗi khắc khoải trông chờ của lòng người càng tăng lên gấp bội. Chim thước chưa méc tin, người chồng nơi xa vẫn chưa trở về, làm sao nguôi được nỗi đau quặn thắt này? Nỗi đau ấy quá to khiến nàng càng có thèm khát được sẻ chia, được hàn ôn, được đồng cảm. Nhưng, đối diện với khuông cảnh đau thương này, làm game thủ với nàng cũng chỉ có ngọn đèn leo heo.

Sự đơn chiếc tới tột đỉnh đã khiến nàng phải tự hỏi, liệu ngọn đèn ấy có hiểu thấu lòng nàng, có chiếu sáng được tâm tư rối bời của nàng, có sưởi ấm được sự nguội lạnh quạnh hiu của nàng? Nó có hiểu được sức nặng của đơn chiếc, có từng biết sự nhung nhớ dồn nén cực khổ tới mức nào? Đương nhiên, ngọn đèn chỉ là một vật vô tri vô giác, nó làm sao hiểu được lòng người. Đối diện với điều đó, nàng vẫn muốn tỏ bày nỗi lòng của mình, hay đó chính là lời than vãn, là hi vọng của nàng khiến nàng day hoàn thành không im?

“Đèn có biết nhường nhịn bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi lụy nhưng thôi”

Hình ảnh đèn được lặp lại nhị lần như biểu lộ sự giải tỏa hàn ôn với ngọn đèn của người chinh phụ, mà một ngọn đèn vô tri vô giác làm sao hiểu rõ cảm giác đơn chiếc, bi tráng tủi ấy. Vậy nên, nàng chỉ có thể ủ ấp mọi thứ gói vào lòng, để rồi nhìn ngọn đèn leo heo trong màn đêm lạng lẽ, nỗi đau lại chồng thêm nỗi đau. Ngọn đèn là hình ảnh gợi nên sự đoàn tụ, rét mướt của gia đình, mà với người chinh phụ, nó lại càng khắc sâu vào tim nàng nỗi đơn chiếc, khắc khoải, rối bời.

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Người chinh phụ bi tráng rầu nói chẳng nên lời, nàng chả bi tráng nói, cũng chả muốn cười. Bên cạnh nàng giờ đây chỉ còn lại hoa đèn, đơn chiếc tới đáng thương

Hoa đèn là hình ảnh hoàn thành cho tám câu thơ trước tiên của đoạn trích. Hoa đèn là đầu bấc đèn dầu đã cháy như than, mà nó được nung đỏ lên nên trông như hoa, hay chính lòng nàng đang cháy tới tàn đỏ như hoa đèn kia. Trong bóng đêm phủ do sự lạng lẽ dằng dặc, người chinh phụ chỉ có thể hàn ôn, chuyện trò với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình. Phcửa ải đơn chiếc, cực khổ tới bao nhiêu thì thế hệ phải tìm tới những thứ vô tri vô giác nhưng trải lòng mình?

Qua đoạn trích trên, tác giả đã dùng một cách tài hoa văn pháp nghệ thuật ước lệ, liên kết thể thơ song thất lục bát cùng giọng thơ nhẹ nhõm thiết tha, tiết điệu chậm chạp rãi đã đặc tả được tâm cảnh của người chinh phụ với những mạch cảm xúc và cung bậc không giống nhau. Từ đó, nỗi đơn chiếc cùng lòng nhớ thương chồng da diết đã bùng cháy thèm khát cháy bỏng được sống hạnh phúc hoàn toản bên người mình thương.

Khác lạ, đoạn trích đã mang tới những giá trị nhân bản cao đẹp khi lên án trận chiến tranh bất chính cùng những mực thước khắc nghiệt của phong kiến đã tước đoạt đi quyền được hạnh phúc của rất nhiều người thiếu phụ xưa.

—–Mod Ngữ văn soạn và tổng hợp—–

Phân tích 8 câu cuối bài Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ

631

Tâm cảnh của người chinh phụ trong đoạn trích Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ

32080

Phân tích đoạn trích Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ của Đặng Trần Côn

5752

#Phân #tích #câu #đầu #bài #Tình #cảnh #lẻ #loi #của #người #chinh #phụ

[rule_2_plain]

#Phân #tích #câu #đầu #bài #Tình #cảnh #lẻ #loi #của #người #chinh #phụ

[rule_2_plain]

#Phân #tích #câu #đầu #bài #Tình #cảnh #lẻ #loi #của #người #chinh #phụ

[rule_3_plain]

#Phân #tích #câu #đầu #bài #Tình #cảnh #lẻ #loi #của #người #chinh #phụ

Bài văn mẫu Phân tích 8 câu đầu bài Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ dưới đây nhằm giúp các em cảm thu được những sâu lắng về nỗi bi tráng, sự đơn chiếc của người chinh phụ trong cảnh hy vọng mòn mỏi. Mời các em cùng tham khảo nhé! Ngoài ra, để làm giàu có thêm tri thức cho phiên bản thân, các em có thể tham khảo thêm bài giảng Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ.

1. Lược đồ tóm lược gợi ý

2. Dàn bài cụ thể

a. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, công trình, đoạn trích và 8 câu đầu của Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ.

b. Thân bài:

* Hành động của người chinh phụ

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen

– Người chinh phụ vừa đi vừa đếm bước chân mình, như đang đếm từng ngày xa chồng.

– Những bước chân của người chinh phụ tưởng như âm thầm, mà lại mang theo nỗi ưu phiền, thấp thỏm cho người chồng ở nơi mặt trận.

=> Đó là những bước chân trĩu nặng tâm tứ, sự nhớ thương và nỗi xót xa.

– Người chinh phụ ngồi bên cửa sổ, hết buông lại cuốn rèm như một hành động vô thức, lặp đi lặp lại.

=> Nàng không tinh thần được mình đang làm gì, do đã dồn hết tâm tứ, sự thấp thỏm, nhớ nhung cho người chồng nơi biên cửa ải chẳng biết khi nào thế hệ về.

– Tính từ “vắng”, “thưa” tạo nên sự trống vắng cho không gian, tô đậm sự bi tráng tủi, đơn chiếc của người chinh phụ.

– Dùng từ “từng”, “đòi” càng nhấn mạnh sự lặp lại vô thức những hành động bất nghĩa của người chinh phụ.

=> Hành động của người chinh phụ biểu lộ những bề bộn thấp thỏm, nỗi bi tráng phiền và tấm lòng son sắt nhưng nàng dành cho người chồng.

* Ngoại cảnh: 6 câu tiếp theo

– Chim thước: loài chim báo tin người đi xa trở về.

– Người chinh phụ ngóng chờ bóng chim thước qua bức rèm thưa.

– Nhìn về thực tế với những nỗi nhớ, sự mong ngóng, hoài vọng đoàn viên đều xa vời, không được phúc âm, người chinh phụ càng thêm tuyệt vọng.

– Khi đối diện với ánh đèn, người chinh phụ khát khao được mến thương và sẻ chia, câu hỏi tu từ khi ngồi trước ngọn đèn dầu chính là một lời than vãn, tỏ bày sự ngao ngán, đơn chiếc đan xen với vô vọng.

– Hình ảnh ngọn đèn là một hình ảnh thân thuộc, hiện ra nhiều trong các công trình văn chương trung đại.

– Trong đoạn trích, ngọn đèn được dùng để ẩn dụ cho thời kì trôi nhanh, ẩn dụ cho sự lụi tàn, héo hắt của một kiếp người.

=> Cuộc đời như một kiếp hoa đèn mỏng manh dang dở.

* Hình ảnh hy vọng của người chinh phụ

– Người chinh phụ thức trắng đêm cùng ngọn đèn do xót xa cho cảnh ngộ của chính mình. Nhưng thời kì trôi qua, ngọn đèn cũng chẳng thức cùng nàng, chỉ để lại bóng vía cô độc của người chinh phụ.

– Tính từ “bi lụy”, “bi tráng rầu”, “thương” biểu lộ tâm cảnh não nại của người chinh phụ:

Bi thiết là bi tráng, thảm thiết, là nỗi đau chẳng thể nói thành lời, là thèm khát được thấu hiểu, được sẻ chia mà lại chẳng có ai để cùng hàn ôn.
Thiết tha là cắt, mài [theo nghĩa Hán Việt]: biểu lộ nỗi đau chôn giấu tạo nên vết cắt sâu trong tâm não.

=> Nỗi đau. sự bi tráng tủi, khắc khoải của nàng mãi dồn nén trong tim, để rồi cứa vào trái tim đơn chiếc, khiến nỗi đau càng dày thêm theo từng ngày ngóng chờ bóng tình nhân đang chinh chiến nơi mặt trận hiểm ác hiểm.

* Nghệ thuật:

– Văn pháp nghệ thuật ước lệ liên kết thể thơ song thất lục bát cùng nhịp thơ chậm chạp rãi đã biểu lộ những mạch cảm xúc mang cung bậc không giống nhau của người chinh phụ.

– Đoạn trích dùng nghệ thuật mô tả tâm trạng bằng ngoại cảnh cùng nhiều tính từ chỉ cảm xúc.

=> Tác giả đã chiến thắng thành lập hình ảnh người chinh phụ mang suy tứ rối bời, tâm cảnh héo mòn chạm tới trái tim người đọc. Song song, gợi nên sự đồng cảm thâm thúy đối với những người thiếu phụ nặng tình mong ngóng bóng vía người chồng đang nhập cuộc những trận chiến tranh bất chính [giá trị nhân đạo].

c. Kết bài:

– Nêu giá trị của đoạn trích cùng 8 câu đầu trong “Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ”.

3. Bài văn mẫu

Đề bài: Phân tích 8 câu đầu bài Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ dưới dạng một bài văn ngắn.

GỢI Ý LÀM BÀI

3.1. Bài văn mẫu số 1

Ái tình luôn là chủ đề muôn đời trong văn chương và cũng là nguồn cảm hứng vô tận của thi nhân. Nếu tình ái trong thời bình gắn với những ngọt ngào, thơ mộng, thì tình ái trong thời chiến lại gắn liền với sự hy vọng mòn mỏi và sự biệt ly cực khổ. Nếu thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán thù ghét chiến tranh bất chính, thông cảm cho tâm cảnh người đàn bà phòng khuê nhưng viết nên những vần thơ xúc động:

“Khuê trung đàn bà bất tri sầu

Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu

Hốt kiến mạch đầu dương liễu dung nhan

Hối hận giao cu li tế mịch phong hầu”

[Khuê oán thù – Vương Xương Linh]

Thì trong thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn đã thông cảm thâm thúy trước số mệnh những người thiếu phụ có chồng đi quân nhân nhưng làm nên kiệt tác “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ” thuộc công trình trên đã chạm tới cùng tận trái tim người đọc khi tái tạo tình cảnh cô độc, nỗi thương nhớ da diết của người thiếu phụ khi có chồng ra trận cùng với mơ ước về hạnh phúc đoàn viên. Điều ấy được đặc tả trong 8 câu đầu đoạn trích “Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ”.

“Chinh phụ ngâm” ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, khi phong trào khởi nghĩa dân cày diễn ra triền miên, triều đình điều binh quân nhân đi dẹp loàn. Điều đó dẫn tới việc nhiều gia đình rơi vào cảnh ly biệt kẻ ở người đi, hoàng hậu mất chồng, mẹ mất con. Số mệnh và thảm kịch của những nhân loại nhỏ dại bé xíu trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã biến chuyển trái tim của Đặng Trần Côn.

Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ lẻ loi chốn khuê phòng im thin thít, lạnh mát, nỗi khổ tâm của nàng được biểu lộ qua hành động và ngoại cảnh.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Không gian “hiên vắng”, “ngoài rèm”, “trong rèm” là không gian chật hẹp, tù đọng túng im thin thít và hiu hắt chỉ có vang vọng tiếng bước chân của người lẻ bóng. Đây là một không gian nghệ thuật đã góp phần biểu lộ tâm cảnh của người chinh phụ. Không gian im thin thít lúc này là để bày tỏ nỗi lòng mình và càng tô đậm thêm sự lẻ bóng của nàng.

“Hiên vắng” do lẽ không có người cần thiết nhất kề bên nàng lúc này. Tâm cảnh người chinh phụ đơn chiếc, độc thân trải dài khắp không thời kì. Ở mọi không gian, phút giây người chinh phụ đều chỉ một mình một bóng. Người chinh phụ dạo bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi.

Qua 8 câu thơ đầu ta thấy những bước chân âm thầm của nàng trĩu nặng u sầu, đong đầy nhớ thương, như bước chân người nô tỳ trong “Cung oán thù ngâm” của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngơ ngẩn”. Sự hoảng sợ, khắc khoải, trông mong được khắc họa qua những hành động lặp đi, lặp lại, hết đứng lại ngồi, hết ra ngoài hiên rồi lại bước vào phòng, kéo rèm trông tin chim thước rồi lại rủ rèm. Những hành động bất nghĩa ấy được lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn nhọc lòng mình đang làm gì do tâm khảm nàng giờ dồn hết vào người chồng đang nơi mặt trận biên cửa ải bóng gió.

“Ngoài rèm thước chẳng méc tin,

Trong rèm nhường nhịn đã có đèn biết chăng?”

Không gian càng ngày càng tù đọng túng. Với nàng, không gian lúc này chỉ được xác định bằng địa điểm của tấm rèm “trong rèm”, “ngoài rèm” nhưng thôi. Không gian càng thu hẹp như tâm cảnh của người chinh phụ lúc này càng ngày càng chìm trong cô độc. Nàng thèm khát được đồng cảm, sẻ chia mong tin chim thước tới báo tin chồng trở về mà chim thước nào có tới, mong ngọn đèn hiểu thấu và soi tỏ nỗi lòng mình mà đèn lại vô tri vô giác chẳng thể cùng người yên ủi, sẻ chia nỗi bi tráng cô lẻ.

Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mỏi mòn chờ mong nàng càng hụt hẫng, vô vọng. Khát khao đoàn viên đoàn viên, thèm khát hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng cực khổ, thuyệt vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp lại ba càng đẩy nàng vào thất vọng, cái thất vọng của xã hội phong kiến suy vong, của triều đình kháng chiến khiến niềm tin của nhân loại về tình ái, hạnh phúc không còn giá trị. Có thể thấy, phân tách 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ khiến ta đồng cảm và nâng niu xiết bao về số mệnh cũng như tâm cảnh mỏi mòn đợi chồng của những người thiếu phụ xưa.

Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối đơn chiếc thanh u kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm game thủ với đèn điện. Nhưng ngay ở câu thơ sau nàng lại phủ nhận:

“Đèn có biết nhường nhịn bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi lụy nhưng thôi.”

Do đèn vô tri chỉ có thể soi tỏ bóng vía đơn độc của nàng mà làm sao có thể san sẻ được. Tấm lòng này chỉ có một mình mình biết, một mình mình hay. Trong quá trình cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, ta thấy từ “bi lụy” là một động từ mạnh cực tả cảm giác đơn chiếc và sự thèm khát được đồng cảm của chinh phụ trong đêm vắng.

Điệp ngữ bắc cầu “Đèn biết chăng” – “đèn có biết” đã góp phần cho thấy biên độ nỗi nhớ trong nàng gia tăng. Hình ảnh ngọn đèn không chỉ làm nổi trội sự đơn độc thèm khát san sẻ của nàng nhưng còn là nhân chứng cho thấy người chinh phụ đã thao thức canh dài. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn nhưng ẩn dụ sự trôi đi nhanh lẹ của thời kì, sự tàn lụi, héo hắt của kiếp người. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, ta đột nhiên nhớ tới ngọn đèn với nỗi nhớ tình ái ấy trong bài ca dao “Khăn nhớ thương ai”

“Đèn nhớ thương ai

Nhưng đèn không tắt?

Mắt nhớ thương ai

Mắt ngủ không im

Đêm qua em những lo phiền

Lo do một nỗi không im một bề”

[Ca dao]

Hình ảnh ngọn đèn trong bài ca dao cũng nói về nỗi nhớ của cô gái trong tình ái và những thấp thỏm băn khoăn về ngày mai. Thế mà, nếu cô gái trong bài ca dao trên nỗi thấp thỏm chỉ dừng lại ở liệu tương lai có cái kết viên mãn cho mối tình thế hệ chớm thì nỗi lo của người chinh phụ là sự sinh ly tử biệt. Do lẽ chiến tranh xảy ra, mấy người đi có mấy người trở về?. Khát khao thấu hiểu san sẻ để rồi nhận ra thực tế phũ phàng không ai có thể cùng nàng san sẻ đồng cảm. Nỗi nhớ cứ thế nhưng tăng dần và nàng cũng càng thêm đơn độc…

“Buồn rầu nói chẳng nên lời

Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Từ thuần việt “bi tráng rầu” đã diễn đạt sống động và sinh động nỗi bi tráng của người chinh phụ trong phút giây này. “Nói chẳng nên lời” do nỗi bi tráng liên miên chẳng thể diễn đạt được hay do nói ra cũng chẳng ai sẽ chia. Nàng giờ đây một mình đơn chiếc không chỉ trong không gian nhưng còn trong cả tâm tứ. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, người đọc cũng nhận ra cụm từ “hoa đèn” cho thấy đêm đã gần tàn, người chinh phụ đã ngồi trước đèn điện ấy rất lâu. Nỗi nhớ trào dâng như chính tâm cảnh của những cô gái trong câu ca dao:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai ai nhớ hiện thời nhớ ai”

[Ca dao]

Hay những vần ca dao:

“Nhớ ai bồi hồi bổi hổi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

[Ca dao]

Nhưng với những cô gái trong ca dao trên đó là nỗi nhớ tương tứ thèm khát gặp mặt mặt trong tình ái. Còn đối với người chinh phụ đó không thuần tuý là nỗi nhớ nhưng còn là sự bất an, thấp thỏm cho người chinh cu li. Do giữa thời buổi kháng chiến, nhà có người đi quân nhân, ‘họa có mấy khi có người về báo tin mặt trận.

Như người xưa từ nói “Kim cổ chinh chiến kỷ nhân hồi?”. Không nghe tin chồng nàng chỉ có thể hy vọng trong lúng túng, nàng như chết dần chết mòn do sự bi lụy trong lòng, sự bi lụy tới từ nỗi mong đợi trong cô lẻ, miên man. “Bóng người” ở đây chính là bóng người chinh phụ chờ chồng trông thương nhớ hay chính là hình ảnh người chinh phụ héo hắt, tàn tã chờ chồng giống như cái bóng mòn mỏi, như hoa đang lụi tàn dần. Khi cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, ta cũng thấy tâm cảnh ấy phần nào giống với nàng Kiều

“Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình bóng gió”

[Truyện Kiều – Nguyễn Du]

Như vậy, các nhân tố ngoại cảnh đã nói hộ cho nỗi lòng vò võ của chinh phụ ngóng chồng đi chinh chiến. Ngọn đèn tắt, bỏ lại sức chinh phụ đơn độc trong đêm dài thanh u u sầu. Nỗi đơn chiếc chứa chan không gian và kéo dài bất tận theo thời kì luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng. Cảnh vật bao quanh chẳng thể chia sẻ nhưng trái lại như cộng hưởng với nỗi sầu liên miên của người chinh phụ, khiến nàng càng đau đớn, sầu tủi. Có thể thấy rằng, khi cảm nhận 8 câu đầu bài cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ, ta cũng nhận ra số mệnh cùng nỗi đơn chiếc tới khốn cùng của những người thiếu phụ…

3.2. Bài văn mẫu số 2

Đặng Trần Côn là một tác giả nhiều người biết đến do tài nghệ văn học nổi tiếng gắn liền với nhiều công trình mang đậm giá trị thời đại. Trong đó, “Chinh phụ ngâm” là một công trình thuộc chuyên mục ngâm khúc đã làm nên danh tiếng của ông do giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo thâm thúy. Đoạn trích “Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ” chính là một phần của công trình này, nó biểu lộ nỗi mong nhớ da diết của người chinh phụ khi chồng chinh chiến nơi sa trường. Khác lạ, tám câu thơ đầu của đoạn trích sẽ giúp người đọc cảm nhận thâm thúy nhất về cảnh ngộ trống trải cùng những cung bậc cảm xúc của anh hùng trữ tình.

Mở màn đoạn trích là tâm cảnh rối bời của người chinh phụ được biểu lộ qua những hành động vô thức:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Đây phải chăng là lời than vãn miên man, da diết của người thiếu phụ có chồng đang chinh chiến nơi sa trường. Tác giả đã dùng văn pháp mô tả nội tâm duyệt y ngoại cảnh để mô tả hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, không có mục tiêu của người chinh phụ. Qua hành động đó, ta như tưởng tượng được dáng vẻ bi tráng rầu, không nói nên lời của người chinh phụ nơi hiên vắng đờ đẫn đợi chồng về từ phương xa.

Bấy giờ đã là chiều tối – khoảng thời kì bi đát, hắt hiu nhất của một ngày – người chinh phụ lại đang gieo từng bước nơi hiên im thin thít. Chính không gian, thời kì đó đã tô đậm bước chân đơn chiếc, quạnh vắng vắng của người chinh phụ. Trong khuông cảnh đó, người ta đang đoàn tụ bên gia đình sau một ngày dài, thì người chinh phụ lại chỉ có một mình lẻ bóng, không có chồng cạnh bên vỗ về.

Cảm giác trống trải nhường nhịn như phong toả nơi trái tim người thiếu phụ, làm cho bước chân của nàng cũng thật chậm chạp rãi và mỏi mệt. Mỗi một bước chân là một tiếng thở dài cho những nỗi chất chứa trong lòng, cho nỗi ưu tứ muộn phiền của người thiếu phụ đang ngóng trông tin chồng trở về. Nhưng rồi, người chinh phụ chỉ có thể quặn thắt lòng do do đáp lại cũng chỉ là tiếng bước chân lặng lẽ của mình.

Hành động buông rèm của người chinh phụ cũng là một hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, chẳng có mục tiêu rõ ràng. Đó phải chăng là hành động che lấp đi sự tù đọng túng, sốt ruột của người thiếu phụ? Hay là nỗi nhớ nhung da diết đan xen với sự thấp thỏm cho an nguy của chồng mình? Nỗi nhớ da diết cùng sự ngóng trông tin chồng như dồn nén ở người chinh phụ, để rồi tô đậm cảm giác đơn chiếc bi tráng tủi của nàng. Nhưng rồi, càng ngóng trông, đáp lại nàng vẫn là hiện thực đau thương.

“Ngoài rèm thước chẳng méc tin

Trong rèm nhường nhịn đã có đèn biết chăng”

Thước là một loài chim báo tin người đi xa trở về. Nhưng mặc cho người đang ngóng chờ, thước lúc này lại yên ổn bặt làm cho nỗi nhớ cùng nỗi khắc khoải trông chờ của lòng người càng tăng lên gấp bội. Chim thước chưa méc tin, người chồng nơi xa vẫn chưa trở về, làm sao nguôi được nỗi đau quặn thắt này? Nỗi đau ấy quá to khiến nàng càng có thèm khát được sẻ chia, được hàn ôn, được đồng cảm. Nhưng, đối diện với khuông cảnh đau thương này, làm game thủ với nàng cũng chỉ có ngọn đèn leo heo.

Sự đơn chiếc tới tột đỉnh đã khiến nàng phải tự hỏi, liệu ngọn đèn ấy có hiểu thấu lòng nàng, có chiếu sáng được tâm tư rối bời của nàng, có sưởi ấm được sự nguội lạnh quạnh hiu của nàng? Nó có hiểu được sức nặng của đơn chiếc, có từng biết sự nhung nhớ dồn nén cực khổ tới mức nào? Đương nhiên, ngọn đèn chỉ là một vật vô tri vô giác, nó làm sao hiểu được lòng người. Đối diện với điều đó, nàng vẫn muốn tỏ bày nỗi lòng của mình, hay đó chính là lời than vãn, là hi vọng của nàng khiến nàng day hoàn thành không im?

“Đèn có biết nhường nhịn bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi lụy nhưng thôi”

Hình ảnh đèn được lặp lại nhị lần như biểu lộ sự giải tỏa hàn ôn với ngọn đèn của người chinh phụ, mà một ngọn đèn vô tri vô giác làm sao hiểu rõ cảm giác đơn chiếc, bi tráng tủi ấy. Vậy nên, nàng chỉ có thể ủ ấp mọi thứ gói vào lòng, để rồi nhìn ngọn đèn leo heo trong màn đêm lạng lẽ, nỗi đau lại chồng thêm nỗi đau. Ngọn đèn là hình ảnh gợi nên sự đoàn tụ, rét mướt của gia đình, mà với người chinh phụ, nó lại càng khắc sâu vào tim nàng nỗi đơn chiếc, khắc khoải, rối bời.

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Người chinh phụ bi tráng rầu nói chẳng nên lời, nàng chả bi tráng nói, cũng chả muốn cười. Bên cạnh nàng giờ đây chỉ còn lại hoa đèn, đơn chiếc tới đáng thương

Hoa đèn là hình ảnh hoàn thành cho tám câu thơ trước tiên của đoạn trích. Hoa đèn là đầu bấc đèn dầu đã cháy như than, mà nó được nung đỏ lên nên trông như hoa, hay chính lòng nàng đang cháy tới tàn đỏ như hoa đèn kia. Trong bóng đêm phủ do sự lạng lẽ dằng dặc, người chinh phụ chỉ có thể hàn ôn, chuyện trò với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình. Phcửa ải đơn chiếc, cực khổ tới bao nhiêu thì thế hệ phải tìm tới những thứ vô tri vô giác nhưng trải lòng mình?

Qua đoạn trích trên, tác giả đã dùng một cách tài hoa văn pháp nghệ thuật ước lệ, liên kết thể thơ song thất lục bát cùng giọng thơ nhẹ nhõm thiết tha, tiết điệu chậm chạp rãi đã đặc tả được tâm cảnh của người chinh phụ với những mạch cảm xúc và cung bậc không giống nhau. Từ đó, nỗi đơn chiếc cùng lòng nhớ thương chồng da diết đã bùng cháy thèm khát cháy bỏng được sống hạnh phúc hoàn toản bên người mình thương.

Khác lạ, đoạn trích đã mang tới những giá trị nhân bản cao đẹp khi lên án trận chiến tranh bất chính cùng những mực thước khắc nghiệt của phong kiến đã tước đoạt đi quyền được hạnh phúc của rất nhiều người thiếu phụ xưa.

—–Mod Ngữ văn soạn và tổng hợp—–

Phân tích 8 câu cuối bài Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ

631

Tâm cảnh của người chinh phụ trong đoạn trích Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ

32080

Phân tích đoạn trích Cảnh ngộ độc thân của người chinh phụ của Đặng Trần Côn

5752

Video liên quan

Chủ Đề